Archive
Các làn điệu hát ru dân ca ca dao mầm non
Các làn điệu hát ru dân ca ca dao mầm non
Có một điều kỳ diệu với làn điệu dân ca quan họ, tưởng chừng chỉ tồn tại, phát triển tại vùng Kinh Bắc thì nay, giữa thành phố mang tên Bác, quan họ đang từng ngày thấm dần vào tâm hồn của trẻ thơ.
Kể chuyện bé nghe “Chu du thiên hạ để học rùng mình”
Bài hát
Dựa trên các làn điệu hát ru dân ca ca dao sưu tầm
Giáo dục mầm non
1. Hát ru vùng đồng bằng Bắc Bộ :
À a à ơi….
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ còn đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được con trắm con trê
Cầm cổ lôi về nấu nướng cho cái ngủ ăn .
Cái ngủ nó ăn không hết ,
Để dành đến tết mồng ba.
Mèo già ăn trộm mèo ốm phải đòn …
À á a à ơi…
À á a à ơi…
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôpi có lòng nào ông hãy xào măng.
Có xáo thì xáo nước trong ,
Đừng xáo nước đục , đau lòng cò con .
À á a à ơi…
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra .
Một lòng thờ mẹ kính cha ,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con .
***
Con ơi muốn lên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha…
***
Con mèo con mẻo con meo
Ai dạy mày trèo chẳng dạy em tao
Mắt mày xanh sáng như sao
Móng mày sắc ngọt , tiếng ngao dậy trời
Con mèo con mẻo con meo
Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà .
***
Cái cò là cái cò vàng
Mẹ bé yêu bé , bé càng làm thơ
Cái cò bay bổng bay lơ
Lại đây chị gởi xôi khô cho chàng
Đem về chàng nấu chàng rang
Chàng ăn có dẻo thời chàng lấy ta
***
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
***
Phần cha không sữa con ơi
Để cha nhai cơm sún nước con ăn chơi cha nhờ
Con còn măng sữa bé thơ
Cha ru con ngủ ơ…hờ…năm canh.
Con cò lặn lội bờ sông
Mẹ đi tưới nước cho bông có đài
Trông trời , trông đát , trông mây
Trông cho lúa chín , hột sây , nặng nhành
***
Trông cho rau muống mau xanh
Để mẹ cắt nấu bát canh mặn mà
Mát lòng sau bữa rau cà
Con ơI, mau lớn nước nhà trong con.
***
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị , có chùa Tam Thanh .
Ai lên xứ Lạng cùng anh ,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em .
2. Hát ru vùng Bình Định :
À ơi con ngủ cho lâu,
Để mẹ đi chợ mua trầu , mua vôi…
3. Hát ru của vùng Tây Nguyên:
Ru em ! Em ngủ cho ngoan
Để mẹ đi chặt cây chuối mềm non .
Em ngủ đừng khóc nữa .
Ngoài đồng xa cha đang đi kiếm măng non .
Nín đi hỡi em ơi.
Nơi xa mẹ nhặt được nhiều ngọn rau non .
Đừng khóc nữa hỡi em ơi .
Ngủ đi ! hỡi em ơi …
4. Hát ru vùng Quảng Nam Đà Nẵng :
À ơi ! Ru con con ngủ cho muồi ,
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu .
Mẹ đi chợ Quán , chợ Cầu ,
Mua cau Bàn Lãnh , mua trầu Hội An…
Ờ ơ ờ ờ …
***
Ru em em ngủ cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mẹ đi chợ Quán , chợ Cầu
Mua cau chợ Dã, mua trầu chợ Dinh
***
Con quạ nó đứng chuồng heo
Nó kêu mẹ đúc bánh xèo chín chưa .
5. Hát ru của vùng Thanh hoá :
Con ơi con ngủ cho lành ,
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi .
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng .
6. Hát ru vùng Miền trung ;
Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi.
*
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều .
7. Hát ru của vùng Thái Bình :
À … ơi…
Con cò bay lả bay la,
Bay từ đồng nội bay ra đồng chiều .
Cò lặn, cò lội bao nhiêu…
Nào ai biết được cái diều cò no .
Biết cò còn phải bận lo,
Bắt tôm bắt tép về cho con mình .
8. Hát ru của người Hà Nội :
Gío đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương .
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây hồ .
9. Hát ru của vùng Thừa Thiên – Huế :
Mẹ bồng con lên ngồi cầu ái tử.
Vợ trông chồng đứng núi Vọng phu
Đêm năm canh nguyệt xế trăng lu,
Con ve ve kêu mùa hạ ,
Biết mấy thu cho gặp chàng .
10. Hát ru vùng đồng bằng Nam Bộ :
Ví dầu cầu ván đóng đinh ,
Cầu tre lắc lẻo,gập ghình khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường đời .
***
Con chim ham ăn thì mắc cái tròng ,
Người ham ăn mắc phải vòng gian nan.
Chưa giàu chớ có làm sang ,
Lên thang từng nấc, tuột thang mấy hồi .
***
11.Hát ru đan tộc Khơ me Nam Bộ :
Con ơi con ngủ cho say
Đêm thì mẹ ggối cánh tay con nằm
Ngày thì con gối lên chân
Có hơi ấm mẹ con càng ngủ ngon
Tiếng ru gửi gấm tình thương
Mong bình yên đến cho con mẹ mừng .
***
Trang chủ: thiết bị mầm non hà vũ
truyện mầm non sự tích hoa mào gà
truyện mầm non sự tích hoa mào gà
Kể chuyện bé nghe “Người nhạc sĩ lang thang”
Hoa mào gà
Ngày xưa chú gà nào cũng có một cái mào đỏ rất đẹp như mào các chú gà trống bây giờ. Một buổi sớm gà Mơ soi mình trong vũng nước và sung sướng thấy chiếc mào rực rỡ xoè trên đỉnh đầu như một chùm hoa đỏ rực. Gà Mơ khoan khoái đập cánh và hát bài hát quen thuộc của họ hàng nhà gà : “Cục ta cục tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc”.
Mọi vật quay ra nhìn Gà Mơ và cùng suýt xoa : “Chiếc mào mới xinh xắn làm sao; Trông Gà Mơ thật đáng yêu”. Gà Mơ đi tung tăng khắp nơi kiếm mồi. Nó đến bên bể nước và nghe thấy có tiếng khóc ti tỉ. Nó dừng lại nghiêng đầu, chớp chớp đôi mắt và lắng tai nghe. Thì ra có một cây mầu đỏ tía đang tấm tứt khóc một mình. Gà Mơ đang vui sướng, thấy bạn buồn, Mơ bỗng bối rối. Nó vội vàng chạy đến khẽ hỏi :
-Bạn sao thế ?
Cây rơi hạt nước mắt trong suốt như hạt sương xuống gốc và sụt sịt bảo :
-Các cây quanh đây, cây nào cũng có hoa mà chỉ có mỗi mình tôi không có hoa.
