Archive
Vận động theo nhạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi
Vận động theo nhạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo nhà soạn nhạc nổi tiếng Dalcroze con người ngay từ khi sinh ra đã có thể biểu hiện những giai điệu âm nhạc bằng những động tác thân thể. Tất cả trẻ mầm non đều có những năng lực âm nhạc bẩm sinh và đứa trẻ nào cũng đều có thể phát triển được năng lực âm nhạc đó. Do vậy ngay từ thời kì thơ ấu phải cung cấp cho trẻ những kinh nghiệm và môi trường phù hợp để giúp phát triển năng lực âm nhạc cho trẻ nói riêng, cũng như giúp trẻ phát triển toàn diện tất cả các lĩnh vực khác.
Ở trường mầm non, đặc biệt đối với lứa tuổi mẫu giáo, âm nhạc là một trong những loại hình nghệ thuật phát triển năng lực, cảm xúc, tưởng tượng, sáng tạo, sự tập trung chú ý, khả năng diễn tả những hứng thú của trẻ. Âm nhạc là phương tiện giúp trẻ nhận thức xung quanh, phát triển lời nói, quan hệ trong giao tiếp, trao đổi tình cảm…Đối với trẻ, âm nhạc là thế giới kỳ diệu, đầy cảm xúc. Trẻ có thể tiếp nhận âm nhạc ngay từ trong nôi. trẻ mầm non dễ xúc cảm, vốn ngây thơ trong sáng, nên tiếp xúc với âm nhạc là một điều không thể thiếu.
Thông thường, khi nghe nhạc, ai cũng đều có ý muốn cử động theo tiết tấu. Tay đung đưa, chân gõ nhịp, đầu lắc lư, đó chính là hình thức múa tự phát. Nhiều khi các em nhỏ vừa nghe nhạc, vừa ngẫu hứng điệu múa có tiết tấu độc đáo của mình. Đối với trẻ mẫu giáo, do đặc điểm hồn nhiên, ham hoạt động nên mối quan hệ giữa âm nhạc và vận động được hình thành dễ dàng. Các bài hát, bản nhạc tạo cho trẻ những cảm xúc mạnh, trẻ vận động phù hợp với đặc tính của âm nhạc. Ở đây âm nhạc giữ vai trò chủ đạo còn vận động là công cụ thể hiện hình tượng âm nhạc. Vận động theo nhạc giúp trẻ phát triển cảm giác, nhịp điệu, sự khéo léo, khả năng phản ứng nhanh và đúng các ấn tượng nghe được trong âm nhạc. Ngoài ra còn làm thoả mãn nhu cầu tình cảm của trẻ, trẻ được bộc lộ cảm xúc, giao tiếp với bạn bè.
Vì vậy, vận động theo nhạc là 1 hoạt động vô cùng quan trọng đối với trẻ. Hiện nay, trong các trường mầm non khi thực hiện Chương trình giáo dục mầm non giáo viên được phép linh hoạt lựa chọn nội dung, xây dựng kế hoạch hoạt động sao cho phù hợp với cô, với trẻ, phù hợp với điều kiện trường lớp đáp ứng yêu cầu đề ra. Điều đó giúp giáo viên có được những cơ hội và điều kiện để thể hiện khả năng của mình. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều giáo viên chưa chú ý hình thành kỹ năng vận động theo nhạc cho trẻ, còn ngần ngại, đôi khi tổ chức còn đại khái qua loa, chưa có biện pháp thiết thực trong quá trình dạy trẻ, dẫn tới kết quả trên trẻ chưa cao. Do vậy, việc áp dụng biện pháp tiên tiến để dạy trẻ mẫu giáo vận động theo nhạc là rất cần thiết, cần được chú trọng.
Là 1 giáo viên trẻ, có nhiệt huyết với nghề, có khả năng âm nhạc tốt, tôi đã luôn băn khuăn, trăn trở đặt ra các câu hỏi: “ Làm thế nào ? Làm gì?…” để nâng cao chất lượng vận động theo nhạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại lớp mình phụ trách. Sau một năm nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng các biện pháp hữu hiệu, khả năng vận động theo nhạc của trẻ lớp tôi đã được nâng cao rõ rệt. Vì vậy tôi mạnh dạn được xin phép trao đổi với các chị em đồng nghiệp dưới dạng đề tài sáng kiến kinh nghiệm là: “Kinh nghiệm nâng cao chất lượng vận động theo nhạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non”.
* Mục đích nghiên cứu :
+ Đánh giá được thực trạng khả năng vận động theo nhạc của trẻ tại lớp mẫu giáo nhỡ B1 trường mầm non A xã Tứ Hiệp.
+ Tìm ra các biện pháp để giúp trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non nâng cao khả năng vận động theo nhạc.
* Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp nâng cao chất lượng vận động theo nhạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi
* Phạm vi nghiên cứu:
Trẻ lớp mẫu giáo nhỡ B1, trường mầm non A xã Tứ Hiệp năm học 2013- 2014.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Vận động theo nhạc là hoạt động phối hợp giữa âm nhạc mầm non và các động tác của cơ thể hoặc sử dụng đồ chơi âm nhạc, gõ đệm theo nhịp điệu âm nhạc tạo cho trẻ có được sự cảm nhận về nhịp điệu, góp phần tích cực vào việc phát triển toàn diện nhân cách.
Hoạt động vận động theo nhạc ở lứa tuổi mầm non có thể chia làm 2 nhóm:
– Nhóm thứ nhất: Là những động tác đơn giản biểu hiện cảm xúc theo tính chất, nhịp điệu âm nhạc như vỗ tay, gõ đệm, nhún nhảy…trẻ nghe và phân biệt cao độ, sắc thái, tốc độ, trọng âm, âm hình tiết tấu.
– Nhóm thứ hai: Hướng vào những kỹ năng chuyển động trong quá trình vận động theo nhạc.
Tất cả các động tác vận động theo nhạc như gõ nhịp, âm hình, tiết tấu, múa…đều thực hiện nhiệm vụ chung là cảm nhận tiết tấu âm nhạc, nhưng mỗi loại vận động có chức năng riêng, do đó khác nhau về yêu cầu.
Động tác vỗ tay, gõ nhịp, dậm chân có tác dụng giúp trẻ nắm vững tiết tấu, nhịp, phách trong tác phẩm và được tiến hành ngay khi làm quen với tác phẩm. Gõ nhịp, phách, âm hình tiết tấu yêu cầu phải chính xác, đúng với tác phẩm, không cần phải có tư thế, tạo dáng, đường nét…
Múa là dạng vận động phát triển tính thẩm mỹ cho trẻ, hình thành tư thế, dáng điệu, động tác đẹp. Các bài múa được xây dưng trên cơ sở nội dung, tính chất, nhịp điệu âm nhạc, lời ca. tuy nhiên không phải bài hát nào cũng xây dựng thành điệu múa. Do đặc điểm tư duy trực quan hình tượng của trẻ mà múa có thể là những động tác minh hoạ lời ca, miêu tả sinh hoạt, mô tả thiên nhiên…Các chất liệu cơ bản của dân gian các dân tộc Việt Nam, múa hiện đại cũng được khai thác. Múa được sử dụng chủ yếu với độ tuổi mẫu giáo. Cùng với sự phát triển của trẻ thì kỹ năng múa của trẻ ngày càng rõ ràng và đa dạng.
Vận động theo nhạc không chỉ giúp trẻ tập phối hợp các động tác di chuyển nhẹ nhàng mà tất cả những vận động của tay, chân và thân mình nhờ có sự phụ họa âm nhạc cũng trở nên chính xác, nhịp nhàng hơn.
Trẻ 4 – 5 tuổi đã có những biểu hiện hưởng ứng mạnh mẽ với những giai điệu mang tính chất vui vẻ, rộn rã. Vận động đã phong phú hơn chuyển động nhịp nhàng theo tính chất của nhạc, thay đổi bước chuyển động theo điệu nhạc , từ tốc độ nhịp nhàng có thể chuyển sang tốc độ nhanh hơn hoặc thực hiện các bước nhảy.
Trẻ 4 – 5 tuổi có khả năng sử dụng các nhạc cụ như phách tre, xắc xô, song loan, trống đệm theo nhịp, tiết tấu chậm. Có thể thổi kèn cho các giai điệu đơn giản trên cơ sở 1 – 2 âm thanh.
- CƠ SỞ THỰC TIỄN
- Mô tả thực trạng
– Năm học 2013 – 2014, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo nhỡ B1, tổng số giáo viên của lớp gồm 4 cô giáo yêu nghề, mến trẻ. Độ tuổi của cô giáo từ 26 đến 38 tuổi, 1 cô trình độ đại học, 3 cô đang theo học lớp đại học.
– Tổng số trẻ là 61 cháu, trong đó có 35cháu nam, 26 cháu nữ
– Trường được công nhận là trường chuẩn Quốc Gia mức độ 1 vào tháng 2 năm 2009 nên có đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho học tập và vui chơi.
– Khuôn viên trường lớp rộng, thoáng mát, đẹp phù hợp với trẻ mầm non.
Trong quá trình thực hiện tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
- Thuận lợi:
– Đối với cô: Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập các lớp chuyên đề do phòng giáo dục tổ chức. Giáo viên trong lớp có tinh thần đoàn kết, có sự phối hợp nhau trong công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển toàn diện các mặt cho trẻ. Một số giáo viên trong lớp có năng khiếu về âm nhạc: Biết sử dụng đàn, sáng tạo các động tác múa…
– Đối với trẻ: Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định. Trẻ thông minh, có một số trẻ có khả năng tiếp thu nhanh. Trẻ yêu thích âm nhạc, khi được nghe hát nghe nhạc trẻ nhún nhảy theo điệu nhạc.
– Cơ sở vật chất: Lớp được trang bị các đồ dùng tối thiểu phục vụ cho hoạt động âm nhạc( Xắc xô, song loan, phách tre, đàn, tivi, đầu đĩa, vi tính)
– Đối với phụ huynh: Các bậc phụ huynh rất nhiệt tình khuyến khích con em mình tham gia văn nghệ ở lớp, trường trong các ngày hội, ngày lễ.
- Khó khăn:
– Với cô: Các giáo viên vẫn còn thụ động khi tổ chức hoạt động vận động theo nhạc cho trẻ, chưa chủ động sáng tạo lựa chọn các động tác minh họa cho phù hợp với nội dung bài hát.
– Với trẻ: Vào đầu năm học có khoảng 25% cháu mới đi học, trẻ thiếu hụt kiến thức âm nhạc và chưa có nề nếp, thói quen tốt. Khi được hướng dẫn vận động theo nhạc nhiều cháu còn rụt rè nhút nhát không dám thể hiện. Kỹ năng vận động theo nhạc của trẻ còn yếu. Khi cô yêu cầu trẻ thực hiện các vận động vỗ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu còn nhầm lẫn do trẻ chưa phân biệt được rõ sự khác nhau giữa các vận động.
– Sĩ số lớp đông, khó khăn trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ.
– Đồ dùng phục vụ cho hoạt động còn chưa đẹp, chưa phong phú nên khi tổ chức hoạt động trẻ chưa thực sự hứng thú.
– Các bậc cha mẹ còn bận đi làm nên chưa có nhiều thời gian cho con em mình tiếp xúc với âm nhạc.
Trước thực trạng và những khó khăn, thuận lợi trên, tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp như sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP
- Biện pháp 1: Khảo sát – đánh giá:
Muốn thực hiện các biện pháp tiếp theo, trước hết phải nắm được thực tế về khả năng vận động theo nhạc của trẻ. Để từ đó đề ra các biện pháp phù hợp và hiệu quả tôi dùng biện pháp khảo sát- đánh giá. Có khảo sát – đánh giá mới nắm được mức độ nhận thức, kỹ năng vận động theo nhạc của trẻ và biết được lượng đồ dùng, đồ chơi hiện có trong lớp. Từ đó mới đề ra được biện pháp tiếp theo. Tôi đã khảo sát – đánh giá kỹ năng vận động theo nhạc và khảo sát đồ dùng, đồ chơi của góc âm nhạc. Tôi đã tiến hành khảo sát như sau:
1.1, Khảo sát – đánh giá kỹ năng vận động theo nhạc:
Để có được kết quả này, tôi đã tổ chức cho trẻ vận động theo nhạc trong hoạt động học, hoạt động góc và mọi lúc mọi nơi. Sau mỗi buổi, tôi đều ghi lại kết quả và đến khi đánh giá trẻ đầu năm tôi thu được kết quả như sau: Xem trong tài liệu phía dưới
1.2, Khảo sát đồ dùng – đồ chơi phục vụ hoạt động vận động theo nhạc:
Đồ dùng – đồ chơi mầm non đối với cô giáo là phương tiện để tổ chức cho trẻ chơi và học. Đối với trẻ mẫu giáo thì đồ dùng – đồ chơi là người bạn đồng hành không thể thiếu được trong các hoạt động của trẻ, bởi vì khi sử dụng các đồ dùng, đồ chơi trong quá trình vận động sẽ giúp trẻ cảm nhận rõ hơn về nhịp điệu, cường độ, tốc độ… của các bài hát, bản nhạc. Bên cạnh đó, đồ dùng, đồ chơi đẹp, phát ra âm thanh còn thu hút sự hứng thú, tập trung của trẻ. Từ đó giúp trẻ vận động tốt hơn. Chính vì vậy ngay từ đầu tháng 8/2012 tôi đã khảo sát đồ dùng đồ chơi. Qua đó để biết được đã có những đồ dùng gì? Đồ dùng nào đã cũ, đồ dùng nào đã hỏng, đồ dùng nào còn thiếu. Sau khi có kết quả khảo sát tôi tiến hành xây dựng kế hoạch đề xuất ban giám hiệu mua và có kế hoạch tự làm 1 số đồ dùng – đồ chơi trong lớp mầm non . Sau đây là kết quả khảo sát đồ dùng đồ chơi của lớp tôi:
Theo: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/amnhacmamnon
Hoạt động tạo hình sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Hoạt động tạo hình sáng kiến kinh nghiệm mầm non
PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nghệ thuật chiếm một vị trí quan trọng. Hình thành nhân cách trẻ ngay từ những năm đầu của cuộc sống. Thông qua HĐTH trẻ được khám phá ý thích vẻ đẹp kỳ diệu. Đây cũng là lứa tuổi ham hiểu biết có nhu cầu lớn trong việc nhận thức khám phá thế giới xung quanh, yêu cái đẹp sáng tạo cái đẹp.