Chưa nói dứt câu, cây lại bật khóc, nước mắt cứ rơi xuống thánh thót. Gà Mơ an ủi bao nhiêu cũng không làm cây nín. Gà Mơ nghĩ một lúc rồi quyết định :
-Tôi cho bạn bông hoa đỏ trên đầu tôi nhé.
Cây sung sướng vẫy lá rối rít :
– Thế bạn cho tôi thật nhé ! Cám ơn bạn !
Sáng hôm sau, mọi người ngạc nhiên khi thấy chiếc áo mào đẹp đẽ của Gà Mơ biến đâu mất. Còn cái cây bên bể nước thì lại nở chùm hoa rực rỡ y hệt chiếc mào của Gà Mơ.
Cây hoa sung sướng đón ánh mặt trời nhuộm cho bông hoa thêm đỏ thắm. Cây khe khẽ kể cho mọi người nghe câu chuyện về lòng tốt của Gà Mơ. Thế là mọi người gọi cây hoa đó là cây hoa mào gà.
Trên đầu Gà Mơ bây giờ cũng nhú lên một chiếc mào mới nho nhỏ, xinh xinh rồi đấy.
Truyện Nhổ củ cải
Ngày xửa, ngày xưa có hai ông bà già và một cô cháu gái sống trong ngôi nhà bằng gỗ bên cạnh manh vườn xinh xắn. Trong nhà còn có một con Chó, một con Mèo và một chú Chuột nhắt.
Vào mùa thu, ông già mang về một cây củ cải nhỏ và trồng trong vườn. Ngày ngày, ông ra sức chăm chút cho cây. Sáng nào ông cũng cho cây cải uống một gáo nước. Chiều nào ông cũng bắt sâu, nhổ cỏ cho cây. Cây cải cũng không phụ lòng tốt của ông, nó lớn nhanh như thổi. Chẳng bao lâu nó trở thành một cây cải khổng lồ, to chưa từng thấy.
Một buổi sáng, ông già ra vườn định nhổ củ cải về cho bà già và cháu gái. Ông nhổ mãi, nhổ mãi mà cây cải không hề nhúc nhích. Ông gọi bà già: «Bà già ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!
» Cháu gái liền chạy lại kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải nhổ mãi, nhổ mãi vẫn không được. Bà già gọi cháu gái: «Cháu gái ơi! Mau lại đây! Mau giúp bà nhổ củ cải!
» Cháu gái liền chạy lại kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải nhổ mãi, nhổ mãi chẳng ăn thua gì. Cháu gái gọi Chó con:
«Chó con ơi! Mau lại đây! Mau giúp tôi nhổ củ cải!». Chó con chạy lại ngậm lấy bím tóc của cháu gái. Cháu kéo áo bà ba, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Kéo mãi nhổ mãi cây cải vẫn nằm ì ra. Mèo con gọi
Chuột nhắt: «Chuột nhắt ơi! Mau lại đây!Mau giúp tôi nhổ củ cải!» Chuột nhắt chạy lại, bám đuôi Mèo, Mèo cắn đuôi Chó, Chó ngậm biếm tóc cháu gái, cháu gái kéo áo bà, bà túm áo ông, ông nắm cây cải. Một, hai, ba… Cây cải gan lì đã bị kéo lên khỏi mặt đất.
Tất cả sung sướng, nhảy múa quanh vây cải:
«Nhổ cải lên! Nhổ cải lên!
Ái chà chà! Lên được rồi!»
Truyện kể mầm non Thơ truyện mầm non
Truyện kể mầm non Thơ truyện mầm non
truyện mầm non chủ đề giao thông, truyện kể mầm non, download truyện kể mầm non, thơ truyện mầm non, truyện mầm non chủ điểm giao thông, truyện mầm non chủ đề gia đình, truyện mầm non chủ đề thực vật, truyện mầm non giọt nước tí xíu
Kể chuyện bé nghe “Sự tích chiếc kèn môi”
CHÚ VỊT XÁM
Vịt mẹ dẫn Vịt con đi chơi. Trước khi đi, Vịt mẹ dặn:
– Các con phải đi theo mẹ, theo đàn, không được tách ra đi một mình mà con cáo ăn thịt đấy !
Đàn Vịt con vâng dạ rối rít.
Vừa ra khỏi cổng làng, chú Vịt Xám đã quên ngay lời mẹ dặn. Chú lẻn đi chơi một mình, lang thang hết nơi này đến nơi khác. Cuối cùng chú đến một cái ao có rất nhiều tôm cá. Đứng trên bờ nhìn xuống, chú thấy từng đàn cá, tôm bơi lội tung tăng dưới nước, thỉnh thoảng một con tôm cong mình nhảy tanh tách.
Thích quá, chú nhảy xuống mò lấy, mò để. Lúc ăn đã gần no, chú mới nhìn lên chẳng thấy Vịt mẹ đâu cả. Hoảng sơ, chú nhảy lên bờ gọi mẹ ầm ĩ : “Vít… vít… vít”. Gần đấy có một con cáo đang ngủ, nghe tiếng Vịt kêu, Cáo liền nhỏm dậy.
Nó lẩm bẩm
– Chà thịt vịt con ăn ngon lắm đấy ! Hôm nay mình sẽ được một bữa thịt vịt thật là ngon.
Nói rồi Cáo đi nhanh ra phía bờ ao. Khi Cáo vừa ra đến nơi thì cũng là lúc Vịt mẹ tìm thấy Vịt Xám. Trông thấy Cáo, Vịt mẹ vội dẫn Vịt Xám nhảy tùm xuống ao. Thế là Vịt Xám thoát chết.
Từ đấy Vịt Xám không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.
Bác Gấu đen và hai chú thỏ
Trời mưa to như trút nước. Gió thổi ào ào… bẻ gẫy cả cành cây. Gấu Đen đi chơi về bị ướt lướt thướt, nước mưa chảy ròng ròng xuống mặt Gấu. Gấu chạy mãi, chạy mãi trong rừng để tìm chỗ trú nhờ. Mai quá nhà của Thỏ Nâu đây rồi !
– Cốc. cốc. cốc.
Thỏ Nâu đang ngủ liền tỉnh dậy, gắt gỏng hỏi.
– Ai đấy ?
Bác Gấu Đen đây ! Mưa to quá, cho bác trú nhờ một đêm. Thỏ Nâu không mở cửa, nó cào nhàu :
– Không trú nhờ được đâu. Bác to quá, bác làm đổ nhà của cháu mất ! Gấu đen van nài :
– Bác không làm đổ nhà đâu. Bác vào rất nhẹ nhàng thôi !
– Nhẹ cũng đổ, không nhẹ cũng đổ : Bác đi đi !Thỏ Nâu vẫn nằm trong nhà nói vọng ra, nó nhất định không ra mở cửa. Gấu Đen buồn rầu. Nước mưa chảy ròng ròng xuống cổ Gấu Đen. Gấu Đen đi mãi, đi mãi, vừa mệt vừa rét. Bỗng nhiên Gấu Đen nhìn thấy có một ngôi nhà. Trong nhà thắp đèn sáng trưng. Có tiếng Thỏ Trắng khe khẽ hát “Là lá la…”. Gấu Đen lại gần và rụt rè gõ cửa :
– Cốc; cốc; cốc.
– Ai đấy ?
– Bác Gấu Đen đây ! Cho bác vào trú nhờ có được không ? Thỏ Trắng bước ra mở cửa.
– Ồ ! Chào Bác Gấu Đen, mời bác vào đây, bác ướt hết rồi !
Thỏ Trắng dắt bác Gấu Đen vào nhà, kéo ghế mời bác ngồi trước bếp lò. Gấu Đen hơ người một lúc, nước mưa trên mặt cũng khô, trên cổ cũng khô.
Trong khi bác Gấu Đen sưởi ấm. Thỏ Trắng bưng ra một đĩa bánh mời bác Gấu Đen ăn. Gấu Đen cảm động nói :
-Cảm ơn Thỏ Trắng.
Gấu Đen ăn xong, Thỏ Trắng và bác Gấu Đen cùng đi ngủ.
Nửa đêm bão nổi lên ầm ầm cành cây kêu răng rắc. Có tiếng đập cửa thình thình :
– Bạn Thỏ Trắng ơi ! Cho tôi vào trú nhờ với, nhà của tôi đổ mất rồi !
Gấu Đen vội choàng dậy, chạy ra mở cửa. Thỏ Nâu vừa khóc vừa kể với bác Gấu Đen và Thỏ Trắng.
– Hu, hu, hu,nhà bị đổ mất rồi. Làm thế nào bây giờ ! Gấu Đen kéo Thỏ Nâu đến bên đống lửa an ủi Thỏ Nâu:
– Cháu sưởi cho ấm người đi ! Nhà bị đổ à ? Lo gì. Sáng mai bác sẽ làm lại nhà cho cháu. Thỏ Trắng cũng nói :
– Bạn đừng lo. Sáng mai tôi cũng sẽ giúp bạn làm lại nhà !
– Thỏ Nâu sưởi một lúc, nước mưa trên người đã khô. Lúc này Thỏ Nâu mới ân hận là đã đuổi bác Gấu Đen. Thỏ Nâu ngập ngừng định xin lỗi bác Gấu.
– Thỏ Nâu đừng buồn bác không giận cháu đâu. Thôi bác cháu ta đi ngủ kẻo khuya quá rồi !
Đêm hôm ấy, Thỏ Nâu và Thỏ Trắng ôm bác Gấu Đen ngủ ngon lành.
Cóc kiện trời
Thuở xa xưa, Ngọc Hoàng cai quản tất cả các việc trên trời và dưới đất. Ngọc Hoàng giao cho thần mưa chịu trách nhiệm làm mưa cho tất cả các con vật và cây cỏ có nước uống.
Nhưng đã ba năm nay, không có một giọt mưa nào. Khắp nơi đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết rụi, các con thú cũng chết dần chết mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than ai oán. Vậy mà trời đâu có thấu.
Một hôm các con vật họp bàn nhau lại. Chúng quyết định cử Cóc lên gặp Ngọc Hoàng. Cùng đi với Cóc có Cáo, Gấu và Cọp.
Bốn con vật đi mãi, cuối cùng cũng lên đến cổng nhà trời. Ở cửa có đặt một cái trống rất to. Theo tục lệ nếu ai có điều gì oan ức thì đánh trống lên. Ngọc Hoàng sẽ ra giải quyết. Cóc bảo Cáo, Gấu, Cọp nấp vào bụi rậm, còn Cóc thì nhảy lên đánh trống inh ỏi.
Ngọc Hoàng nghe tiếng trống liền sai một thiên thần ra nhìn xem ai. Chỉ thấy con Cóc bé nhỏ ngồi trên trống. Khi biết Cóc có ý định gặp Ngọc Hoàngđể kêu oan, thiên thần tỏ ý khinh bỉ Cóc, lẳng lặng đi vào và thưa với Ngọc Hoàng :
-Thưa Ngọc Hoàng, kẻ dám cả gan đánh trống ầm ĩ nhà trời là một con Cóc bé tí, xấu xí, thần hỏi nó đi đâu, nó nói lên gặp Ngọc Hoàng để kiện.
Ngọc Hoàng nghe thiên thần nói như vậy thì giận lắm, bèn sai bầy Gà ra mổ Cóc. Bầy Gà vừa ló khỏi cửa, Cóc ra hiệu cho Cáo từ bộ rậm xong ra vồ Gà.
Biết Gà bị Cáo vồ mất, Ngọc Hoàng liền sai Chó ra giết Cáo. Chó chạy ra chỉ kịp sủa lên mấy tiếng đã bị Gấu ra chộp lấy tha đi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra trị Gấu. Lần này, Cọp xong ra quật chết toán lính không còn sót người nào.
Ngọc Hoàng không ngờ tuy Cóc bé nhỏ mà lại khó trị như vậy. Ngọc Hoàng đổi giận làm lành sai thiên thần ra mời Cóc vào. Ngọc Hoàng hỏi Cóc : “Cậu” lên đây có việc gì ? Cóc thưa :
-Muôn tâu Ngọc Hoàng, đã 3 năm nay chúng tôi không được một giọt mưa nào. Loài vật cử tôi lên đây để kiện trời, vì sao không làm mưa ? Ngọc Hoàng cho gọi thần mưa đến. Té ra là thần Mưa mãi rong chơi tối về đắp chiếu nằm ngủ, quên không làm mưa bị Ngọc Hoàng trách mắng, thần Mưa vội sai các con rồng phun nước ào ào xuống đất. Ngọc Hoàng đưa tiễn Cóc ra về và dặn :
-Từ nay về sau, nếu cần mưa thì Cóc nghiến răng ken két báo cho Ngọc Hoàng biết. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay. Cóc không phải lên kiện trời nữa.
Cóc, Cáo, Gấu, Cọp từ biệt Ngọc Hoàng trở về dưới đất. Khi bốn con vật đến nơi thì nước đã tràn đầy hồ, ao, sông, suối, cây cỏ, muôn loài uống nước thoả thê. Tất cả đều phục Cóc bé Tí mà kiện được trời nên đặt ra câu hát :
“Con Cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh Cóc là trời đánh cho”
{ HẾT }
Tổng hợp bởi thiết bị mầm non
Truyện mầm non chủ đề động vật
Truyện mầm non chủ đề động vật
Truyện mầm non chủ đề động vật, truyen mam non chu de dong vat, thỏ trắng biết lỗi, tho truyen mam non, giao an truyen mam non, truyen cuoi mam non, truyen tranh mam non, truyen ngan mam non, truyen mam non 4 tuoi, truyen ke mam non
Kể chuyện bé nghe “Chú chim nhỏ”
Gà cánh tiên
Trời đã sáng, bác Gà Trống đã đánh thức cả xóm gà :
“Hãy dậy đi thôi, hãy dậy đi thôi”. Chim rời tổ vừa bay vừa hót chào ông Mặt Trời. Gà mẹ “Cục cục” gọi các con đi kiếm mồi. Các chú Gà con líu ríu chạy ra khỏi chuồng đi theo mẹ. Gà Út lại gần mẹ thỏ thẻ :
“Mẹ ơi, Chị Cánh Tiên vẫn chưa dậy đâu mẹ ạ”. Mẹ dẫn Út về rủ Cánh Tiên. Út gọi chị rõ to, nhưng Cánh Tiên vẫn nằm gan không nhúc nhích, ông Mặt Trời đỏ chói đã lên khỏi ngọn cây, nhìn vào chỗ Cánh Tiên nằm. Ôi chao Chói mắt qúa, Cánh Tiên vươn vai bò dậy. Bên ngoài, Trâu,Thỏ, Chó, Lợn cũng dậy từ bao giờ. Ngựa chạy trên đồng cỏ xanh, Cánh Tiên lững thững đi ra vườn. Chim trông thấy bay đến hỏi :
– Chị Cánh Tiên ơi, chị đi bắt sâu đấy à ? Cánh Tiên xoè bộ lông cánh vênh mỏ trả lời :
– Mình còn phải rỉa cánh cho đẹp chứ. Chẳng cần phải kiếm sâu, mẹ về sẽ có sâu.