Trong giáo dục MN, HĐTH có mối quan hệ chặt chẽ với HĐVC. Khi tham gia chơi khả năng nhận thức và tính sáng tạo của trẻ dần dần được hình thành và phát triển từ đó làm phong phú trí tưởng tượng nhận thức và xúc cảm tình cảm của trẻ qua những bài xé dán, nặn, vẽ..
Đối với MG vui chơi là hoạt động chủ đạo nhưng nó được tính hợp lồng ghép trong mọi hoạt động. Thông qua HĐTH trẻ lĩnh hội được những kinh ngiệm xã hội loài người kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật giúp trẻ hình thành và nâng cao dần năng lực sáng tạo và vốn thâm mỹ vốn có của mình uốn ắn được những thị yếu cho đúng hướng.
Bản chất của HĐTH là hoạt động nghệ thuật, con người luôn vươn tới cái đẹp vươn tới cái ” chất thiện mỹ ” .Do vậy người ta càng quan tâm đến nghệ thuật sáng tạo nghệ thuật và thưởng thức nghệ thuật HĐTH nói chung và HĐXD nói riêng có vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn trẻ. HĐXD là hoạt động khó nhất nhất trong HĐTH đòi hỏi bàn tay khéo léo, óc quan sát tư duy, trí nhớ tưởng tượng…góp phần phát triển trí tuệ, trẻ tìm tòi khám phá để tạo ra bức tranh đẹp giúp cho trẻ hiể biết thêm những kiến thức cơ bản của HĐTH vá sử dụng hiệu quả trong tác phẩm nghệ thuật của mình .
Trong tác phẩm nghệ thuật xé dán của trẻ người ta có thể nhận thấy được trẻ muốn nói gì (ngôn ngữ tạo hình) thể hiện tình cảm gì (phương tiện truyền cảm)
Cũng như mơ ước ngày thơ của trẻ…Chính vì vậy cần tích cực cho trẻ hoạt động tạo hình nhất là hoạt động vẽ của trẻ.
Trên thực tế em thấy chất lượng các giờ dạy HĐTH ở trường MN. Chưa cao bởi các giờ học mang tính khuôn mẫu, áp đặt. Bài xé dán của các em mang tình tái tại dập khuôn. Thiếu đi sự mềm mại và ít có tính sáng tạo. Trong đó quá trình tổ chức các tiết học tạo hình của GV. Còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Việc đưa yếu tố chơi vào tiết học còn rất hạn hẹp mà lứa tuổi MN trẻ phải được “Học mà chơi, Chơi mà học”. Nhà tâm lý học Hà Lan IBBC de dop đã từng nói”Nếu tiến hành tiết học dưới hình thức trò chơi thì tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn” HĐTH cũng vậy việc đưa các yếu tố chơi vào tiết học sẽ làm tăng hướng thú cho trẻ, tạo lên tâm trạng phấn khởi mong muốn được tạo ra sản phẩm của mình thông qua các phương tiện tạo hình, đường nét, bố cục, màu sắc, giấy màu…
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã chon đề tài: ” Thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ mẫu giáo lớn 5 -6 tuổi phát triển kĩ năng xé dán “ Do trình độ hiểu biết của tôi còn hạn chế. Kính mong quý thầy cô giúp đỡ để bài tập của tôi được hoàn thiện hơn
2) Mục đích đề tài
Thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MGL. Nâng cao phát triển kỹ năng xé dán. Để từ đó nâng cao hiệu quả của việc giáo dục nghệ thuật mang tính tích hợp nhằm phát triển và giáo dục toàn diện cho trẻ
3) Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu lý luận xây dựng lý luận, hệ thống hóa một số lý luận trong việc “Thiết kế một số trò chơi”. Tạo hình nhằm nâng cao phát triển kỹ năng xé dán cho trẻ MG
3.2. Nghiên cứu thực trạng của đề tài
Tìm hiểu thực trạng trong việc tổ chức HĐTH cho trẻ MG hiện nay ở trường MN bán công Tri Trung – Phú Xuyên – Thành Phố Hà Nội
3.3.Thiết kế và tiến hành thực nghiệm áp dụng một số trơ chơi – Tạo hình để xác định hiệu quả giáo dục của các tró chơi đã thiết kế
4) Giả thiết khoa học
Nếu thiết kế một số trò chơi – tạo hình giúp trẻ nâng cao kỹ năng xé dán cho trẻ trong các đường nét trang trí dán, bố cục, giấy màu, nội dung…thì sẽ bồi dưỡng được khả năng quan sát và cung cấp vốn hiểu biết cho trẻ, kích thích được tình cảm, xúc cảm, thẩm mỹ, từ đó sẽ giúp trẻ nâng cao kỹ năng xé dán thông qua HĐTH
5) Giới hạn nghiên cứu
Khóa luận này nghiên cứu thiết kế một số trò chơi – tạo hình dành cho trẻ MGL.( 5 – 6T ) ở các trường MN các tiết học tạo hình tập chung vào thể loại xé dán
6) Khách thể và đối tượng nghiên cứu
6.1. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu việc tổ chức HĐTH cho trẻ từ 5-6T trong trường MN
6.2. Đối tượng nghiên cứu: Các trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MGL ( 5-6T ) nâng cao kỹ năng xé dán
7) Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, đọc, phân tích tài liệu đẻ xây dựng cơ sở định hướng cho đề tài
7.2. Phương pháp quan sát tự nhiên
– Quan sát HĐTH tự nhiên của cô và trẻ từ đó nhân xét, phân tích thực trạng của lớp nghiên cứu thực trạng trong khoảng 15 – 20 tiết học hoạt động xé dán của trẻ
7.3. Phương pháp điều tra
– Điều tra dán tiếp: điều tra bằng phiếu câu hỏi : đưa ra hệ thống câu hỏi xoay quanh HĐTH và cách tổ chức tiết HĐTH ra sao tại trường MN Tri Trung đối tượng MGL. Hệ thống câu hỏi đưa ra giáo viên đánh dấu vào những phần mình đã thực hiện được và ý kiến đề xuất các hình thức biện pháp nhằm nâng cao HĐTH
– Điều tra trực tiếp:
Tiến hành điều tra: chuẩn bị hệ thống câu hỏi sẵn đến từng lớp, gặp gỡ GV trao đổi về việc tổ chức HĐTH trong trường MN. Và việc đưa yếu tố chơi vào HĐTH
7.4. Phương pháp nghiên cứu HĐTH của trẻ :
-Thu thập sản phẩm tạo hình của trẻ, xem xét, phân tích quá trình hoạt động tạo hình xé dán của trẻ trong trò chơi bổ trợ
7.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
– Đây là phương pháp dùng để kiểm nghiệm những trò chơi đã thiết kế trong việc xây dưng đề tài.
– Thực nghiệm gồm 3 Bước. Chọn lớp MGL : gồm 15 – 20 trẻ cho một nhóm
Một nhóm đối chứng, một nhóm thưc nghiệm
Yêu cầu : Hai nhóm trên số trẻ tương đương về nhận thức và khả năng thực hiện
- a) TNKS : cho 3 bài xé dán dạy hai nhóm như sau
Quan sát hai nhóm đó kết quả
- Tiến hành thực nghiệm tác động
– Một nhóm đối chứng hoạt động tạo hình tự nhiên
– Một nhóm thực hiện có lồng ghép trò chơi do GV thiết kế : ( thực hiện thời gian 2 tháng )
- c) Thực nghiệm kiểm chứng
Tiến hành kiểm chứng bằng cách cho một bài tập chung cho cả hai nhóm.
Nhận xét, phân tích, so sánh kết quả sản phẩm của 2 nhóm và đưa ra kết luận cụ thể
7.6. Phương pháp sử lý số liệu bằng thống kê toán học:
Thống kê số liệu và tính % nhằm sử dụng số liệu thu được vào phân tích kết quả nghiên cứu.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1) Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
– Để tìm hiểu về quá trình và phát triển HĐTH của trẻ em, chúng ta xem xét sự phát triển của một dạng hoạt động mang tính tạo hình đặc trưng nhất và xuất hiện sớm nhất đó là hoạt động xé xé dán
Có nhiều quan điểm và nhiều cách phân loại khác nhau về các thời kỳ phát triển của HĐTH tuy nhiên đứng từ góc độ giáo dục MN có thể phân quá trình phát triển HĐTH của trẻ em mà cụ thể là hoạt động xé dán thành hai thời kỳ.Thời kỳ tiền tạo hình và thời kỳ tạo hình
– Thời kỳ tiền tạo hình: Thời kỳ này bắt đầu không giống nhau ở đứa trẻ thường vào cuối năm thứ 2 thời kỳ này diễn ra qua nhiều gia đoạn những đường nét lộn xộn không có ý nghĩa. Lúc này trẻ chưa có ý định thể hiện một sự nhất định nào cả các chi tiết xé chỉ là kết quả của sự thỏa mãn nhu cầu vận động khám phá thế giới xung quanh đồng thời cũng là kết quả của trẻ bắt chước hành động của người lớn. Sự ham thích thực hiện ” thao tác xé ” ở giai đoạn này chính là những biểu hiện tính tích cực khảo sát – định hướng. Một chức năng tâm lý được được hình thành trong quá trình vận động với đồ vật và giao tiếp người lớn. Lúc này trẻ vô cùng thỏa mãn khi nhìn thấy dấu vết hiện nên do chính mình tạo nên càng ngày trẻ càng bị thu hút vào những vận động
2) Các nội dung HĐTH của trẻ MN
– Nhóm nội dung 1 :
Các kiến thức, kỹ năng, năng lực thể hiện sự vật đơn giản
+ Sự thể hiện về hinh dạng
+ Sự thể hiện về kích thước của các vật mẫu và các bộ phận của chúng
+ Sự thể hiện cấu trúc
+ Sự thể hiện màu sắc
– Nhóm nội dung 2 :
Các kiến thức, kỹ năng, năng lực giúp trẻ thể hiện một nội dung mạch lạc
+ Sự thể hiện bố cục trong không gian
+ Sự thể hiện kích thước tương đối và tư thế của các hình ảnh
– Nhóm nội dung 3 :
Các tri thức, kỹ năng, năng lực trang trí
+ Sự sắp xếp vị trí không gian của bố cục trang trí
+ Sự lựa chọn hình dáng, họa tiết
+ Sự thể hiện màu sắc
– Nhóm nội dung 4 :
Các tri thức các kỹ năng có tính chất kỹ thuật về kiến thức và kỹ năng xé dán
Các kỹ thuật xé dán xé cần được luyện tập và sử dụng linh hoạt tùy theo nội dung nghệ thuật và ý tưởng biểu cảm
2.1. Vai trò HĐTH đối với việc giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ
– Đối với việc giáo dục và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ HĐTH có vị trí rất quan trọng .
– HĐTH là một trong những hoạt động hấp dẫn nhất đối với trẻ MG, nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiển một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh những gì làm trẻ rung động mạnh mẽ và gây cho chúng những xúc cảm, tình cảm, tích cực
– HĐTH là hoạt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự tác động đồng bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ em, về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và hình thành các phẩm chất kỹ năng ban đầu của con người như một thành viên trong xã hội biết lao động tích cực sáng tạo.
2.2.Cách tổ chức HĐTH cho trẻ MN
2.2.1.Các phương pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MN chính là hệ thống tác động qua lại của nhà sư phạm với trẻ để tổ chức hoạt động nhận thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ và hoạt động thực tiễn cho trẻ nhằm bồi dưỡng các năng lực tạo hình giúp trẻ là lắm được những hiểu biết cũng như các kỹ năng, kỹ xảo tạo hình, hình thành và phát triển ở trẻ khả năng sáng tạo.
Dựa vào bản chất HĐTH của trẻ em vào mục đích nhiệm vụ giáo dục và phát triển của hoạt động, vào đặc điểm nhận thức xúc, cảm tình cảm và khả năng hoạt động của trẻ MN, ngày nay người ta phân loại các nhóm phương pháp tổ chức như sau:
- a) Nhóm phương pháp thông tin – tiếp nhận
a.1.Ý nghĩa:
Đây là các phương pháp tạo điều kiện phát triển ở trẻ tri giác thẩm mỹ, giúp trẻ hiểu biết về nội dung miêu tả và phương thức tạo hình, hình thành hứng thú, bồi dưỡng khả năng cảm thụ thẩm mỹ.
a.2. Nội dung :
Nhóm phương pháp này bao gồm các quá trình quan sát, nghiên cứu các đối tượng miêu tả như các sự vật, các đồ chơi, các mô hình trang, ảnh, tranh minh họa và những quá trình cung cấp cho trẻ thông tin về các sự vật, hiện tượng xung quanh .
Nhóm phương pháp này còn gồm các quá trình hướng dẫn cho trẻ các phương thức, các kỹ năng tạo hình.
a.3. Yêu cầu về việc sử dụng
Trong nhóm này có 3 phương pháp cơ bản : quan sát, chỉ dẫn trực quan và dùng lời. Chúng ta sẽ xem sét các yêu cầu sử dụng của từng phương pháp đó.
Phương pháp quan sát :
Khi quan sát cần giúp trẻ tích cực vận dụng khả năng cảm giác, tri giác, hình thành các biểu tượng rõ nét về đối tượng miêu tả.
Quan sát không chỉ dừng lại ở nhận biết mà còn phân tích để tiến tới đánh giá thẩm mỹ thưởng thức cái đẹp.
Quá trình quan sát phải được tổ chức tốt để từng bước tạp cho trẻ biết phân tích, khái quát hóa hình ảnh của đối tượng tri giác. Những phương thức tri giác khái quát này sẽ được trẻ sử dụng để nắm bắt đặc điểm của nhiều sự vật, từ đó dễ dàng thiết lập các sơ đồ, phân biệt sự giống và khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng và dễ dàng tìm kiếm phương thức miêu tả phù hợp .
Khi quan sát một vật, cần tập cho trẻ biết dùng các thao tác trí tuệ để ” phân tách ” đối tượng thành các chi tiết, các bộ phận, sau đó tìm hiểu các đặc điểm, thuộc tính của chúng rồi ” lắp ghép ” chúng lại để từ đó nắm bắt hình ảnh, biểu tượng chung của đối tượng, đồng thời phát hiên ra những nét độc đáo của nó.
Một quá trình quan sát thường phải là sự phối hợp rất linh hoạt và hợp lý của các quá trình tri giác bao quát với tri giác tập trung. Cần giúp trẻ biết bắt đầu bằng quan sát bao quát toàn bộ diện mạo của đối tượng.
Nắm vững cách thức, kỹ năng quan sát như vật trẻ sẽ trở nên tích cực và tự lập tích lũy vốn kinh nghiệm xúc cảm, tri giác thẩm mỹ của trẻ sẽ dần dần hình thành và trở nên phong phú, làm cơ sở phát triển óc sáng tạo.