Chim nghe nói bay đi ngay, không chơi với Cánh Tiên nữa. Cánh Tiên chơi một mình buồn quá,bụng đói. Cánh Tiên mếu máo : “Mẹ ơi ! hu, hu, hu”. Mẹ ở đằng xa vội tha mồi về cho Cánh Tiên. Sáng nay mẹ ốm không dậy được. Mẹ dục Cánh Tiên đi theo chị em Gà để kiếm ăn. Cánh Tiên đứng ì ra không chịu đi. Đứng chán, Cánh Tiên lại ra vườn, ngắm vườn hoa, xuống rìa ao soi bóng, chờ mẹ mang mồi về như mọi hôm. Chờ mãi không thấy gì, đói bụng, Cánh Tiên đành đi kiếm ăn vậy. Đất rắn như đá lại có bao nhiêu gai và mảnh sành. Cánh Tiên vừa bới được vài cái đã vội rụt chân lại “hu, hu, gai đâm đau quá mẹ ơi”. Rắn nằm trong hang nghe tiếng Cánh Tiên liền bò ra dỗ ngon dỗ ngọt : Cánh Tiên ơi về nhà chị, chị cho ăn ngon mà chẳng cần làm gì cả”. Cánh Tiên thích quá đi theo Rắn về hang. Về đến hang Cánh Tiên hỏi Rắn : “Chị Rắn ơi, mồi của Cánh Tiên đâu ?” Rắn cười, lưỡi thè dài : “Mồi ấy à ? Mồi chính là cô mình đấy, ta cũng đang đói đây”. Cánh Tiên sợ quá đâm nhào ra ngoài, Rắn đuổi theo chỉ còn cách tẹo nữa là chộp được Cánh Tiên. Chim trông thấy liền bay về gọi các bạn đi cứu Cánh Tiên. Rắn trông thấy có Lợn, Ngựa, Trâu đến vội cút về hang. Cánh Tiên thoát nạn, về đến nhà rồi mà vẫn chưa hết sợ. Cánh Tiên sụt sịt nói với mẹ : “Từ giờ con sẽ vâng lời mẹ, con không lười nữa”.
Truyện ba cô tiên
Ngày xưa, có một cậu bé đã lên sáu tuổi rồi mà vẫn bé tí ti, bé chỉ bằng ngón tay cái mọi người thôi, cho nên ai cũng gọi là cậu bé Tí Hon.
Nhà bé Tí Hon nghèo lắm. Bố mẹ phải đi chăn trâu thuê cho địa chủ, phải làm vất vả mà vẫn không có cơm ăn cho đủ no, áo mặc cho đủ ấm. Tí Hon rất thương bố mẹ, chỉ muốn đi làm đỡ bố mẹ thôi. Một hôm, Tí Hon nói với bố mẹ để Tí Hon chăn trâu thay bố mẹ. Lúc đầu, bố mẹ thấy Tí Hon bé, còn đàn trâu thì to nên thương Tí Hon, không cho đi. Nhưng Tí Hon nằn nì mãi cuối cùng bố mẹ phải cho đi.
Tí Hon chăn trâu cẩn thận lắm, không để trâu ăn lúa, ăn ngô, mà con nào con đấy cũng no căng cả bụng. Cả làng ai cũng khen. Bọn địa chủ cũng không chê Tí Hon câu nào cả.
Một hôm đồng làng hết cỏ, Tí Hon phải đưa trâu lên núi. Bỗng nhiên Tí Hon thấy một bông hoa hồng to bằng cái nón nở trên cành cây. Đợi cho trâu đến gần cây ấy, Tí Hon chui ở tai trâu ra, khẽ chuyển sang cây và leo vào giữa bông hoa. Tí Hon thấy, ồ thích quá, ba cô Tiên cũng bé tẹo như Tí Hon, một cô áo xanh, một cô áo đỏ, một cô áo vàng. Các cô thấy Tí Hon thì vui mừng chào hỏi rồi đi lấy bánh kẹo cho Tí Hon ăn. Tí Hon không ăn mà lại bỏ bánh kẹo vào túi. Thấy vậy, ba cô tiên hỏi :
-Sao Tí Hon không ăn ?
-Tôi đem về cho bố mẹ tôi ăn, bố mẹ tôi nghèo lắm. Tôi thương bố mẹ tôi lắm.
Ba cô Tiên cùng nói :
-Tí Hon cứ ăn đi, ăn xong chúng tôi sẽ giúp. Lát sau, ba cô Tiên cùng Tí Hon bước ra khỏi nhà hoa hồng, dắt nhau leo lên ngồi cả trên sừng trâu đi về làng.
Về đến nơi, thấy nhà Tí Hon nghèo lắm, vườn ruộng không có, gian nhà đổ nát, ba cô Tiên bảo Tí Hon đi tìm bố mẹ về.
Vẽ một đám ruộng to có lúa chín vàng, cô Tiên áo xanh vẽ rất nhiều quần áo đẹp. Vừa vẽ xong thì tất cả hoá thành nhà thật.
Vừa lúc ấy Tí Hon và bố mẹ về đến nơi.
-Ồ, nhà đẹp thế ? Ruộng của ai tốt thế ? Áo quần ai nhiều thế ?
Ba cô Tiên ở trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói :
-Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ nay hai bác không nghèo nữa. Có ruộng cày, có nhà ở, có quần áo mặc. Rồi cô Tiên áo xanh lại cho Tí Hon một chiếc áo, mặc áo vào là lớn bỗng lên.
Bố mẹ Tí Hon mừng quá, quay lại định cám ơn thì ba cô Tiên đã biến thành ba con bồ câu trắng bay vù lên mây. Từ đấy, không ai trông thấy ba cô Tiên đâu nữa. Còn Tí Hon lúc này rất to lớn, khoẻ mạnh làm việc rất chăm chỉ, khéo léo chẳng kém gì ba cô Tiên hoa hồng.
Giọng hót chim Sơn Ca
Ngày xửa, ngày xưa, ở một khu rừng nọ có rất nhiều loài chim. Mỗi loài có một giọng hát khác nhau. Duy chỉ có Sơn Ca có giọng hót hay hơn cả. Mỗi khi Sơn Ca hót, cỏ, cây, hoa lá rì rào hoà theo. Dòng suối đang chảy róc rách cũng như muốn dừng lại để thưởng thức giọng hót mê li ấy.
Một hôm chim Sẻ được các bạn cử đến gặp Sơn Ca. Chim Sẻ hỏi Sơn Ca :
– Bạn Sơn Ca ơi, có phải bác Mặt Trời cho bạn giọng hát mê li ấy không ?
– Không phải đâu. Bác Mặt Trời tốt bụng chỉ cho tôi những tia nắng vàng rực rỡ, ấm áp thôi.
– Thế có phải cô Mây Hồng đã cho bạn giọng hót hay không ?
– Cũng không phải đâu bạn Sẻ ạ. Cô Mây Hồng xinh đẹp chỉ cho tôi những tảng bông êm dịu thôi.
– Ôi Sơn Ca đáng yêu : Thế ai đã cho bạn giọng hót hay ?
Chim Sẻ và cả bầy chim không hiểu tại sao mà Sơn Ca có giọng hót tuyệt vời đến thế. Các bạn quyết định đến trường hỏi cô giáo Hoạ Mi. Nghe các học trò của mình hỏi, cô giáo Hoạ Mi cười rất vui. Cô nói :
– Cô và các cháu cùng nhau tìm hiểu điều đó. Sáng mai cô sẽ đợi các cháu, ta cùng đến nhà bạn Sơn Ca. Nhưng các cháu phải nhớ dậy sớm đấy.
Sáng hôm sau, khi đến nhà Sơn Ca, các bạn thấy Sơn Ca vừa chuyền cành vừa hót say sưa. Thỉnh thoảng Sơn Ca vừa nghiêng đầu lắng nghe tiếng cây cối xào xạc, tiếng suối chảy róc rách. Nghe rất kĩ, rất lâu những âm thanh ấy rồi Sơn Ca mới bắt chước theo. Các bạn chim lúc ấy mới chợt hiểu vì sao Sơn Ca có giọng hót hay đến thế. Cả đàng chim ríu rít cất tiếng hoà với giọng hót của Sơn Ca. Rừng cây rộn ràng tiếng hót của bầy chim non chào mừng ngày mới.
Truyện cổ tích Chôn của
Truyện cổ tích Chôn của
Ngày xưa có hai anh em một nhà rất nghèo, ngày ngày vào rừng kiếm củi, hái rau về bán để sinh sống. Trong nhà có một con chó cái, đẻ ra một con chó trắng chỉ có ba chân. Hàng xóm cho là quái vật, xui bảo mang vứt chó ấy đi, nhưng hai anh em không nghe.
Kể chuyện bé nghe “Con chim kỳ lạ”
Một hôm, có người gầy yếu đến xin ăn ở trước cửa. Hai anh em mang cơm ra cho. Ăn xong, người ấy nói rằng: “Tôi không phải là ăn mày, mà là hiện thân của thần giữ của đất này. Trước đã có một người Tàu tên là Mã Ký có chôn dấu ở trong vười nơi kia một ngàn cân vàng và ba vạn cân bạc giao cho tôi giữ, hẹn đúng một trăm năm thì lại lấy. Nay đã quá kỳ hạn không thấy đến lấy, tôi định xem người nào có đức thì tôi cho số vàng bạc ấy. Nay tôi nhận thấy anh em nhà này là người hiền lành, phúc hậu nên tôi cho hai anh em số vàng bạc ấy. Nhưng phải có con chó trắng ba chân thì mới lấy được của chôn nó”. Hai anh em liền dắt con chó trắng ba chân trong nhà ra cho xem, thần giữ của bảo được, rồi dặn rằng: “Đêm mai hai anh em đem giết con chó trắng luộc lên và kiếm thêm một đĩa măng luộc và một đĩa đựng năm mươi hạt cau khô rồi mang ra miếu ở giữa vườn kia mà cúng. Cúng xong rồi đào cái bệ xây ở giữa miếu lên thì sẽ lấy được của”. Nói xong thì thần giữ của ấy biến mất.
Theo lời dặn, đến đêm hôm sau hai anh em giết con chó ấy và kiếm đủ măng cùng hạt cau khô đem ra cúng ở miếu. Cúng xong lấy thuổng cuốc đào cái bệ gạch ở giữa miếu lên thì quả thấy một dãy chum, vại kê liền nhau ở dưới đất. Mở nắp chum vại ra thì thấy toàn vàng bạc đúng như lời thần giữ của đã nói. Hai anh em được của trở nên giàu có lớn. Họ chia một phần của cải cho người nghèo, còn một phần tiêu dùng.
Truyện cổ tích Chôn của. Cách ba năm sau, có năm sáu người Tàu đến chỗ đất để của. Họ thấy có người đào lấy hết cả rồi, lăn ra khóc thảm thiết. Hai anh em sai người ra hỏi thì họ nói rằng: “Chúng tôi là con cháu Mã Ký ở bên Tàu, khi trước ông cha chúng tôi có để của ở đây, hiện có gia phả để lại hẳn hoi, không biết người nào đã lấy mất hết của rồi”. Hai anh em bảo rằng: “Chúng tôi đã lấy được của ấy”. Mấy người Tàu nói: “Muốn lấy được của ấy phải có con chó ba chân, vậy các ông đã làm thế nào mà có giống chó ấy”? Hai anh em đáp: “Nhà chúng tôi đã có sẵn”. Họ nói: “Thế thì Phật trời cho các ông rồi, chứ giống chó ba chân chỉ có sứ Sầm Châu tỉnh Quảng Đông bên Tàu mới có mà thôi, vậy mà con chó của các ông lại đẻ ra giống chó trắng ba chân như thế tất cũng là do trời cho. Bây giờ của ấy các ông đã lấy rồi thì con chó ba chân của chúng tôi mang từ bên Tàu sang đây cũng chẳng cần đến nó nữa, vậy xin tặng lại hai ông làm vật hiếm có”. Hai anh em thương tình cho họ 30 cân vàng và 100 cân bạc để làm lộ phí trở về Tàu và rất cảm tạ tấm lòng của họ.
Kể truyện bé nghe Ba người bạn
Kể truyện bé nghe Ba người bạn
Kể truyện bé nghe Ba người bạn. Chim sẻ, Ếch và Cào Cào là ba người bạn thân. Một hôm cả ba đang nhảy nhót vui chơi thì gặp một cái ao to. Chim sẻ nói:
Kể chuyện bé nghe “Người nhạc sĩ lang thang”
– Tôi không thể nhảy qua cái ao nào này được. Tôi phải bay qua nó và đợi các bạn ở bên kia ao nhé.
Ếch phàn nàn:
– Tôi không nhìn thấy lá cây sung nào trên mặt ao. Do đó tôi không thể nhảy qua ao được, tôi chỉ còn cách bơi qua ao thôi.
Cào Cào bình tĩnh nói với hai người bạn rằng:
– Tôi không thể nhảy hoặc bay qua ao được và cũng không biết bơi. Nhưng nếu cả ba chúng ta cùng hợp sức lại thì cả ba chúng ta đều sang được bờ bên kia.