Hiệu quả của quá quan sát phụ thuộc không chỉ vào việc cho trẻ rèn luyện các cơ quan cảm giác mà còn vào việc cung cấp cho trẻ các chuẩn cảm giác mang tính xã hội ( các hình hình học cơ bạn, hệ thống các màu quang phổ, các cấu trúc nhịp điệu,…). Khả năng sử dụng các chẩn cảm giác trong quá trình cảm giác trong quá trinh quan sát, trong sát trong quá trình tạo nên hình ảnh hay mô hình tâm lý của đối tượng quan sát cũng là yếu tố quan trọng đem lại hiệu quả cho tri giác thẩm mỹ.
Chính vì vậy mà khi tổ chức cho trẻ quan sát các GV cần tập cho trẻ luôn tích cực so sánh, đối chiếu, tìm mối quan hệ giữa các tính chất, đặc điểm của sự vật với các chuẩn cảm giác mà trẻ biết.
Chất lượng của quá trình quan sát phụ thuộc phần lớn vào sự tham gia tích cực của trẻ, vào mối liên hệ với hoạt động lời nói và việc thực hiện các thao tác tri giác.
Việc tổ chức quan sát các hiện tượng, khung cảnh thiên nhiên, các sự kiện, cảnh sinh hoạt trong xã hội đòi hỏi sự tổ chức, chuẩn bị kỹ lưỡng hôn so với quá trình tổ chức quan sát các vật mẫu đơn lẻ. Để tránh hiện tượng nhiễu loạn, khó tập trung khi trẻ quan sát khá nhiều sự vật trong khung cảnh rộng, GV nên sắp xếp công việc chuẩn bị như sau :
– Lựa chọn đối tượng ;
– Lựa chọn thời điểm, góc độ quan sát làm sao cho trẻ thấy rõ mọi chi tiết đặc trưng nhất
– Suy nghĩ các câu hỏi để hướng sự chú ý cho trẻ vào những nét cơ bản của đối tượng, vào những đăc điểm cần thiết cho quá trình miêu tả của trẻ sau này.
Việc tổ chức quan sát trong hoạt động tạo hình cần được tiến hành một cách sinh động để gây hướng thú và hình thành các xúc cảm, tình cảm thảm mỹ ở trẻ. Các thao tác tổ chức quan sát vào trình tự quan sát phải được nghiên cứu kỹ phù hợp với đối tượng quan sát để sao cho khi kết thúc quá trình quan sát, trẻ có thể hiểu và hình dung ra trình tự của quá trình miêu tả, sự vận hành của các thao tác tạo hình và kết quả cần đạt được của sự thể hiện sau hoạt động.
Phương pháp chỉ dẫn trực quan :
Việc cho trẻ làm quen với các thủ pháp miêu tả mới cũng được tiến hành thông qua một trong những phương pháp của nhóm phương pháp thông tin – tri giác – đó là tri giác trực quan khi bắt đầu làm quen với hoạt dộng tạo hình, trẻ nhỏ cần phải học được cách thức sử dụng các loại dụng cụ và vật liệu ( bút chì, bút sáp, giấy, kéo, hồ dán, đát nặn,…). Trẻ cần phải nắm được các biện pháp truyền đạt hình dáng và các đặc điểm thẩm mỹ của đối tượng miêu tả bằng các kỹ thuật tạo hình khác nhau : kỹ thuật vẽ, nặn, xếp dán…
Muốn hình thành ở trẻ tất cả những hiểu biết, những kỹ năng cần phải chỉ dẫn, phải giả thích cho trẻ về cách thức hành động, về đặc điểm của các thao tác tạo hình.
Khi sử dụng phương pháp chỉ dẫn trực quan cần lưu ý một số điểm sau:
– Không nên chỉ dẫn các biện pháp miêu trả trên môĩ giờ học. Điều này chỉ cần thiết khi trẻ lần đầu tiên làm quen biên pháp đó, hoặc khi trẻ lắm chưa vững những biên pháp đã được hướng dẫn.
– Cùng với việc tổ chức chỉ dẫn, giả thích cần giúp trẻ tích cự huy động kinh nghiệm của mình, tập cho trẻ thói quen khi tiếp thu một thông tin mới, một biện pháp miêu tả mới cân biết đối chiếu, so sánh với những gì đã tiếp thu, tích lũy được từ trước đó, tự xây mối liên quan lại giưa cái mới và cái đã biết. Có thể cho trẻ tham gia vào quá trình chỉ dẫn ( lên bảng trình bày lại biện pháp tạo hình cần thiết, cùng nhau nhớ lại những gì đã làm trước đó) để hình thành, bồi dưỡng cho trẻ tính tích cực,độc lập trong hoạt động.
– Tùy theo mục đích, nhiệm vụ của giờ hoạt động và khả năng tạo hình của trẻ mà phối hợp linh hoạt giưa phương pháp chỉ dẫn toàn phần với phương pháp chỉ dẫn từng phần.
Phương pháp dùng lời :
Hoạt động lời nói đóng vai khá quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả của toàn bộ quá trình tạo hình: từ việc nghiên cứu đối tượng miêu tả, cảm nhận giá trị thẩm mỹ của đối tượng tới việc tổ chức khâu thể hiện – biểu cảm và đặc biệt la việc đánh giá, thưởng ngoạn thành quả của hoạt động nghệ thuật.
Các phương pháp, biện pháp dùng lời gồm : những lời dẫn, lời kể, những lời nói truyền cảm để mô tả vẻ đẹp của sự vật, những lời giải thích, chỉ dẫn, những câu hỏi – trả lời, những lời đàm thoại, trao đổi,… và cả thủ pháp ngôn ngữ kích xúc cảm như những bài hát, bài thơ, câu đố, câu chuyện…
Tính chất của phương pháp dùng lời phải được xác định và sử dụng phù hợp với nội dung thông tin và ngữ cảnh .Chẳng hạn, những lời giả thích, chỉ dẫn phương pháp tạo hình cần rõ dàng, ngắn gọn, dễ hiểu, những lời nói mô tả vẻ đẹp của sự vật lại phải sinh động đầy tính tưởng tượng , gợi cảm…phù hợp với khả năng tiếp nhận của trẻ. Những câu thơ, những bài hát, những mẩu chuyện sinh động được lồng vào một cách hợp lý và đúng chỗ sẽ giúp trẻ không chỉ hiểu về sự vật một cách chính xác, đầy đủ mà còn tạo điều kiện cho trẻ hình dung về đối tượng miêu tả, một cách rõ nét, đầy tính thẩm mỹ, chất nghệ thuật phong phú và từ các sản phẩm đó sẽ dẫn tới sự tượng sáng tạo nghệ thuật
Việc kích thích và phát triển lời nói của trẻ trong hoạt động nhận thức thẩm mỹ như hoạt động tạo hình là việc làm rất đáng chú ý : Để có thể huy động tích cực mọi khả năng của mình, trẻ cần được tự do trong thể hiện, cần được đàm thoại, trao đổi với nhau các cảm xúc, suy nghĩ, dùng ngôn ngữ nói mạch lạc để trình bày về những gì đã làm và sẽ làm, về các phương pháp miêu tả đã học cùng cách ứng dụng chúng, về những phương tiện tạo hình cần thiết để thể hiện để tài mới, về sự thành công của mình, của bạn.
Những biện pháp dùng lời nói có thể được sử dụng trong cả quá trình miêu tả ( xác định lại trình tự hành động, nhắc nhở, hỏi lại những gì mà trẻ quên, gợi cho trẻ nhớ lại, gợi cho trẻ bổ sung, làm phong phú cho hình ảnh được miêu tả…)
Trong một hoạt động mang tính sáng tạo nghệ thuật như hoạt động tạo hình cần tích cực sử dụng ngôn ngữ văn học, những lời nói so sánh , hình tượng hóa,…Lời nói của cô giáo cũng đặc biệt quan trọng trong quá trình nhận xét các sản phẩm của trẻ : Nó phải gây cho trẻ niềm vui sướng vì những gì chúng đã tạo nên, phải nhấn mạnh những thành công sáng tạo, những ý định tạo hình thú vị của trẻ, phải chỉ cho trẻ thấy sự giống nhau giữa sự vật với hình ảnh được miêu tả và giúp cho trẻ thể hiện tình cảm, thái độ trước kết quả hoạt động.
- Nhóm phương pháp thực hành – ôn luyện
b.1. Ý nghĩa
Phương pháp thực hành – ôn luyện là một hoạt động của cả GV và trẻ nhằm củng cố tri thức, bồi dưỡng các kĩ năng, rèn luyện, hình thành các kĩ xảo trong hoạt động tạo hình.
b.2. Nội dung
Bao gồm các cách thức hướng dẫn, các hoạt động, các bài tập tạo hình nhằm tổ chức cho trẻ vận dụng tích cực những hiểu biết, những thông tin mới tiếp thu được, tạo điều kiện cho trẻ được lặp lại, được rèn luyện các thao tác, các phương thức hoạt động tạo hình để hình thành các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tạo ra sản phẩm tạo hình.
b.3. Yêu cầu của việc sử dụng
Các bài tập thực hành và ôn luyện cần được sử dụng ở lớp, ở nhóm trong trường mẫu giáo, song hình thức tổ chức thực hiện và nội dung của chúng phải biến đổi phù hợp với độ tuổi.
Các bài thực hành – ôn luyện cần được sắp xếp theo hệ thống phát triển từ tạo hình tới tạo hình theo các đề tài phức tạp dần để dẫn trẻ từng bước đi tái hiện đơn thuần tới tái tạo tích cực, từ sự tiếp thu tích cực, củng cố các kĩ năng tới hình thành các kĩ xảo.
Việc lặp đi, lặp lại các nội dung tạo hình rất dễ làm cho trẻ chán, buồn tẻ và không mang lại kết quả tích cực. Bởi vậy, các đề tài ôn luyện cần được luôn thay đổi, tạo nên các yếu tố mới, lạ, gây cho trẻ sự ngạc nhiên, thích thú, kích thích sự tưởng tượng.
Các bài tập ôn luyện cần phải nhằm hình thành ở trẻ các kĩ năng, kĩ xảo, miêu tả khái quát nhằm giúp trẻ có thể độc lập lựa chọn và tổ chức quá trình tạo hình, thể hiện được nhiều sự vật, hiện tượng phong phú trong thế giới xung quanh.
Để quá trình hình thành – ôn luyện mang tính tích cực cần hạn chế sự sao chép, hạn chế sự hình thành khuôn mẫu. GV cần thường xuyên động viên, khuyến khích trẻ suy nghĩ, liên hệ; thay đổi phương thức và thời gian chỉ dẫn. muốn làm được điều này cần có những cách thức tổ chức hoạt động khiến trẻ phải chủ động tiếp thu kinh nghiệm mới, vận dụng các kinh nghiệm cũ trong các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Có thể áp dụng các giải pháp sau:
– Tổ chức quan sát bổ sung;
– Cải tiến ,đa dạng hóa mấu đối tượng miêu tả;
– Phát triển mở rộng nội dung các đề tài;
- c) Nhóm phương pháp tìm tòi – sáng tạo
c.1. Ý nghĩa
Các phương pháp tìm tòi – sáng tạo là những hoạt động của GV và trẻ nhằm động viên, kích thích hoạt động tìm kiếm, khám phá, phát hiện và sáng tạo trong HĐTH, qua dó mà phát triển khả năng tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng sáng tọa của trẻ.
c.2. Nội dung
Các phương pháp tìm tòi – sáng tạo bao gồm các phương pháp hướng dẫn mang tính gợi mở, các hoạt động, các bài tập tạo hình theo điều kiện, các tình huống có vấn đề trong tạo hình, các bài tập sáng tạo tạo hình.
c.3. Yêu cầu của việc sử dụng
Phương pháp tìm tòi (còn được gọi là phương pháp tìm kiếm từng phần) :
Với phương pháp này người ta từng bước đưa vào quá trình tiếp nhận những yếu tố sơ đẳng của hoạt động sáng tạo mà trẻ có thể thực hiện được ở mọi độ tuổi.
Phương pháp sáng tạo :
Đây là một phương pháp tổ chức hoạt động nhằm giúp trẻ không chỉ tìm kiếm từng phần mà còn biết độc lập tổ chức một quá trình sáng tạo, giải quyết các bài tập mang tính sáng tạo theo dự định tạo hình của riêng trẻ.
Nội dung các bài tập tạo hình sáng tạo thường là những đề tài tự chọn (thể hiện những khung cảnh, sự kiện iện tượng tương đối phức tạp) những cốt truyện hay nội dung các tác phẩm nghệ thuật khác. Sự thàng công mang tính nghệ thuật của việc thực hiện bài tập sáng tạo phụ thuộc vào mức độ rõ ràng của ý định tạo hình. Để có thể hình thành được ý định tạo hình, đứa trẻ cần có sự dẫn dắt, giúp đỡ của GV, đồng thời trẻ phải tích cực huy động tất cả mối kinh nghiệm đã tích lũy được và sử dụng chúng một cách linh hoạt nhằm giải quyết nhiệm vụ tạo hình mới trong phương pháp hướng dẫn trẻ mẫu giáo hoạt động tạo hình, người ta xác định một số con đường cơ bản để kích thích quá trình hình thành ý định tạo hình, khuyến khích hoạt động sáng tạo của trẻ như :
Con đường thứ nhất :
Giúp trẻ tích lũy, làm giàu vốn hiểu biết, vốn biểu tượng phong phú và xúc cảm, tình cảm về các sự vật, các hiện tượng xung quanh. Đây là cả một quá trình đòi hỏi được tổ chức liên tục, có hệ thống, có mức độ nâng dần, phong phú dần.
Trong quá trình này cần chú ý chỉ cho trẻ thấy rõ những nét khác biệt nổi bật, đặc trưng giữa các sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó có sự phân nhóm, khái quát hóa, tìm ra những nét độc đáo, những đặc điểm thẩm mỹ của đối tượng.
Con đường thứ hai :
Tổ chức hoạt động thực tiễn tạo ra sản phẩm tạo hình. Đây là quá trình mà trẻ được trải nghiệm lại những cảm xúc, ấn tượng, ” làm sống lại” các biểu tượng, hình tượng được lưu trữ trong trí nhớ và thể hiện lại những hình ảnh mà chúng nhớ được, chúng tưởng tượng ra. Có thể nói đây là quá trình trẻ biến ước mơ của mình thành hiện thực. Chính trong quá trình này, ý định tạo hình sẽ được trẻ nhận thức lại, bổ sung làm cho phong phú hơn, hấp dẫn hơn.