Cả chim sẻ và ếch đều hỏi:
– Bằng cách nào hả bạn Cào Cào?
– Trước hết bạn chim sẻ bay lên cây mang về đây một chiếc lá to. Tôi ngồi trên chiếc lá to, còn bạn ếch bơi và đẩy chiếc lá đó qua ao.
Khi cả ba sang được đến bên kia bờ ao, chim sẻ hỏi:
– Này bạn Cào Cào, tôi có công mang chiếc lá về và bạn Ếch có công đẩy chiếc lá đó qua ao. Còn bạn có công gì?
Cào Cào vui vẻ trả lời:
– Tôi nghĩ ra kế hoạch qua ao và kế hoạch đó giúp đưa cả ba chúng ta sang được bờ bên này. Bạn có đồng ý như vậy không? Và bây giờ chúng ta lại cùng nhau vui chơi được rồi.
Chim sẻ, Ếch đều nhảy lên mừng rỡ tán thành. Thế là cả ba cùng nhau nhảy múa tiếp tục cuộc vui chơi của mình.
Công chúa và hạt đậu kể truyện bé nghe
Công chúa và hạt đậu kể truyện bé nghe
Công chúa và hạt đậu kể truyện bé nghe. Ngày xửa ngày xưa, có một hoàng tử muốn tìm một công chúa xứng đáng để cưới làm vợ. Chàng đi khắp thế giới để mong tìm được người hợp ý chàng. Chàng đã gặp biết bao nhiêu công chúa, nhưng ai cũng bị chàng chê ở một điểm nào đấy.
Kể chuyện bé nghe “Chiếc bật lửa kỳ diệu”
Hoàng hậu, người theo dõi cuộc tìm kiếm của chàng, dần dần cũng không kiên nhẫn nữa.Bà hỏi:
– Con còn đòi hỏi tiêu chuẩn gì nữa nào?
– Chính con cũng không biết nữa! – chàng trả lời – nhưng phải đích thực là công chúa cơ!
Bà mẹ lắc đầu. Chàng hoàng tử càng cảm thấy buồn chán hơn sau mỗi chuyến đi không đạt ý nguyện. Chàng muốn có một người vợ mang cho chàng hạnh phúc.
Hoàng hậu nói với vua:
– Nếu cậu ta một lần nào đấy đưa một cô gái về nhà, tôi sẽ nhận ra ngay, cô gái ấy có xứng đáng là công chúa hay không.
– Thế hả? Bà nhận biết bằng cách nào vậy? – nhà vua hỏi – Thật là chẳng đơn giản chút nào để nhận ra một công chúa.
Hoàng tử lại khăn áo ra đi, và lại trở về một mình.
Rồi một ngày mùa đông đến. Thời tiết thật bất lợi: gió, mưa, sấm, chớp thét gào trên khắp mọi miền đất nước. Mưa như trút nước, gió thổi ù ù. Ðột nhiên có tiếng gõ nhẹ vào cửa lâu đài.
– Tôi phải kiểm tra xem tại sao ai đó lại gõ cửa giữa trời giông bão như thế này?- nhà vua nói.
Ông đi ra định mở cửa, nhưng gió giật mạnh quá đến nỗi cánh cửa mở tung ra. Ông nhìn thấy một hình ảnh rất đáng thương. Ngoài sân có một cô gái ướt đầm đìa. Nước mưa chảy từ tóc và quần áo xuống đất. Nước chảy vào mũi giày rồi lại ra phía gót chân.
– Thôi vào đây, thật tội nghiệp cháu bé!
Nhà vua thốt lên và đưa cô bé đang run cầm cập vào lâu đài, để có thể sưởi ấm được cho cô trong phòng của hoàng hậu.
– Ồ kinh khủng quá! – cô gái thốt lên – mà cháu lại là một công chúa đích thực.
Nhà vua và hoàng hậu nhìn nhau.
– Một công chúa đích thực? – bà hỏi khe khẽ.
– Vâng, đúng ạ – nàng trả lời – nhưng bây giờ cháu rất mệt và rất muốn hoàng hậu và bệ hạ cho cháu một chỗ nghỉ yên tĩnh.
“Bây giờ phải chính mình lo việc này mới được.” Hoàng hậu nghĩ thế và vội vã sắp xếp chỗ ngủ cho cô gái.
Hoàng hậu dồn tất cả đệm ngủ dành cho khách của nhà vua lại, rồi xếp chồng lên nhau trên sàn nhà. Bà còn cầm trong tay một hạt đậu khô. Nhà vua đi theo vợ.
– Hoàng hậu muốn làm gì với hạt đậu đấy?
Nhà vua hỏi. Nhưng hoàng hậu chỉ mỉm cười không nói. Bà lẳng lặng để hạn đậu dưới cùng và xếp 20 tấm đệm lên trên, trên 20 tấm đệm là 20 lượt khăn trải làm bằng lông tơ của con ngỗng.
“Nào, bây giờ chúng ta thử xem , có phải vị khách này là một công chúa đích thực hay không?” Hoàng hậu thầm nghĩ. “Ngày mai, bí ẩn sẽ được giải đáp.”
Sáng hôm sau, nhà vua đã hiểu những gì hoàng hậu làm.
– Thế nào, tiểu thư hôm qua có ngủ ngon trên chiếc giường đẹp và mềm đó không? – Hoàng hậu hỏi cô gái.
Cô con gái tội nghiệp nói:
– Ô, rất kém, hầu như cả đêm cháu không chợp mắt.
Hoàng hậu im lặng rất hy vọng, nháy mắt nhìn chồng.
Cô gái kể tiếp:
– Có trời mới biết được có cái gì đấy ở giường. Cháu nằm lên vật gì đó rất cứng, đến nỗi toàn thân cháu thâm tím lại.
– Có vậy chứ! – Hoàng hậu kêu lên – Qua hai mươi tấm đệm và 20 tấm khăn trải làm bằng lông tơ ngỗng mà tiểu thư vẫn cảm nhận được hạt đậu bé xíu. Tiểu thư đúng là một công chúa đích thực! Vì chẳng ai trên thế giới này lại nhạy cảm đến như thế!
Cả lâu đài bừng lên không khí hân hoan, vì họ đã có được một cô công chúa xứng đáng. Không một phút chần chừ, hoàng tử cầm tay cô gái. Ðám cưới linh đình được tổ chức.
Hạt đậu đó được đưa vào viện bảo tàng hoàng cung. Khách tham quan có thể thấy nó, nếu chưa ai mang nó đi khỏi viện bảo tàng.
Truyện cổ tích Sự tích ông đầu rau
Truyện cổ tích Sự tích ông đầu rau
Truyện cổ tích Sự tích ông đầu rau. Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn.
Kể chuyện bé nghe “Hoàng tử chăn lợn”
Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.
Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu.
Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình cảnh vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ:
– Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được.
Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết có nhau. Nhưng người chồng bảo:
– Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác.
Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi.
Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹn và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.
Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng.
Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có tình cảm với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:
– Chồng tôi hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo.
Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không tin tức cũng chẳng có một lời đồn về người chồng. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định:
– Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.
Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.
*
Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: – “Thế là hết. Bởi số cả!”.
Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám gặp mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ.
– Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi.
Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.
Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không ráng chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.
Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà.
Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: – “Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác!”. Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.
Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật.
Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ rộng rãi trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng.
Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.
Thiết bị mầm non hà vũ
Chuyện chàng Lút
Chuyện chàng lút
Chuyện chàng Lút. Ở làng nọ có anh chàng Lút bị hủi ăn từ đầu đến chân. Trông người xấu xí, hom hem như sắp chết đến nơi rồi. Trong làng chẳng ai thèm lui tới chơi với Lút. Kẻ khinh anh nghèo đói, người sợ lây bệnh tật của anh. Tuy vậy, hàng ngày anh Lút vẫn cố lê ra suối đi câu cá. Anh đi câu xa, mãi tận chỗ thác nước chảy rì rào, trắng xoá dưới chân suối trúc.
Kể chuyện bé nghe “Hoàng tử chăn lợn”
Hôm ấy, câu hồi lâu, anh Lút bắt được hai con cá trắng tinh, trông như bạc đúc vậy. Anh để cá trên tảng đá anh đang ngồi câu. Lút đang chăm chú nhìn cần câu, thì có hai con quạ băng ngang qua quắp mất hai con cá đem đi tận chỗ xa, nơi đầu ngọn suối.
Chuyện chàng Lút. Có một đoàn cô gái đi xuống suối. Các cô đi rừng về. Vai cô nào cũng nặng trĩu những gùi củi đầy. Các cô đặt gùi xuống nghỉ, lội xuống suối tắm. Thân mình các cô mềm mại như tàn lá chuối, thon thon như cây lau, cây lách, đẹp rạng rỡ như ánh mặt trời .Tắm xong ai nấy lên bờ sửa soạn ra về. Chỉ còn lại hai chị em cô nọ đang nghịch nước suối reo ồ ồ, nước thác chảy trắng phau. Hai chị em lên bờ, sửa soạn ra về. Bỗng hai cô gái thấy hai con cá bạc bé như sợi lá thông, nhấp nháy như cọng cỏ chỉ. Hai cô bèn nhặt lên, giấu cá trong gùi mang về nhà, không cho cha mẹ biết. Hai cô lén mang cá ra nướng ăn.
Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai cô ngạc nhiên thấy bụng to hẳn lên: hai cô đã có mang. Hai cô lo lắng quá, khóc lóc tỉ tê với mẹ:
– Mẹ ơi! không biết làm sao mà hai con khốn khổ ra thế này? Hai con có tội với cha mẹ, xấu hổ với bà con xóm làng lắm .
Chẳng kịp hỏi đầu đuôi ra thế nào, bà mẹ lớn tiếng nhiếc mắng hai cô thậm tệ:
– Bay là đồ gái hư, gái thối! Bay là quân sống nhuốc, sống nhơ! Ðừng có làm trò bêu danh, xấu tiếng cho nhà tao! Hai cô tìm lời giãi bầy nỗi oan với mẹ:
– Mẹ ơi! Ðêm nào hai con cũng ngủ ở nhà với mẹ: Các con có dám đi ngủ lang ngủ chạ với ai đâu
Bà mẹ lại lồng lên nhiếc móc ầm ĩ:
– Liệu bề khai thật ra, thì may ra tao còn tìm cách… Không thì hãy cút xéo đi!
Hai cô nghĩ ngợi một chốc, se sẽ nói tiếp:
– Mẹ ạ! Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có hai con cá trắng lọt được vào nhà ta thôi!
Sau hai chị em sinh được hai cô gái rất xinh đẹp. Bố mẹ hai cô bèn cho mời cả dân làng lại.
Trai tráng khắp nơi lục tục kéo đến. Ai nấy đều khoác chăn, mang gùi đến để cho hai đứa bé nhận mặt, xem thử ai là cha của chúng. Nhưng hai đứa trẻ không nhận ra ai cả. Bố mẹ hai cô lấy làm thất vọng. Bỗng họ sực nhớ ra còn anh chàng Lút nữa, anh chàng nghèo khổ bệnh tật mà chẳng có ai nhớ tới. Bà mẹ bèn gọi người nhà ra bảo:
-Phải đi gọi ngay thằng Lút đến đây! Mau lên!
Một chốc, chàng Lút què lò dò tới, Lút vừa bước tới chưa kịp ngồi, hai đứa bé đã chạy ùa ngay lại. Hai đứa reo ầm lên:
– Bố ơi, Bố! Ðúng là bố các con đây rồi. Bố gùi con trên lưng, bố cõng con trong chăn đây rồi!
Dân làng ai cũng trố mắt nhìn về phía hai cô gái. Dần dần người ta lặng lẽ bỏ ra về. Hai người tan lòng nát ruột thấy mình buộc phải làm vợ của anh chồng hủi. Hai cô khóc nức nở.
– Trời ơi là trời! Chân anh què, làm sao anh đi rừng cho được! tay anh cụt, làm sao anh phát rẫy cho nên! Miệng anh hủi, làm sao anh khấn vái cúng thần!
Bố mẹ bắt vợ chồng con cái anh Lút phải dọn ra ở riêng. Chẳng ai cho họ ở trong làng nữa. Nhà ở của họ chỉ là túp lều con lẻ loi, chỉ là một cái chòi bằng lá sơ sài! Họ chẳng có cơm ăn, chẳng có thuốc hút. Mẹ con đi phát một cái rẫy bé tí ti. Còn anh què phải ở lại nhà.
Ngày ấy, hai chị vợ đi làm rẫy vắng, Thừa cơ, có con khỉ xấu bụng đến tìm cách lừa gạt anh Lút. Khỉ mình ướt đẫm mồ hôi, vừa thở phều phào có vẻ mệt nhọc và nói:
– Anh Lút ơi! Chị dặn anh dán cho chị một đĩa trứng, nấu một nồi đầy cơm cho tôi ăn đấy. Tôi đi giúp hai chị đốt rẫy về đây, đói lắm rồi!
Tin lời khỉ, anh Lút nấu cơm cho nó ăn. Khỉ chén sạch nhẵn cả cơm lẫn trứng rồi bỏ đi. Chiều đến hai chị vợ đi làm về, bụng đói meo, nhưng nhà chẳng còn lấy một quả trứng, một hạt gạo! Anh Lút khổ sở bị hai chị vợ la cho một trận. Vợ con không tin anh nữa, cho anh chàng là người ăn gian nói dối…
Hôm sau, hai chị vợ lại lên rẫy đi làm. Nghĩ đến chuyện khỉ lừa, anh Lút căm tức anh ách trong bụng. Lần này, anh lo sắp sẵn những sợi dây thừng thật chắc để làm bẫy, giăng sẵn quanh nhà. Quen hơi ,khỉ lại mò đến. Anh Lút vừa ân cần ra mời khỉ vào, vừa nghĩ thầm trong bụng: “Mày lại muốn giở trò gì nữa chăng?” khỉ vừa bước đến gần nhà bị vướng phải bẫy ngay. Hắn ta nghĩ bụng phen này chắc chết quá nên rối rít van lạy anh Lút:
– Anh Lút ơi! Xin anh đừng giết em. Nếu anh muốn tạ tội chiêng đồng, chiêng thau gì em cũng xin nộp.
Anh Lút lắc đầu:
– Tao không thèm chiêng!
– Em xin tạ tội anh một con trâu mộng vậy.
Anh Lút lại lắc đầu:
– Tao cũng không cần trâu!
– Em xin nộp anh bao nhiêu lúa cũng được.
– Lúa tao cũng không cần!
Lưỡng lự một lát khỉ buột mồm:
-Thì em xin truyền lại cho anh phép bùa quý vậy.
Lút gật đầu:
– Thế thì được!
Anh Lút bèn gỡ bẫy, vòng dây thắt ngang bụng khỉ. Tuy vậy, anh vẫn đề phòng thói tráo trở của chú khỉ tinh ranh, anh vẫn nắm chắc một đầu dây, không bao giờ buông ra. Khỉ về nhà kì kèo xin vợ lá bùa phép cất kỹ trên sàn. Khi dùng bùa, anh Lút đọc câu thần chú: “Bùa hãy hoá phép cho ta đi! Hãy giúp ta trừ được bệnh hủi. Ta sẽ đánh chiêng mừng…”
Trong giây lát Lút khỏi hẳn bệnh hủi. Mình mẩy trơn tru, da dẻ hồng hào tốt tươi. Bấy giờ Lút đọc tiếp thần chú. Muốn chiêng, có chiêng. Muốn ché, có ché. Muốn trâu, có trâu.
Nhà chàng Lút bấy giờ xinh đẹp như bức gỗ chạm, trong làng vang lên lời ca ngợi nhà cửa xinh đẹp của anh. Lút có phép lạ:
Nhà anh đẹp như ché
Nhà anh khoẻ như chiêng
Nhà anh thẳng liền như tre
Nhà anh khoe màu huệ
Từ nay trở đi anh Lút trở nên một con người giầu có xinh đẹp. Trong nhà không thiếu thứ chi. Người ta lui tới thăm chơi chật trong chật ngoài như ngày hội.
Nhà Lút ở trên ngọn suối. Nhà bố mẹ vợ ở dưới đuôi suối. Bà ta đi múc nước, nhưng nước bị thối mùi tre ngâm!
Bà lội lần mé trên tìm xem thử có ai sục mà nước vẫn đục lên như thế. Bà thấy một bầy vịt đang hụp lặn tắm dưới suối.
Mụ hỏi mấy đứa bé ở đấy:
– Vịt nhà ai nhiều vậy các em?
– Vịt ấy là vịt của ông. Lợn ấy cũng là lợn của ông. Trâu ấy cũng là trâu của ông…
Mụ già nghe mấy đứa bé nói sốt ruột:
– Nhưng ông nào mới được?
– Ông Lút đấy mà, bà không biết à?
Nghe nói, bà mẹ đâm ra sửng sốt, suýt nữa đánh rơi vỡ mấy bầu đựng nước!
Bà mẹ bèn đi ngược dòng, để tìm xem cho được nhà của anh Lút. Bà đi đến nơi, nhưng anh chàng không ra mở cửa. “Xưa kia bà chẳng xua đuổi vợ chồng chàng như đuổi tà là gì?”. Ngay lúc đó, trời đổ mưa to, giông bão đầy trời.
Một hồi sau, nghĩ thương bà già bị mưa gió sấm sét, sẽ rét mướt nguy hiểm. Lút ra mở cửa.
Thấy bà mẹ vợ đã biết lỗi, vợ chồng anh Lút cũng quyên chuyện cũ. Anh chị làm lễ mừng, mời ông bà lên nhà ăn uống, vui chơi với con cháu.
Từ đấy, ai ai cũng trầm trồ khen vợ chồng anh Lút giầu có, ăn ở tốt bụng với bà con dân làng.
Sự tích cái chổi
Sự tích cái chổi
Sự tích cái chổi. Ngày xưa ở trên cung điện nhà trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay. Bà chế những món bánh trái tuyệt phẩm, làm những thức ăn ngon đến nỗi chỉ nếm qua một miếng là không thể nào quên được. Cho nên Ngọc Hoàng thượng đế cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn cho mình ở thiên trù. Nhưng bà lại hay ăn vụng và tham lam.
Kể chuyện bé nghe “Ông lão đánh cá và con cá vàng”
Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng luật lệ đó không ngăn được những người đang sẵn thèm khát. Người đàn bà vẫn tìm đủ mọi cách để làm cho kho thức ăn của nhà Trời hao hụt.
Tuy đã quá tuổi xuân, bà ta lại yêu một lão vốn chăn ngựa cho thiên đình. Đời sống của những người chăn ngựa thì ở cõi trời cũng như cõi đất đều cực khổ không kém gì nhau. Ông ta thích rượu và từ khi gặp người đàn bà này lại thèm ăn ngon. Bà ta say mê ông tưởng trên đời không còn có gì hơn được. Mỗi lúc thấy người đàn ông đó thèm thức ăn, đồ uống của nhà Trời, bà ta không ngần ngại gì cả. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho ông. Và cũng nhiều phen bà dắt ông lẻn vào kho rượu, mặc sức cho ông bí tỉ.
Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Bà và các bạn nấu bếp khác làm việc tíu tít. Chỉ vào chập tối, các món ăn đã phải làm đầy đủ. Rồi khi ánh nguyệt của đêm rằm sáng lòa là mọi người bắt đầu vào tiệc. Nhưng giữa lúc cỗ đang bày lên mâm thì từ đàng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết ông tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu ông ta vào phía góc chạn. Bà đưa cho ông mấy chén rượu, thứ rượu ngon nhất của thiên tào rồi trở ra làm nốt mẻ bánh hạnh nhân.
Người đàn ông đó mới đi tắm ngựa ở bến sông về. Bưng lấy bát cơm hẩm, ông sực nhớ đến rượu thịt bây giờ chắc đang ê hề ở thiên trù, nên vội lẻn đến đây. Trong bóng tối, ông nuốt ực mấy chén rượu lấy làm khoái. Chén rượu quả ngon tuyệt, hơi men bốc lên làm ông choáng váng. Ông bỗng thèm một thức gì để đưa cay. Trong bóng tối, trên giá mâm đặt ở gần đó có biết bao là mỹ vị mùi thơm phưng phức. Đang đói sẵn, ông giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để…
Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nào nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ. Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Bữa tiệc vì thế mất vui.
Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội. Và sau đó thì cả hai người cùng bị đày xuống trần, làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Đó là tội nặng nhất ở thiên đình.
Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ nông nỗi là phải làm khổ sai ngày này qua tháng khác không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho họ được nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết nguyên đán.
Bởi vậy đời sau trong dịp Tết nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà. Người Việt Nam chúng ta có câu đố về cái chổi “Trong nhà có một bà hay la liếm” mô tả thần tình động tác quét nhà nhưng trong đó chắc còn có ngụ ý nhắc lại sự tích của cái chổi.