Nhiệm vụ sư phạm ở đây là động viên kịp thời các sáng kiến giúp trẻ tiếp thu, bổ sung, chính xác hóa các hiểu biết, làm phong phú các biểu tượng, hình tượng.
Con đường thứ ba :
Hướng dẫn, dìu dắt trẻ tới hoạt động tìm kiếm, khám phá, đưa vào sản phẩm tạo hình những nét mới lạ, những suy nghĩ ” của riêng mình “. Kịp thời khuyến khích và phổ biến những sáng kiến trong việc giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề tạo hình.
Trong tổ chức hoạt động cần hạn chế sự bắt chước, sao chép mẫu, tập cho trẻ miểu tả theo nhiều phương án khác nhau, vận dụng nhiều biện pháp miêu tả khác nhau. Lúc đầu cần có sự chỉ dẫn của cô giáo, dần dần tiến tới động viên , tạo điều kiện cho hoạt động tìm kiếm độc lập.
Con đường thứ tư :
Tổ chức và tạo mối liên hệ mật thiết giữa HĐTH với các hoạt đông thẩm mỹ khách như : âm nhạc, thơ văn, sân khấu,…
Mối liên hệ này đặc biệt cần thiết để phát triển tính sáng tạo nghệ thuật của trẻ, đồng thời giúp trẻ hình thành những biểu hình tượng đậm nét, phát triển óc tưởng tượng nghệ thuật. Các đề tài của các sản phẩm văn học, âm nhạc…,các hình tượng nghệ thuật cần được trẻ tìm kiếm, lựa chon và được trẻ thể hiện vào tranh vẽ, hình nặn,…với những sắc thái rất khác nhau.
Tóm lại để phát triển tính tích cực độc lập sáng tạo cần giúp trẻ chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ tạo hình được đặt ra và định hướng cho hoạt động tưởng tượng của trẻ.
Trước quá trình miêu tả, cô giáo giúp trẻ hình thành ý định tạo hình càng rõ nét bao nhiêu thì trong quá trình thể hiện thì trẻ lại càng tự tin, càng tự lập, chủ động trong hành động bấy nhiêu.
- d) Nhóm các biện pháp mang tính vui chơi :
Đặc điểm lứa tuổi trẻ MG và đặc điểm của HĐTH, đời hỏi các nhà sư phạm phải tìm kiếm, sử dụng các biện pháp mang sắc màu của HĐVC để tổ chức hoạt động giúp trẻ tính tích cực.
d.1.Ý nghĩa :
Việc sử dụng các biện pháp mang tính vui chơi trong các tiết HĐTH sẽ làm tăng hứng thú của trẻ, tạo nên tâm trạng phấn khởi, mong muốn được vẽ, nặn, cắt dán và làm tăng hiệu quả của việc huy động trí lực trong quá trình hoạt động.
Các biện pháp mang tính vui chơi được sử dụng để hỗ trợ cho các phương pháp tổ chức HĐTH, bổ trợ cho chúng trong việc thực hiện mục đích của HĐTH.
d.2. Nội dung
các biện pháp mang tính vui chơi để tổ chức hoạt động tạo hình bao gồm các tình huống chơi trong HĐTH, các biện pháp tổ cức hướng dẫn mang dáng vẻ của trò chơi, các trò chơi – tạo hình, ….
d.3. Yêu cầu của việc sử dụng
Để tìm kiếm, phân loại và sử dụng các biện pháp tổ chức HĐTH mang tính vui chơi cần nắm bắt được bản chất của yếu tố vui chơi trong tạo hình, hiểu được sự giống và khác nhau giữa HĐTH và HĐVC.
Hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp mang tính vui chơi phụ thuộc vào một số điều kiện sau:
– Trẻ phải có vốn hiểu biết, ấn tượng, kinh nghiệm khá phong phú về nội dung chơi – tạo hình.
– Trẻ cần có những xúc cảm, tình cảm thích hợp với các tình huống chơi – tạo hình.
– Động cơ chơi trong các tình huống chơi phải tương ứng với đọng cơ tạo hình để huy động hoạt động tích cực của trí tưởng tượng hướng nó vào quá trình sáng tạo trong HĐTH.
Phân loại các biện pháp mang tính vui chơi trong HĐTH:
Các biện pháp mang tính vui chơi khi sử dụng để tổ chức HĐTH cần được phân loại theo mục đích, nhiệm vụ của HĐTH, theo tính chất của phương pháp tổ chức hoạt động mà nó bổ trợ. Cụ thể, có thể phân các biện pháp đó thành các nhóm như sau:
Nhóm 1: Các biện pháp vui chơi tìm hiểu thế giới xung quanh.
Nhóm biện pháp này bao gồm các tình huống, các loại trò chơi này nhằm tổ chức cho trẻ tìm hiểu, tiếp thu, củng cố hiểu biết về các sự vật, hiện tượng xung quanh, củng cố hệ thống hóa các chuẩn cảm giác, tiếp thu các phương thức hoạt động.
Nhóm 2: Các biện pháp chơi – miêu tả có chủ đề
Nhóm này gồm nhiều tinh huống chơi – tạo hình, nhiều trò chơi tạo hình mang tính “sắm vai”. Áp dụng các biện pháp này, GV cần phải tọa cơ hội để nội dung chơi gắn với nội dung tạo hình, động cơ chơi gắn với động cơ tạo hình và các hành động chơi sẽ thích ứng với các hành động tạo hình.
Tính vui chơi của tình huống tạo hình gắn liền với các kinh nghiệm sống và vốn xúc cảm, tình cảm của trẻ sẽ làm tăng hứng thú thẩm mĩ và sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của trẻ trong hoạt động thực tiễn.
Nhóm 3: Các biện pháp chơi – ôn luyện
Đây là nhóm các biện pháp giúp cho quả trình rèn luyện, ôn tập, củng cố không bị tẻ ngắt, nhàm chán, đồng thời tạo điều kiện phát triển trí tưởng tượng.
Tính nhịp điệu của sự lắp đi, lặp lại các thao tác tạo hình và các hình ảnh trong trò chơi tạo hình là yếu tố tạo nên ở trẻ nhỏ niềm vui thích, cảm hứng trong hoạt động.
Bởi vậy các biện pháp này thường được dùng khi tổ chức hoạt động của trẻ ở các độ tuổi nhỏ.
Tính hình tượng của đề tài tạo hình được phát triển trong tình huống chơi sẽ kích thích trí tưởng tượng và làm cho trẻ luôn cảm nhận và tạo ra sự mới mẻ trong sự lặp đi lặp lại.
Nhóm 4: Các biện pháp ” trò chơi hóa” sản phẩm tạo hình
Đây là các biện pháp được sử dụng khi đã có các sản phẩm tạo hình hoàn thiện, chúng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển khả năng tưởng tượng và sáng tạo của trẻ.
Động cơ chơi lúc này gắn liền với hứng thú, ham muốn của trẻ là được chơi, được vận động với các sản phẩm của mình tạo nên.
Các hoạt động chơi lúc này gần như không còn gắn với các hành động tạo hình và các hành động chơi thường được thực hiện ở dạng tưởng tượng.
Qua các trò chơi với các sản phẩm tạo hình, trẻ sẽ ý thức rõ hơn về ý tưởng tạo hình và từ đó có thể nảy sinh ý tưởng mới.
Sử dụng các sản phẩm tạo hình và các tình huống, vận động thực sẽ giúp trẻ dễ dàng nhận xét, đánh giá và thưởng thức các giá trị thẩm mỹ cũng như chất lượng kĩ thuật của các sản phảm tạo hình đa hoàn thiện.
2.2.2.Các hình thức tổ chức HĐTH :
- a) HĐTH trên tiết học:
Tiết học ( có thể gọi là giờ hoạt động ) là hình thức dạy học đóng vai trò chủ chốt, ở đó trẻ có thể tìm hiểu cuộc sống xung quanh, tìm hiểu thế giới vạn vật một cách có tổ chức nhất là tiếp thu các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo theo một chương trình có tính hệ thống .
HĐTH có thể được tiến hành trẻ nhiều loại tiết học:
– Tổ chức HĐTH ở các tiết học tạo hình : ở các tiết hoc đó HĐTH là hoạt động chính, chiếm phần lớn thời gian. Các nhiệm vụ tạo hình là các nhiệm vụ cơ bản của tiết học.
– HĐTH còn có thể được thực hiện trên các tiết học của các lĩnh vực hoạt động kahcs : ở các tiết học này có thể giải quyết bổ xung một số nhiệm vụ của HĐTH, bởi vậy trong các hoạt động của những tiết học đó có xen vào một số yếu tố của hoạt động mang tính tạo hình.
- b) HĐTH ngoài tiết học :
Đây là những dạng hoạt động mang tính tự do mà trẻ có thể tham gia một cách tự nguyện, tự giác. Các hoạt động này có thể diễn các ở những thời điểm khác nhau trong ngày một cách hợp lý không theo một trình tự chặt chẽ về giờ giấc.
Hình thức này lại có hai nhóm :
Nhóm thứ nhất : là các hình thức hoạt động do giáo viên tổ chức thực hiện, được đưa vào kế hoạch chương trình của HĐTH.
+ HĐTH kết hợp với vui chơi.
+ HĐTH ứng dụng vào sinh hoạt : Lễ hội, trang trí môi trường,…
+ Hoạt động mang tính tạo hình trong các giờ rảnh rỗi : GV cung cấp thông tin về các đối tượng miêu tả, trao đổi, cùng hoạt động với trẻ để lắm bắt hiểu biết, suy nghĩ của trẻ, gợi những xúc cảm, bồi dưỡng sự cảm thụ về nét đẹp của các sự vật, hiện tượng.
+ Tổ chức giờ quan sát chuyên biệt : chuẩn bị cho các giờ hoạt động tạo hình qua các hoạt động như : quan sát, đàm thoại, phân tích các đặc điểm thẩm mĩ các sự vật, làm quen với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, tìm hiểu, tích lũy các kinh nghiệm văn hóa tạo hình,…
Nhóm thứ hai : là các hình thức HĐTH do cá nhân trẻ tự lựa chọn và thực hiện :
+ Hoạt động tự do của trẻ ở các góc ” tạo hình “, trong các giờ tham quan, dạo chơi, hoạt động tạo hình ở gia đình,…
+ Chơi – tạo hình tại các góc trong phòng lớp hoặc ngoài trời.
Hiện nay, khi phân tích đặc điểm hoạt động của trẻ em, người ta càng thấy rõ hơn rằng : ở tuổi mầm non, sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ diễn ra không phải qua các tiết học của môn khoa học riêng lẻ mà dưới tác động đồng bộ của nhiều dạng hoạt động theo quan điểm tích hợp. Các hoạt động này giúp trẻ lĩnh hội, khám phám những hiểu biết mới về tự nhiên, xã hội, khoa học. kỹ thuật, bồi dưỡng năng lực nhận thức, khả năng vận động để từng bước hòa nhập vào thế giới xung quanh, và nhờ đó mà chuẩn bị những khả năng cần thiết cho việc tiếp thu nền giáo dục ở các bậc học tiếp theo.
2.2.3. Tổ chức hoạt động xếp dán tranh
Xếp dán tranh là một loại HĐTH mà ở đó trẻ thể hiện hình ảnh nghệ thuật lên không gian hai chiều bằng cách sắp xếp các mảng hình theo một bố cục mang tính nghệ thuật và gắn chúng lên một nền phẳng – mặt giấy, gỗ.
Ngày nay, trong giáo dục trẻ em, người ta có thể mở rộng phương thức thể hiện các loại hình hoạt động dán bằng cách phối hợp cả sử thể hiện 2 chiều với sự thể hiện 3 chiều, phối hợp với nhiều loại chất liệu phong phú trong một sản phẩm tạo hình.
- Nội dung giáo dục và phát triển của chương trình HĐXD
Trẻ nhỏ rất yêu thích các hoạt động xếp – ghép – dán lên mặt phẳng 2 chiều bằng các phiến, các mảng hình nhiều màu sắc. Vẻ sặc sỡ, rực rỡ của các mảnh hình dễ cuốn hút trẻ, tính nhịp điệu của các thao tác sắp đặt gay cho trẻ hứng thú đặc biệt.
Các cơ hội xê dịch, chắp ghép, xếp chồng, tre lấp các mảnh hình, các chi tiết, các bộ phận của hình tượng trong HĐXD tranh tạo điều kiện cho trẻ học hỏi nhiều điều về kích thước, tỉ lệ, cấu trúc của các sự vật và tâp sắp xếp bố cục trên mặt phẳng của không gian 2 chiều.
– Củng cố và phát triển hiểu biết về các tình hình học cơ bản và khả năng so sánh, phát triển sự giống – giống nhau của các hình : hình vuông với vuông với hình thoi, hình bình hành với hình chữ nhật, hình chữ nhật với hình thang,…
– Tập phân loại, gộp nhóm các hình tự nhiên theo dấu hieeujkhais quát và theo mối liên hệ giữa các hình hình học, các hình có tổ chức.
– Mở rộng và hệ thống hóa các màu sắc ( theo thứ tự quang phổ). Phân biệt, gọi tên và xác định quan hệ của các sắc thái màu. Tập liên hệ màu sắc với các trạng thái cảm nhận. cảm thụ : màu vui, màu buồn, màu nóng – màu lạnh, màu xa – màu gần, màu sáng – màu tối, và tích cực sử dụng màu sắc để tạo nên vẻ đẹp, gây sức truyền cảm cho tranh.
– Để bồi dưỡng khả năng định hướng không gian cần tạo điều kiện giúp trẻ hiểu và hình dung ra các khái niệm không gian như : ” đối diện”, ” cân đối “, ” từng cặp “, “bất đối xứng “, ” ở cùng mức độ “, ” một tầng cảnh “, ” hai tầng cảnh “,…
– Trẻ bắt đầu làm quen với các bố cục trang trí theo mạng, bố cục trang trí đăng đối ( đăng đối theo một trục – đối xứng, theo một tâm và nhiều hệ trục. ).
– Để tạo tranh đề tài, cần tăng cường cho trẻ liên hệ giữa không gian ba chiều với không gian hai chiều và tập thể hiện chiều sâu không gian tranh với nhiều tầng cảnh.
– Tập thể hiện trạng thái của sự kiện, chủ đề bằng sự thay đổi tư thế, vận động của hình ảnh.
– Tăng cường phát triển các kỹ năng và rèn luyện sự khéo léo của các kỹ xảo xé, cắt: trẻ tập xé, cắt theo nhiều phương phát: cắt, xé các hình hình học, cắt, xé hình từ tờ giấy gập đôi, từ tờ gập nhiều lần và xếp nếp, cắt, xé hình theo đường nét vẽ và cắt, xé hình đơn giản không theo nét vẽ.
– Tập phối hợp giữa kỹ thuật cắt với kỹ thuật xé tạo nên chất thảm mỹ cho tranh, thể hiện nội dung nghệ thuật của ý định sáng tạo.
– Tăng cường bồi dưỡng khả năng độc lập tổ chức hoạt động và hợp tác, phối hợp động trong các giờ hoạt động nhóm và làm bài tập thể.
– Tăng cường cho trẻ phối hợp linh hoạt sáng tạo các chất liệu và phương pháp tạo hình.
- Gợi ý điều kiện vật chất của hoạt động xếp dán tranh.
Với xu hướng tích cực phối hợp ” sự thể hiện hai chiều ” với ” sự thể hiện ba chiều ” bằng nhiều vật liệu, chất liệu phong phú trong trường MN cần trang bị cho hoạt động của trẻ các loại vật, liệu, công cụ sau :
– Vật liệu xếp dán :
+ Giấy làm nên tranh : các loại giấy dày, không quá mềm, bìa, giấy phế liệu.
+ Giấy làm hình : giấy thủ công, giấy phế liệu ( báo, họa báo, sách,…) không quá cứng và không quá bóng.
+ Bột màu.
+ Các mảnh nhựa, vải, sợi, len vụn ( đôi khi cả mảnh gốm ).
+ Các phiến gỗ mỏng.
+ Các vật liệu thiên nhiên : vỏ cây, lá cây, cánh hoa, vỏ sò, vỏ hến, vỏ trứng, một số hạt cây,…)
+ Hồ dán, giẻ ẩm lau tay.
– Dụng cụ cho hoạt động xếp dán :
+ Tăng bông hoặc chổi phết hồ.
+ Các bút màu, bút lông, bàn chải.
+ Kéo, kim khâu.
+ Búa nhỏ, kìm, đinh ghim,…
– Không gian hoạt động :
+ Trong phòng lớp : không gian chung và các góc ( trên bàn và sàn nhà ).
+ Ngoài lớp học : ngoài sân, vườn, trong các cuộc dạo chơi ngoài thiên nhiên.
– Một số điều cần chú ý khi sử dụng các dụng cụ, vật liệu :
+ Tùy theo loại vật liệu và tính chất cảu chúng ( giấy, các loại vải, vật liệu thiên nhiên,…) mà sử dụng hoặc phối hợp các kỹ thuật cắt hay xé và các kỹ thuật tạo hình khác.
+ Đặc biệt chú ý cho trẻ rèn luyện kỹ thuật cắt bằng kéo : cầm kéo tay phải đúng cách, giữ và xoay giấy bằng tay trái,…
+ Chú ý kỹ thuật dán : trước khi dán sắp xếp thành bố cục tranh từ các phần đã được cắt (xé), sau khi chỉnh sửa bố cục, lần lượt nhẹ nhàng dán các hình theo bố cục đã xếp. Bôi hồ mặt trái cẩn thận bằng đầu nhón tay hoặc bằng công cụ ( tăm bông, que giấy chổi phết hồ,…)
+ Giúp cho trẻ tập nhận biết và sử dụng các loại keo, hồ tùy theo loại chất liệu của mình ( keo dùng cho vải khác với keo dùng cho giấy.)
+ Cho trẻ làm quen và tích cực sử dụng các kỹ thuật mới : Gấp, cuốn, vò nắm, vo viên.
+ Cần nghiên cứu, tổ chức ” Góc lưu trữ vật liệu ” và dạy trẻ những cách thức sắp xếp, bảo quản các loại vật liệu (giấp, vải, vật liệu tự nhiên,…) ở nơi thích hợp ( trong các loại túi, phong bao, hộp chai lọ,…), có trật tự và tiện cho việc sử dụng, don dẹp.
- c) Tổ chức hoạt động của trẻ :
c.1.Tạo động cơ cho hoạt động xếp dán :
– Nguồn cảm hứng cho sử thể hiện trong hoạt động xếp dán có thể xuất phát từ chính những trò chơi, đặc biệt các trò chơi xếp hình, ghép tranh bằng các bộ đồ chơi chất liệu cứng.
– Những tìm kiếm, khám phá các hình dáng đa dạng của mọi vật trong môi trường xung quanh trẻ cũng xuất phát điểm của các ý tưởng tuyệt vời.
– Động cơ của hoạt động còn xuất phát tư các tình huống thú vị xảy ra trong các cuộc dạo chơi ngoài thên nhiên, các câu chuyện, những sự kiện, hiện tượng xung quanh.
– Nội dung các chủ đề giáo dục trong trường mầm non cũng là nguồn nội dung pohng phú cho hoạt động của trẻ.
c.2.Tổ chức hoạt động cho trẻ 5 -6 tuổi :
– Tổ chức các quá trình quan sát, các hoạt động nhóm nhỏ và cá nhân để trẻ tự tìm kiếm, tích lũy thông tin, mở rộng vốn biểu tượng hình tượng cho hoạt động ( quan sát, dạo chơi, tham quan, xem tranh ảnh, đồ chơi,…)
– Huy động sự tham gia của trẻ vào các cuộc đàm thoại, dùng các câu hỏi – trả lời để tăng cường tính tích cực hoạt động lời nói, hoạt động trí tuệ của trẻ. Có thể cho trẻ kể về đối tượng miêu tả và trình bày, trao đổi về cách thể hiện : cách chọn vật liệu, chọn kỹ thuật tạo hình thích hợp.
– các tranh mẫu cho trẻ độ tuổi này chỉ được sử dụng khi trẻ phải thể hiện nội dung mới và nên đưa ra nhiều phương án của mẫu hạn chế khả năng so chép thụ động, đồng thời tăng hấp dẫn cho hoạt động.
– Phương pháp chỉ dẫn trực quan chỉ sử dụng đề truyền đạt các kinh nghiệm mới. Với các phương thức miêu tả quen thuộc cần động viên trẻ tham gia trình bày trước lớp, không chờ đợi sự hướng dẫn của GV.
– Ở độ tuổi này cần cho trẻ quan sát so sánh, phân loại các đối tượng miêu tả theo nhiều dấu hiệu để tìm những phương phá, kỹ thuật thể hiện chung cho nhóm đối tượng và chuẩn bị vật liệu phù hợp. Trẻ 5 – 6 tuổi bắt đầu tập cắt các hình co cấu trúc đối xứng từ tờ giấp gập đôi. Bởi vây, cần thường xuyên sử dụng các biện pháp mang tính vui chơi để giúp trẻ tập hình dung ra ” Một nửa “, cho trẻ thực hiện các thao tác tập luyện – ” phác thảo ” trong không khí đường viền bao của một nửa hình ảnh vật mẫu, tiến tới thực hành gập giấp và cắt một nửa sự vật.
– Khi tổ chức cho trẻ quan sát, nhận xét sản phẩm hoạt động cần giúp trẻ không chỉ quan tâm đến sự thể hiện nghệ thuật mà còn đánh giá được cả chất lượng của kỹ thuật tạo hình. Dùng các biện pháp ” trò chơi hóa sản phẩm tạo hình ” để tăng cường khả năng phối hợp hình tượng hai chiều với hình tượng ba chiều, tạo nhiều cơ hội cho trẻ ứng dụng và cảm nhận, vui sướng về thành quả hoạt động của mình.
3) HĐVC ở trẻ mầm non và mối quan hệ giữa HĐVC – HĐTH
3.1. Đặc điểm HĐVC của trẻ MN.
– Chơi của trẻ không phải là thật mà là giả vờ ( giả vờ làm cái gì đó ) nhưng sự giả vờ ấy của trẻ lại mang tính rất thật như : mẹ chăm sóc con.
Chơi không nhằm tạo ra sản phẩm mà chỉ nhằm hỏa mãn nhu cầu được chơi. Nhà giáo dục người nga K.D.usinxki cho rằng : trẻ chơi là vì chơi, chơi để mà chơi, chơi mang lại niềm vui cho trẻ khi trẻ phải chơi theo sự áp đặt của người lớn thì lúc ấy trò chơi theo đúng nghĩa của nó.
Khác với các hoạt động khác, động cơ chơi của trẻ nằm ngay trong các hành động chơi chứ không nằm trong kết quả chơi. Chính những hành động trong khi chơi kích thích trẻ chơi và duy trì hứng thú chơi của trẻ .
– Chơi là một hoạt động độc lập, tự do và tự nguyện của trẻ mẫu giáo.
– Nội dung chơi của trẻ phản ánh cuộc sống hiện thực xung quanh .
– Trong quá trình chơi có sự liên kết hài hòa giữa hình ảnh nhân vật hành động chơi và lời nói với nhau, chúng tạo thành phương tiện để phản ánh hiện thực.
Tính dáng tạo của trẻ thể hiện rõ nét trong hoạt động chơi
3.2. Ý nghĩa của HĐVC với trẻ mầm non.
HĐVC đã giả quyết được nhu cầu bức thiết mong muốn được lam người lớn, hành động như người lớn.
HĐVC là hoạt động chủ đạo của trẻ chơi gây ra những biến đổi về chất có ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách trẻ MG và chơi làm tiền đề cho hoạt động học tập ở lứa tuổi tiếp theo.
HĐVC là những phương tiện giáo dục và phát triển cho trẻ MG trong khi chơi trẻ được phát triển trí tuệ, được giáo dục đạo đức, giáo dục thể lực và phát triển thẩm mỹ ở trẻ.
Ngoài ra, chơi còn là hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường MG. Trong khi chơi hình thành ” xã hội trẻ em ” và các biểu hiện tình cảm thân ái cảm thông lẫn nhau .
3.3.Mối quan hệ giữa HĐVC và HĐTH
Chơi và HĐTH của trẻ MG rất gần gũi với nhau, những kỹ năng tạo hình của trẻ giúp cho trẻ dễ dàng thực hiện ý định chơi ( làm đồ chơi xây dựng công trình…) Đặc biệt trò chơi lắp ghép – xây dựng ra đời trên cơ sở của HĐTH vì trẻ có thể tạo ra các công trình khi nó nắm vững kỹ năng xây dựng mà phần lớn kỹ năng xây dựng trẻ được học trên các tiết học tạo hình.
– Thực tế đã chỉ ra rằng, việc dạy trẻ các kỹ năng xây dựng tạo điều kiện cho trẻ phát triển các trò chơi của mình.
– Tóm lại chơi có mối quan hệ chắt chẽ học tập, lao động tạo hình. Chính các mối quan hệ qua lại này đã cuốn hút trẻ MG và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của trẻ MG.
3.4. Các loại trò chơi ở trường MN
3.4.1.Trò chơi sáng tạo.
3.4.2.Trò chơi học tập.
3.4.3.Trò chơi vận động.
3.5. Cách tổ chức HĐVC
- Lựa chọn chủ đề chính .
Chọn các trò chơi kết hợp phù hợp với chủ đề chính
– Nêu mục đích – yêu cầu của buổi chơi.
– Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất cho buổi chơi.
- Hướng dẫn buổi chơi :
Gợi ý, hướng lái cho trẻ thảo luận về chủ đề chính gợi ý cho trẻ, thỏa thuận.
Trẻ nhận góc chơi và vai chơi.
– Quá trình chơi :
Cô bao quát, hướng lái trẻ chơi đúng chủ đề chỉnh sửa các hành vi, hành động sai của trẻ.
– Nhận xét góc chơi :
Cô đến từng góc nhận xét nhóm chơi, góc chơi sau đó mời cả lớp đến thăm một góc chính và trẻ tự nhận xét.
Chương II
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ THIẾT KẾ MỘT SỐ
TRÒ CHƠI – TẠO HÌNH
1) Mục đích nghiên cứu thực trạng.
Để thực hiện tốt đề tài trên, trước hết ta cần tìm hiểu, xem xét tình hình thực tế cụ thể của một số trường MN với các nội dung nghiên cứu sau :
– Tình hình sử dụng yếu tố chơi vào HĐTH cho trẻ MGL tạo nên một số trường và kỹ năng, năng lực xé dán của trẻ như thế nào.
– Trên cơ sở đó tôi đã thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MG- 5-6 tuổi phát triển kỹ năng xé dán .
2) Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
2.1.Phương pháp điều tra trực tiếp.
2.1.1.Gặp gỡ GV Nguyễn thị Tứ. Thôn Cổ Hoàng, trường MN xã Hoang Long.
Cô vui vẻ trả lời với các câu hỏi như sau :
? Chị cho biết khả năng tạo hình nói chung và khả năng xé dán nói riêng có nhiêu điểm ?
– Ban đầu do tình hình khách quan của địa phương các cháu theo học lớp ghép đến 5 -6 tuổi cháu mới được học riêng biết do vậy các kỹ năng, kỹ xảo và vốn biểu tượng sự vật hiện tượng còn lại hạn chế.
Cách xé không được thuần thục, không biết xé lượm vết xé rất nham nhở. Dán không được mịn, chọn màu sắc chưa được hài hòa.
? Chị đã đua yếu tố chơi vào tiết dạy tạo hình chưa ?
– Do các cháu còn chưa có kỹ năng, kỹ xảo xé dán nên tôi thỉnh thoảng đưa trò chơi vào vì tiết xé dán phải kéo dài không chia đủ thời gian chơi trò chơi
? Kết quả tạo hình của cháu ra sao ?
– Các cháu có kiến thức cơ bản đã nắm vững biết cách xé, cách chon màu, cách dán bố cục.
Song nhìn chung bài của trẻ chưa được sắc nét lắm.
2.1.2. Gặp cô Nguyễn Thị Tính, thôn Trình Viên, xã Phú Túc
? HĐTH nói chung, HĐXD trường cô nói riêng?
– HĐXD lớp của tôi chưa được tốt lắm vì lớp tôi cũng là lớp ghép lên trẻ không được xé từ lớp nhỏ lên trẻ không thuần thục săc nét, đến 5 – 6 tuổi cháu mới có những bài xé dán riêng .
? Chị có sử dụng trò chơi vào tiết dạy không
Tôi rất ít sử dụng vì trẻ xé dán một bài chiếm khá nhiều thời gian nên bài nào dễ tôi mới đưa trò chơi vào.
2.1.3. Gặp cô Nguyễn Thị Hạnh, xã Hồng Minh.
? Chị cho biết HĐTH nói chung và HĐXD trường chị như thế nào ?
– HĐTH trường nói chung trẻ làm rất riêng xé dán lớp tôi là lớp ghép lên việc dạy trẻ cả ba độ tuổi xé dán là raatfs khó, vì lớp lopwns xé tốt hơn.
? Chị có sử dụng trò chơi vào tiết học không ?
– Rất ít, vì lớp ghép không đủ để cho trẻ chơi trò chơi thiếu về cô thiếu về phần ngoài trời ở địa phương chưa đủ ngoại cảnh để cho trẻ tham quan trò chơi.
? Kết quả trẻ lắm ra sao ?
– Kết quả cơ bản về kiến thức là trẻ lắm được còn nghệ thuật, kỹ xảo chưa đạt được không có bài nào nổi trội.
2.1.4. Gặp cô Nguyễn Thị Sinh, trường MN Tri Trung
? HĐTH tại lớp chị như thế nào? Môn xé dán ra sao ?
– HĐTH của lớp trẻ làm rất tốt, cá biệt một số trẻ là chưa có từng độ tuổi riêng trên việc rất thuận lợi.
? Chị có lồng ghép trò chơi vào tiết học không ?
– Trong tiết dạy tôi thường lồng trò chơi. Tùy tiết dạy mà tôi lồng trò chơi phù hợp để nâng cao nghệ thuật kỹ năng, kỹ xảo cho trẻ xé dán được tốt hơn.
? Kết quả có tốt không ?
– Kết quả bài trẻ làm rất tốt có nghệ thuật kỹ năng sáng tạo từng tri tiết nhỏ.Nên đạt kết quả rất cao.
2.1.5. Gặp cô Nguyễn Thị Tín, Trường Mầm non xã Văn Hoàng:
? HĐTH nói chung, HĐXD trường chị ra sao ?
– HĐTH Trường nói chung là tốt, HĐXD chưa được tốt lắm.
Vì xé dán khó hơn nặn và vẽ nên nhiều trẻ xé chưa thuần thục, nham nhở, chỉ ít trẻ xé đẹp.
? Chị có lồng trò chơi vào tiết dạy không?
– Thỉnh thoảng tôi có lồng nhưng hạn chế vì không đủ thời gian để tôi làm đồ dùng, dò chơi nếu làm đủ đồ dùng đưa vào trò chơi phải có 2 cô/ 1 lớp mới đáp ứng được.
?Kết quả bài xé có tốt không?
– Trẻ cung làm được nhưng không có nghệ thuật, không suất xắc nên bản thân tôi cũng không hài lòng lắm.
2.1.6. Gặp cô Lê Thị Diệu trường Mầm non Tri Trung:
? Hoạt động xé dán của lớp cô thế nào ?
– Nói chung là tốt nếu có 2 cô / 1 lớp thì chắc là sẽ tốt hơn vì có đủ thời gian làm đồ dùng cho trẻ được tiếp xúc với trò chơi dưa vào tiết dạy vì ngoại cảnh của trường và địa phương rất tốt.
? Kết quả tốt không ?
– Kết quả rất tốt nếu cho chơi trò chơi vào tiết day thì trẻ xé có nghệ thuật, tỉ mỉ, bài đẹp hơn.
2.2. Điều tra gián tiếp.
Sử dụng phiếu điều tra, thu thập ý kiến của GV trực tiếp giảng dạy MGL xoay quanh vấn đề đưa trò chơi vào tiết dạy tạo hình mà cụ thể là tiết dạy xé dán.
– Việc thiết kế trò chơi khá phức tạp bởi trò chơi đó phải phụ thuộc vào: nội dung truyền đạt kiến thức, kĩ năng phù hợp chủ đề, chủ điềm và phù hợp với điều kiện vật chất của trườ ng, lớp… chính vì vậy tôi đã gặp và trao đổi với cán bộ quản lí chuyên môn và các GV khác để lắm vững hơn việc thết kế trò chơi cho HĐTH , hoạt động xé dán.
– Trong quá trình điều tra, tìm hiều để xây dựng đề tài trên, em đã vấp phải không ít những vấn đề khó khăn
+ Thuận lợi:
Được ban giám hiệu cùng tập thể GV trong trường đã tạo điều kiện thời gian đẻ cho em đi tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu một số giờ dạy ở các trường mầm non khác.
+ Khó khăn:
Cơ sở vật chất của trường còng hạn hẹp. Do vậy, việc đưa trò chơi vào hoạt động xé dán còn phải phụ thuộc vào điều kiện đó. Các cháu còn hạn chế về kiến thức kỹ năng xé. Tuy vậy, quá trình tìm hiểu thực trạng của hoạt đỗngé dán tại các trương diễn ra tốt đẹp. Một số quan điểm cũng được đưa ra:
– Quan niệm về việc đưa yếu tố chơi vào HĐTH nhằm giúp trẻ phát triển xé dán.
– Nhận thức của GVMN: về vai trò của HĐVC vào tiết dạy
– Thực tế các trương đã đưa HĐVC vào trong tiết học HĐTH nhưng trò chơi còn đơn điệu, tẻ nhạt thiếu đí tính chất học tập trong trò chơi.
2.3. Quan sát tự nhiên
Dự giờ 10 tiết dạy
2.3.1. Dự giờ cô Nguyễn Thị Sinh, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài xé dán: Vườn cây ăn quả
– Yêu cầu: Trẻ biết gấp và xé cây, xé thành dải làm cành. Gấp xé lá, xé các loại quả khác nhau, tròn, dài biết chăm sóc bảo vệ cây.
– Chuẩn bị: Trò chơi ” Bé với cây”
Tranh xé dán vườn cây, giấy màu, hồ dán. Cho trẻ ra sân chơi trò chơi với cây thật.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Em yêu câu xanh”
+Quan sát tranh – đàm thoại cùng trẻ.
+ Hỏi ý định trẻ xé những cây gì ?
- b) Trẻ thực hiện:
Cho trẻ ngồi theo nhóm rồi xé dán cô hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. (5-6 trẻ) cô nhận xét lại rõ nét bài xấu và đẹp.
+Cho trẻ chơi trò chơi “Bé với cây”
2.3.2. Dự giờ cô Nguyễn Thị Thá, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm trường mầm non)
– Yêu cầu: Cô hướng lái cho trẻ xé về chủ điểm trường MN
+ Trẻ xé được ngôi trường, đồ chơi ngoài trời, hình người cô giáo và học sinh, cây cảnh…
– Chuẩn bị: Trò chơi ” Bé đến lớp” . Tranh về trường MN, giấy màu, hồ dán
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Cháu đi mẫu giáo”
+Quan sát tranh – đàm thoại .
+ Hỏi trẻ xé về trường như thế nào?
- b) Trẻ thực hiện:
Trẻ ngồi theo nhóm rồi xé dán,cô hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. Cô nhận xét thêm bài nào xấu và đẹp.
+ Cho trẻ chơi trò chơi “Bé đến lớp”
2.3.3. Dự giờ cô Đỗ Thị Hiên, Trường Mầm non xã Hoàng Long
Bài: Xé dán hình con cá (mẫu)
– Yêu cầu:
+ Trẻ gấp đôi và xé lượn hình con cá.
+ Luyện cách phết hồ và dán vào vở bổ xung mắt, mang, vây.
– Chuẩn bị: Tranh mẫu con cá cá thật, hồ dán, khăn lau, vở tạo hình, giấy màu.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ chơi: ” Cá bơi, cá lặn, cá ngoi”
+ Quan sát tranh và đàm thoại .
+ Cô xé mẫu
- b) Trẻ thực hiện:
Cô theo dõi giúp cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
Cho trẻ treo bài và tự nhận xét bài mà trẻ thích. (Cô gợi ý thêm).
+ Cho trẻ chơi trò chơi “Thả cá vào ao” (thi đua)
2.3.4. Dự giờ cô Lê Thị Huyền, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm thế giới động vật)
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé được một số con vật trong gia đình
+ Trẻ biết yêu quý con vật gần gũi với mình.
– Chuẩn bị: Tranh mẫu về con vật gần gũi, hồ dán, khăn lau, vở tạo hình, giấy màu.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ chơi: ” Con vật nhà em”
+ Quan sát tranh – đàm thoại .
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô bao quát và hướng cho trẻ xé dán con vật trong gia đình.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ treo bài và tự nhận xét bài mà trẻ thích.
+ Cho trẻ múa hát “Mèo con, gà con và cún con”
2.3.5. Dự giờ cô Nguyễn ThịThủy, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán các loại hoa
– Yêu cầu:
Luyện cách xé vụn xếp các mẫu thành bông hoa
– Chuẩn bị: Xa bàn vườn hoa, giấy màu, hồ dán, vở tạo hình.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ chơi: ” Hái hoa tặng mẹ nhân ngày 8 -3 “
+ Cho trẻ thăm xa nàn vườn hoa – đàm thoại.
+ Nên ý kiến thích xé các lọa hoa gì .
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô hướng dẫn cho những trẻ còn lúng túng, bao quát trẻ.
- c) Nhận xét:
+ Trẻ nhận xét bài trẻ thích.(6-7 trẻ)
+ Cô nhận xét thêm bài đẹp, xấu.Khuyến khích trẻ
+ Cho trẻ vui múa hát bài ” Quà 8 – 3 “
2.3.6. Dự giờ cô Nguyễn Thị Hường, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm tết và mùa xuân)
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé được một loại quả, hoa. Ngày tết và mùa xuân
– Chuẩn bị: một số loại hoa,quả thật, bằng nhựa. Giấy màu, hồ dán, giấy A4 .
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Sắp đến tết”
+ Quan sát hoa, quả và đàm thoại .
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô bao quát và hướng lái cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ treo bài và tự nhận xét.( 6 – 7 trẻ )
+ Cô nhận xét thêm bài xấu, đẹp. Khuyến khích trẻ.
2.3.7. Dự giờ cô Lê Thị Diệu, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán thuyền trên biển
– Yêu cầu:
+ Luyện cách xé thoe tưởng tượng tạo lên bức tranh thuyền trên biển
+ Trẻ biết yêu quý con vật gần gũi với mình.
– Chuẩn bị: Tranh xé mẫu của cô, giấy màu, nguyên vật liệu thiên nhiên, lá cây, len, vụn bông.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Em đi chơi thuyền “
+ Trẻ quan sát tranh và đàm thoại .
+ Hỏi ý kiến trẻ xé thuyên như thế nào? Chánh buồm?xé nàn nước bồng bềnh hay phẳng lặng.
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô gợi mở cho trẻ, quan sát hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích.( 6 – 7 trẻ )
+ Cô nhận xét thêm bài đẹp, xấu.
+ Cho trẻ chơi trò chơi : ” Đi chơi thuyền “
2.3.8. Dự giờ cô NguyễnTthị Ngọc, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm phương tiện và luật lệ giao thông)
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé được một số phương tiện giao thông.
+ Biết cách xé và phết hồ. Bố cục tranh
– Chuẩn bị: Tranh các phương tiện giao thông.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ quan sát tranh và đàm thoại.
+ Hỏi trẻ ý định xé phương tiện gì? Phương tiện đó ở trên không hay đường bộ, đường biển.
- b) Trẻ thực hiện:
+ Khi trẻ thực hiện cô bao quát, hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. ( 5 – 6 trẻ )
+ Cô nhận xét chung :
Cho trẻ vui múa hát về ” Các phương tiện giao thông “.
2.3.9. Dự giờ cô Lê Thị Loan , Trường Mầm non xã Phú Túc.
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm quê hương đất nước và trường tiểu học )
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé dán hình ảnh quê hương, làng xóm
+ Biết cách xé tỉ mỉ nhiều ngôi nhà trê một con đường.
– Chuẩn bị: Tranh về quê hương, giấy màu, hồ dán, vở tạo hình.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho quan sát tranh và đàm thoại cùng trẻ
+ Hỏi ý định xem trẻ định xé về cái gì?
Quê hương có nhiều nhà và cây có nhiều con đường không ?
- b) Trẻ thực hiện:
+ Trẻ xé, cô bao quát hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. ( 5 – 6 trẻ )
+ Cô nhận xét chung.
2.3.10. Dự giờ cô Đỗ Thị An , Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm gia đình )
– Yêu cầu:
+ Trẻ biết xé về người thân trong gia đình.
+ Trẻ biết bố cục tranh và dán.
– Chuẩn bị: Hồ dán, giấy màu, giấy A4.
Tranh người thân trong gia đình.
– Cách tiến hành:
a – Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Cả nhà thương nhau “
+ Quan sát tranh và đàm thoại
+ Hỏi ý định trẻ xé dán người thân có những ai?.
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô bao quát từng nhóm trẻ. Hướng lái cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích ( 5 – 6 trẻ )
+ Cô nhận xét chung..
+ Cho trẻ chơi trò chơi “Thăm Ông Bà”
2.4. Phân tích sản phẩm của HĐTH
Trong quá trình quan sát, tìm hiểu các sản phẩm, tìm hiểu của trẻ tạo ra rất nhiều song, quy chung một mối đa số các bài xé dán hình thức đơn giản một số trẻ biết pha màu . Theo bài còn lại trẻ chưa biết pha nên tính tích cực của trẻ tham gia chưa cao.
- Tiêu chí và thang đánh giá :
3.1. Tiêu chí :
– Trẻ biết xé từ đơn giản đến phức tạp.
– Trẻ biết sắp xếp bố cục tranh.
– Biết tạo nhịp sự thể hiện giấy màu đẹp.
– Hình thức trang trí sáng tạo phối hợp mảng màu hợp lý.
3.2. Thang đánh giá :
– Qua các sản phẩm vẽ cô đánh giá các mức :
+ Xuất sắc.
+ Khá
+ Trung bình
+ Yếu.
- Kết quả nghiên cứu thực trạng.
4.1. Phân tích kết quả điều tra.
– Trong quá trình điều tra trực tiếp và gián tiếp kết quả đạt được như sau :
+ Số GV sử dụng trò chơi vào tiết dạy đạt 30 % .
+ Số GV không sử dụng trò chơi vào tiết dạy hoặc có đưa vào nhưng số lượng ít chiếm 70 % .
– Tư kết quả trên cho thấy việc sử dụng trò chơi vào tiết dạy tạo hình là quá ít.
4.2. Phân tích kết quả quan sát :
Trong quá trình quan sát thực tế tại các lớp thì kết quả quan sát cho thấy :
– Số GV sử dụng trò chơi hoặc trò chơi chưa hấp dẫn đến số trẻ ít hướng thú với HĐTH. Do vậy sản phẩm chỉ đạt 40 % so với yêu cầu đề ra.
– Từ kết quả quan sát trên đã cho chúng ta thấy được rất rõ việc thiết kế trò chơi vào trong HĐTH là quan trọng như thế nào. Nó là khơi nguồn cảm xúc cho sáng tạo nghệ thuật.
4.3. Phân tích kết quả sản phẩm HĐTH của trẻ.
Trong thời gian HĐTH của trẻ các sản phẩm tạo hình của trẻ xé đạt kết quả chưa cao thể hiện ở các bài xé đơn giản. Bố cục chưa chuẩn, vài trẻ bố cục hợp lý
- Thiết kế một số trò chơi :
5.1. Cơ sở định hướng cho việc thiết kế một số trò chơi :
– Xuất phát thừ nhu cầu được vui chơi của trẻ. Chơi vốn là hoạt động chủ đạo của trẻ MN chơi không chỉ là niềm vui sướng mà còn là để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn được chơi, chơi chính là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ MG bởi nội dung chơi có ý nghĩa giáo dục mạnh mẽ, nó ảnh hưởng đến tam tư tình cảm và hành vi đạo đức của trẻ.
– Dựa trên đặc điểm của HĐTH, HĐTH đòi hỏi khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mà lứa tuổi MN trẻ phải được học mà chơi – chơi mà học. Vì vậy khi tổ chức HĐTH chúng ta nên đưa yếu tố chơi vào, gắn mục đích tạo hình với mục đích chơi nhiệm vụ tạo hình với nhiệm vụ chơi. Chính những yếu tố chơi này sẽ cuốn hút trẻ vào cuộc chơi thú vị mà những nhiệm vụ học tập vẫn được trẻ giải quyết .
Trên cơ sở này mà em đã thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MGL (5 – 6 T ). Bồi dưỡng phát triển kỹ năng xé dán.
– Trên thực tiễn HĐTH ở các trường MN còn mang tính khuôn mẫu, áp đặt chính sự khuôn mẫu thụ động này làm mất đi sự sáng tạo của trẻ.
– Xuất phát từ nguyên tắc ” Dậy học lấy trẻ em làm trung tâm ” trẻ em vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình nhận thức. Trẻ tự tin tìm kiếm, khám phá thế giới xung quanh mình. Còn GV là người tổ chức, là điểm tựa, là thang đỡ khi tổ chức HĐTH cần phải đưa yếu tố chơi vào để kích thích sự hứng thú của trẻ.
5.2. Thiết kế một số trò chơi :
5.2.1.Nhóm trò chơi cung cấp kiến thức, kích thích và bồi dưỡng khả năng cảm nhận vẻ đẹp của sự vạt hiện tượng trong đời sống của trẻ.
Trò chơi 1 : BÉ VỚI CÂY
a – Mục đích giáo dục:
Cung cấp hiểu biết của trẻ về các cây trồng trong trường. Trẻ biết đặc điểm của cây ăn quả. Cây là nơi cư trú chim muông, các loài ong bướm giúp thụ phấn ra hoa kết quả đó là nguồn vốn giúp trẻ hiểu biết để xé dán vườn cây ăn quả, sáng tạo nghệ thuật.
Ví Dụ : Vẻ đẹp của cây màu lá, quả trẻ có thể pha màu qua giấy xé, trẻ thêm những họa tiết để trang trí tranh .
– Rèn luyện khả năng định hướng nhanh và phát triển ngôn ngữ .
b – Cách tiến hành :
– Cô nói ” Các con biết trong sân trường có những cây gì ăn quả ? chúng có những đăc điểm gì ? chúng ta nhận ra điều này khi chơi trò chơi ” Bé với cây “
– Cách chơi : Cô nói ” Cô sẽ miêu tả đặc điểm của cây gì ? “
Các con nói nhay cô đó
Ví Dụ: Cây ăn quả hạt lay láy đen lá dài quả có một hạt trẻ chạy đến cây nhãn. Trò chơi tiếp tục đến khi trong sân trường hết cây ăn quả.
c – Điều kiện cần :
– Sân trường thoáng mát, trồng nhiều loại cây.
– trước đó trẻ phải làm quen với nhiều loại cây ăn quả.
Trò chơi 2: PHÒNG TRANH CỦA BÉ :
a- Mục đích giáo dục:
Cung cấp vốn hiểu biết về các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên tạo điều kiện cho trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của thiên nhiên làm phong phú vốn biểu tượng về trang trí.
– Tạo hứng thú đối với các hoạt động làm quen với tác phẩm NTTT và kích thích khả năng sáng tạo nghệ thuật ở trẻ.
– Trẻ biết trang trí các hình bằng vật liệu thiên nhiên.
b – Cách tiến hành :
– Cô chia trẻ thành các nhóm. Mỗi nhóm có đủ các nguyên vật liệu : Lá các loại cây, các loại hoa, cánh hoa, cúc áo, que tăm, hạt đỗ, hạt lạc, sỏi đá, rửa sạch, hạt các loại quả…Các đồ dùng: dao, kéo, băng dính, hồ dán…
– Cô nói cô chuẩn bị nhiều cây hoa : nhiệm vụ các con trang trí cây xanh hoa, bằng những nguyên vật liệu để tạo nên sản phẩm đẹp nhất để cô mở phòng tranh, để nhận xét sản phẩm…
c – Điều kiện cần :
– Chuẩn bị : các loại lá cây, hoa, hạt, quả, hạt đỗ, hạt lạc, tăm tre, hình các loại cây hoa
– Giấy bìa cứng được cắt thành các hình cây, hoa .
– Cô cho trẻ thu gom các nguyên vật liệu cho phong phú.
Trò chơi 3: PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
a – Mục đích giáo dục:
– Tìm hiểu nguyên tắc bố cục nguyên tắc tương phản cân đối.
Một số hình thức trang trí, nhắc lại, xen kẽ, lắp ghép.
– Trẻ biết sự phong phú các chi tiết xé, phối hợp màu sắc hài hòa.
– Trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của sản phẩm trang trí, góp phần tạo hình nên những xúc cảm thẩm mỹ.
b – Cách tiến hành :
Cô bày tất cả ô tô, xe máy, máy bay,tàu hỏa và nói đây là phương tiện giao thông. Cô cho trẻ quan sát yêu cầu trẻ nhớ các phương tiện trên. Sau đó lấy tấm vải che lên.Trẻ sẽ kể những phương tiện trên cần cho con như thế nào?
Trẻ nào kể nhanh và chở gì thì được nhiều điểm?
Sau khi trẻ kể xong cô mở khăn và kiểm tra rồi nói tưng phương tiện.
Trò chơi kết thúc khi kể hết các phương tiện
c- Điều kiện cần :
– Chuẩn bị : ô tô, xe máy, máy bay, tàu hỏa, xe đạp.
5.2.2. Nhóm trò chơi nhằm hình thành kích thích cảm nhận thẩm mĩ đối với sản phẩm NTTT.
Trò chơi 1 :BÉ VỚI CÁC LOẠI HOA .
a- Mục đích giáo dục: :
Tạo điều kiện thuận lợi để trẻ tiếp thu những biểu tượng và kỹ năng cần thiết trong hoạt động trang trí.
b- Cách tiến hành :
– Chia trẻ thành các nhóm : Mỗi trẻ đều có sản phẩm trang trí của mình.
– Cô làm mẫu : Cô đến bên một trẻ có bài : ” Xé các loại hoa “
– Cô hỏi : hoa này là hoa gì? Các cánh hoa sắp xếp như thế nào?
– Sau đó trẻ lần lượt nói về các loại hoa của mình.
c- Điều kiện :
Thu thập những bài trang trí của trẻ để trẻ trả lời.
Trò chơi 2 : ĐI THĂM TRANG TRẠI
a – Mục đích giáo dục:
– Trẻ cảm nhận được những con vật gần gũi trẻ thường nhìn thấy và thể hiện được.
– Tạo cảm hứng cho trẻ khi thể hiện khả năng trang trí.
b – Cách tiến hành :
Cô và trẻ cùng bày trí một khu trang trại thật đẹp có đủ các con vật gần gũi.
– Cô đóng vai ” Bác trang trại ” ( người thuyết minh )
– Một trẻ trưởng đoàn dắt các bạn đến.
Bác trang trại đó sẽ thuyết minh về các con vật nuôi sống có ích. Trẻ đi theo đoàn ngắm nghía nghe cô giải thích . Ví Dụ : Bác trang trại nói : ” Xin giới thiệu với các cháu, đây là gà mái nó đẻ trứng cung cấp nguồn thực phẩm rất có ích”…
– Kết thúc : Bác trang trại chào tạm biệt các cháu.
c- Điều kiện cần :
– Gà, chó, mèo, ngan, nghỗng, lợn, trâu bò, chim bồ câu, thỏ ( bằng nhựa ).
– Trang trí ở góc lớp.
5.2.3 : Nhóm trò chơi tạo ra sản phẩm tạo hình.
Trò chơi 1 :TỦ THUỐC MẦM NON :
- Mục đích giáo dục:
Tổ chức cho trẻ thực hiện khả năng trang trí của mình để tạo ra sản phẩm, phong phú, đa dạng, có hiệu quả.
Kích thích hứng thú khả năng sáng tạo và tính tích cực hoạt động của trẻ.
b – Cách tiến hành :
– Chia trẻ làm 3 đội thi xem đội nà làm nhanh và đẹp.
– Cho trẻ trang trí mặt bên ngoài hộp thuốc hộp bằng bìa cát tông.
– Chuẩn bị những vật liệu trang trí mặt lên của vỏ hộp giấy :
+ Hình trang trí chữ thập.
+ Giấy màu trang trí xung quanh .
+ Một số lọ thuốc trang trí thêm bằng cát tông.
– Trò chơi kết thúc : cô nhận xét hộp thuốc của trẻ
c- Điều kiện cần :
– Hộp giấy lớn có nắp mở ngang.
– Kéo, keo dán.
– Bút lông.
– Giấy thủ công.
Trò chơi 2 : BÉ LÀM HỌA SĨ .
a – Mục đích giáo dục:
– Trẻ biết cách bày trí các hình học và đồ dùng theo yêu cầu .
– Kích thích nhu cầu nhận thức, giúp trẻ bộc lộ khả năng quan sát, mô tả. Qua đó hình thành và phát triển hành động mang tính tự giác, mang tính mô hình hóa ở dạng ngôn ngữ thầm triển khai thành lời nói.
b – Cách tiến hành :
Các họa sĩ nhắm mắt và nhận dạng các hình họa rồi lắp ghép chúng lại theo sự mô tả của người đặt tranh.
Cho trẻ chon vai chơi ( người đặt tranh, họa sĩ )
Chọn trẻ vào vòng trong, ơn định tư thế và dùng khăn che mắt
Người đặt tranh sẽ ra yêu cầu :
– Tôi cần vẽ một bức tranh có ngôi nhà, cây xanh, mặt trời…
Cho trẻ sờ vào các hình học hoặc các đồ vật được thiết kế mô phỏng đã chon, sắp xếp trang trí bức tranh theo đúng yêu cầu :
– kiến chúc : kiểm tra sản phẩm của họa sĩ. So sánh với lời mô tả ban dầu và đánh giá
c- Điều kiện cần :
– Các bức tranh vẽ những con vật đơn giản, các hình học bằng giấy, bìa carton,…, hình ngôi nhà, mặt trời, cây xanh, giấy nước, que hộp hạt …
Trò chơi 3 : NGÔI NHÀ VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
a – Mục đích giáo dục:
Trẻ biết dùng những hình học để tạo ra ngôi nhà, trang trí ngôi nhà và vườn cây.
b – Cách tiến hành :
Cô đưa ra yếu tố chơi : ” Quê hương mình có nhiều con đường và nhiều ngôi nhà rất đẹp, nhiều nhà đang xây dựng chưa xong đang cần tuyển những nhà thiết kế tài ba để xây dựng nốt. Cả lớp sẽ tham gia vào cuộc thi xem ai trúng tuyển ” .
– Cuộc thi kết thúc cô và trẻ chọn ra người trúng tuyển .
– Dùng giấy thủ công màu cắt thành hình ngôi nhà. Trang trí ngôi nhà với cửa sổ, trời mây, có cỏ cây hoa lá.
– Giờ chơi kết thúc, cô cùng trẻ chọn ra nhà được thiết kế đẹp nhất.
c- Điều kiện cần :
Bìa carton, giấy thủ công, bút lông, kéo và keo dán.
5.2.4. Nhóm trò chơi ứng dụng sáng tạo các sản phẩm tạo hình.
Trò chơi 1: BÉ HÁI HOA DÂN CHỦ
a – Mục đích giáo dục:
– Cho trẻ thấy được vẻ đẹp của những hình ảnh trang trí như giá trị ứng dụng của các sản phẩm NTTT.
– Hình thành ở trẻ lòng mong muốn được sáng tạo ra cái đẹp cho cuộc sống.
b – Cách tiến hành :
Cô phổ biến trò chơi : ” Hôm nay có cuộc thi hái hoa dân chủ nhân dịp tết . Cần có cây hoa đẹp. Nên ban tổ chức muốn thi xem cây nào được chọn “.
Cô phát cho mỗi đội một cây.
Nhiệm vụ của các đội phải trang trí bằng các giấy màu cát hoặc xé dán, hoặc gấp và một giấy óng ánh khác.
Kết thúc : Cô mở buổi diễn hái hoa dân chủ
c- Điều kiện cần :
– 6 cây, giấy màu, hồ dán, kéo.
– Dây óng ánh, giấy óng ánh bọc quà để dùng trang trí cây.
Trò chơi 2: CHUẨN BỊ NĂM HỌC MỚI
a – Mục đích giáo dục:
– Hình thành và rèn luyện kỹ năng trang trí cho trẻ.
– Giúp trẻ biết vận dụng kiến thức và kỹ năng vào những hoạt động trang trí khác nhau trong trường MN, ngày lễ hội.
– Giúp trẻ có ý thức gọn gàng, ngăn nắp, có nhu cầu tạo ra cái đẹp phong phú trong chính hoạt động của mình.
b – Cách tiến hành :
– Cô gây hứng thú chuẩn bị vào năm học mới trương MN yêu cầu các lớp thật đẹp trang trí lộng lẫy và trường chuẩn điểm lớp nào đẹp sẽ được điểm cao
– Cô chia trẻ thành các nhóm, từng nhóm có nhiệm vụ trang trí góc của mình.
Ví Dụ : + Góc học tập: sắp xếp đồ dùng, sách vở trên giá gọn gàng, ngăn nắp.
+ Góc phân vai: Đồ dung, đồ chơi mầm non sắp xếp đúng theo bộ.
+ Góc xây dựng: Lắp ghép công trình của chủ điểm MN.
– Kết thúc cuộc chơi : Cô đến từng góc nhận xét, tuyên dương góc được trang trí đẹp nhất.
c- Điều kiện cần :
Những đồ dùng, vật liệu để trang trí.
5.3.Những điều kiện sử dụng các trò chơi đã thiết kế
Những trò chơi được sử dụng vào bài cô đã thiết kế rất phù hợp từng bài, từng chủ điểm. Đòi hỏi cô giáo phải nhanh nhậy lắm bắt chương trình để đưa kiến thức ngày càng nâng cao.
Những trò chơi cô thiết kế giúp cho trẻ nghệ thuật rất cao có sáng tạo hơn trong bài xé, trẻ rất tỉ mỉ nhiều chi tiết từ nhỏ nhất đến phức tạp, nhiều trẻ có khả năng làm được.
Chương III
TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1). Mục đích thực nghiệm :
– Tổ chức thực nghiệm để xem xét mức độ đúng đắn, hiệu quả của các trò chơi đưa ra để nghiên cứu và khẳng định vai trò của các trò chơi. Giúp trẻ MGL phát triển kỹ năng xé dán cho trẻ . Từ đó tìm ra cách thức sử dụng các trò chơi trong HĐTH sao cho hiệu quả nhất và đánh giá đúng đắn giả thiết khoa học của khóa luận .
2). Nội dung và cách thức tiến hành :
Tiến hành thực nghiệm trên trẻ MGL ( 5-6T ) tại trường MN Bán Công Tri Trung.
Nội dung thực nghiệm gồm 3 bước :
Nhóm I : nhóm ( đối chứng ) ĐC.
Nhóm II : Nhóm ( thực nghiệm ) TN.
2.1 .Khảo sát thực nghiệm :
Chương trình khảo sát thực được thực hiện như nhau ở nhóm trẻ để kiểm tra trình độ tạo hình của trẻ trước khi bước vào thực nghiệm tác động.
Phần này em đã sử dụng 3 bài tập tạo hình.
– Xé dán vườn cây ăn quả.
– Xé dán thuyền trên biển.
– Xé dán các loại hoa.
Sau khi trẻ hoàn thành 3 bài tập trên. Kết quả khảo sát
Em thấy số trẻ hoàn thành bài tập tương đương nhau, đường xé chưa được mịn vẫn còn lam nham, phối hợp mảng giấy chưa hợp lý. Nhìn chung trẻ làm bài chưa kỹ xảo.
2.2. Thực nghiệm tác động :
Tiến hành TNTĐ trong thời gian 1 thán em chia trẻ thành 2 nhóm :
– Nhóm TNTĐ.
– Nhóm ĐT
Số trẻ 2 nhóm bằng nhau, trẻ mỗi nhóm đều có tâm lý nói chung và trí tuệ nói riêng phát triển bình thường đồng đều về trình độ.
– Trong chương trình thực nghiệm tác động em đã biết sử dụng các BTTH :
kinh nghiệm phát triển kỹ năng giao tiếp của trẻ Mầm Non
Một vài kinh nghiệm phát triển kỹ năng giao tiếp của trẻ Mầm Non
Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng những năm đầu đời của trẻ là những năm quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đứa trẻ và ngôn ngữ cũng là một quá trình tâm lý diễn ra rất mạnh ở trẻ. Ở giai đoạn này trẻ học và nắm được tiếng mẹ đẻ của mình, do vậy mà phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ là rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến tư duy và quá trình học sau này.
Ví dụ: Ở lớp Mầm C, có cháu đã 4 tuổi mà không nói được 1 câu ngắn, không diễn đạt được ý câu trả lời khi được hỏi.
Vậy tại sao lại có trẻ nói được, trẻ nói không được? Ta có thể xét tới một số yếu tố ảnh hưởng sau:
*Sự khiếm khuyết về thể chất và tinh thần.
Ví dụ: Câm, đàn độn cũng làm cho ngôn ngữ của trẻ hạn chế
*Môi trường gia đình: Thô lỗ, không gần gũi trẻ.
Ví dụ: Một đứa trẻ bị gia đình luôn mắng chửi, không quan tâm sẽ làm cho trẻ có cảm giác không ai gần gũi, không trao đổi với người thân được, do đó mà ngôn ngữ không phát triển.
*Trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần.
Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào một đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay mà không phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của trẻ chậm phát triển.
*Các trẻ sinh đôi thường hay có những cách giao tiếp không dùng lời với nhau do đó mà ngôn ngữ cũng chậm phát triển.
Ví dụ: Trong lớp có một cặp sinh đôi, khi cần bạn Cẩm đưa cho cái gì, Kim chỉ cần lấy tay khều vào Cẩm, rồi chỉ vào vật đó,Cẩm liền biết ngay là Kim cần gì.
*Môi trường sống cũng rất quan trọng trong việc phát triển khả năng giao tiếp.
Ví dụ : Cháu được sống trong môi trường thoải mái, được người lớn quan tâm trò chuyện sẽ giúp trẻ nói rất tốt và ngược lại.
Để khắc phục những hạn chế về giao tiếp cũng như giúp trẻ giao tiếp được, ta có thể nói chuyện với từng trẻ để kích thích chúng diễn đạt ý tưởng và cảm xúc, muốn vậy ta nên chs ý tới những yếu tố sau:
1.Tạo môi trường giao tiếp và giúp cho trẻ có cảm giác thoải mái, có nhu cầu giao tiếp bằng lời.Có nghĩa là trong tất cả mọi hoạt động của trẻ, mỗi giáo viên MN luôn phải dùng nhiều trò chơi, câu đố để kích thích trẻ tham gia, qua đó giúp trẻ được tự nhiên hơn.
Ví dụ: Trong lớp, Hoa là trẻ rất ít nói, nhút nhát.Vì thế mà tôi thường cho bé chơi cùng một nhóm trẻ mạnh dạn hơn.Trong giờ chơi, tôi cho bé chơi trò chơi “Đoán tên bạn”. Ví dụ: Cô đang nghĩ về một bạn mặc quần xanh dương,áo thun đen có in hình con cọp” và nói với trẻ: “Hoa ơi!cô đang nghĩ về bạn nào vậy? Tại sao con biết? ” Trẻ sẽ nói ngay tên bạn đó và vì sao trẻ lại đoán được.
2.Ngôn ngữ là cái riêng của mỗi người, và nó được phát triển rất tự nhiên, do đó mà trẻ khi giao tiếp sẽ có lúc nói sai, chúng ta không nên sửa sai hoặc la rầy, vì sẽ tạo cho trẻ cảm giác không tự tin, sợ nói.
Muốn giúp trẻ sửa lỗi khi nói thì ta nên thông qua trò chơi sắm vai để dạy trẻ như: Trò chơi bán hang, bác sĩ và gia đình… Qua đó sẽ giúp trẻ nói theo mẫu của cô và của bạn.
3.Để cho trẻ có cảm giác thoải mái tự nhiên, chúng ta không nên dùng ngôn ngữ sai khiến sẽ làm cho trẻ cảm giác bị bắt buộc, mà ta chỉ dùng ngôn ngữ đề nghị, vỗ về trẻ.
Ví dụ: “Cô muốn các con cất đồ chơi lên kệ rồi ta ra ngoài cùng chơi.” Không nên dùng câu: “Cất hết đồ chơi mầm non đi”
4.Để cho trẻ có cảm xúc mạnh, có nhu cầu về giao tiếp thì việc dùng rối là cần thiết, vì trẻ ở lứa tuổi này rất thích được nói chuyện với những con rối và đặc biệt là những con vật rất gần gũi với trẻ.
Ví dụ: Trong lớp có bé Hằng rất ít nói, nhưng khi cô đưa ra rối ra để hỏi: “Hằng đang làm gì vậy? Nhà bạn có ai? Nói cho thỏ bông nghe đi! “Thì bé Hằng đã trả lời ngay.
*Tóm lại: Qua thực tế tôi thấy việc tạo ra một không khí thoải mái, đàm ấm và việc đưa các trò chơi, tạo các tình huống, cũng như dùng rối trong việc giao tiếp với trẻ là cách giúp trẻ giao tiếp tích cực nhất.
*Qua đây tôi cũng có một số ý kiến đề xuất để các đồng nghiệp cùng tham khảo:
_Dùng sách , truyện để thúc đẩy quá trình nghe nói , đọc bập bẹ của trẻ.
Vào cuối thập niên 80 và đầu 90 các nhà giáo dục đã đặt câu hỏi tại sao ngày càng nhiều trẻ biết đọc trước khi vào lớp Một?có phải là trẻ được dạy trước hay trẻ học trên truyền hình?Nhưng các nhà nghiên cứu đã tìm ra một điều hòan tòan khác.
Một số trẻ trước tuổi đi học đã có khả năng tự tập đọc, quá trình này gọi là quá trình tự tập đọc của trẻ.Nhưng từ đâu mà trẻ lại có quá trình này?Đó là quá trình được bắt nguồn từ việc người lớn đọc, nói cho trẻ nghe thông qua các sách truyện, bảng hiệu, ấn phẩm…
Ví dụ: Khi đi ngang qua một bảng hiệu Lan hỏi Mẹ: “Cái gì trên đó vậy Mẹ?” Mẹ nói đó là bảng “Hiệu uốn tóc”.Hôm sau đi đến đó Lan chỉ vào bảnh hiệu và nói: ” Hiệu uốn tóc”.
Từ đây ta có thể nhận thấy rằng việc học giao tiếp là quá trình gồm: nghe, nói, đọc ,viết là một thể không tách rời và được bắt đầu từ khi trẻ mới sinh ra.Do đó mà việc sử dụng tranh ảnh, sách, truyện, bảng hiệu , ấn phẩm…cũng có ý nghĩa lớn đối với việc phát triển kỹ năng giao tiếp ở trẻ.Khi trẻ được cô, cha mẹ đọc cho nghe, trẻ bắt đầu lĩnh hội ý tưởng rằng đọc sách là một điều quan trọng mà mọi người xung quanh thích làm, từ đó kích thích sự háo hức, tò mò nơi trẻ.Khi trẻ được người lớn, cô giáo đọc, cho xem tranh, giải thích từ, trẻ sẽ thấm được ngôn ngữ các nhân vật trong truyện:nói như thế nào?hành động ra sao? Trẻ sẽ bắt chước, vì tuổi của trẻ là tuổi bắt chước rất nhanh.
Tuy nhiên không phải loại sách nào cũng nên cho trẻ xem, đọc cho trẻ nghe được,mà phải có sự chọn.
Ví dụ: Sách dùng cho trẻ phải có hình ảnh, chữ to, màu săc sặc sỡ, sinh động, ngôn ngữ thể hiện sự việc gần gũi với trẻ.
Ngoài ra để cho việc dùng sách truyện có tác dụng phát triển tốt khả năng giao tiếp của trẻ, mỗi người giáo viên phải thu hút đựoc sự chú ý của trẻ bằng giọng kể, đọc sinh động, hấp dẫn, thể hiện được các giọng khác nhau của các nhân vật.Trẻ sẽ thích thú hơn nếu chúng cũng đựoc tham gia vào câu chuyện.
Ví dụ: Đóng vai nhân vật, nhắc lời thoại, vẽ tranh minh họa cho nhân vật cô vừa kể, đọc.
Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ thật cần thiết, nhưng đòi hỏi cô giáo mầm non phải luôn gần gũi trẻ, hiểu trẻ, tạo mọi cơ hội để trẻ được nói thật thoải mái ở mọi nơi, vì chỉ khi nào trẻ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ lưu loát thì trẻ mới có cơ hội phát triển toàn diện.
kinh phí tổ chức tham quan cho đội ngũ cán bộ, giáo viên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Một số kinh nghiệm trong việc phối hợp tạo kinh phí tổ chức tham quan cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên.
- Đặt vấn đề:
Tổ chức cho đội ngũ CB – GV – CNV được tham quan học tập hàng năm là một trong những nhiệm vụ của ban quản lý. Ngoài việc để đội ngũ được mở mang thêm kiến thức, nghỉ ngơi giải trí sau một năm làm việc vất vả thì còn nhằm tạo mối gắn bó đoàn kết, để mọi người có điều kiện hiểu nhau, thông cảm với nhau hơn. Mỗi năm học, từ nguồn quỹ của cơ quan và quỹ hội phụ huynh, nhà trường thường tổ chức cho CB – GV –CNV tham quan du lịch trong dịp hè. Thế nhưng chỉ dựa vào những nguồn kinh phí ấy thì không thể tổ chức đi chơi xa, nhất là tham quan du lịch nước ngoài… hơn nữa tôi nhận thấy, với những chuyến tham quan mà phải đóng thêm tiền thì rất ít người tham gia mặc dù nguyện vọng rất muốn đi. Chính vì vậy để tổ chức tham quan du lịch nước ngoài như Singapore, Malaysia… là cả vấn đề khó khăn và đó cũng là vấn đề tôi luôn băn khoăn, trăn trở và tìm cách khắc phục: Làm thế nào để tập thể tuy phải đóng góp nhưng vẫn chấp nhận được? Tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
>>> Làm thế nào để trẻ khiếm thính hòa nhập tốt
>>> Chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1
>>> Ứng dụng và sáng tạo trò chơi mầm non
- Giải quyết vấn đề:
- Vận động anh chị em tiết kiệm nguồn tiền ăn sáng để tạo nguồn quỹ đi chơi: Mỗi tháng, nhà trường bồi dưỡng cho CB – GV –CNV từ nguồn phục vụ ăn sáng 100.000đ/người. Để có kinh phí đi tham quan ở xa tôi đề nghị anh chị em cùng tiết kiệm khoản tiền này bằng cách không lãnh mà gửi lại quỹ số tiền đó trong 4 năm để tạo thành quỹ đi chơi. Với cách tiết kiệm như vậy, mỗi năm trường sẽ có 1 khoản tiền từ 80 -85 triệu đồng để tổ chức tham quan. Nguồn quỹ này chủ yếu để tổ chức cho tham quan du lịch Singapore + Malaysia, số lượng người đi ít,luân chuyển 4 năm sẽ đủ để tổ chức. Quỹ này thường được sử dụng như sau:
- Mỗi năm sẽ tổ chức cho 1 nhóm trên dưới 15 người được tham quan du lịch Singapore + Malaysia bằng số tiền có trong quỹ này. Nhóm người này sau khi đi chơi về sẽ vẫn lại tiếp tục đóng góp tiết kiệm trong 4 năm. Những ai chưa đi sẽ tiếp tục đi trong những năm tiếp theo.
- Trong 4 năm ai không đi hoặc nghỉ việc sẽ lãnh số tiền bằng số tiền mình đã đóng.
Như vậy đối với những người không đi chơi, họ cũng coi đây như là một cách để dành. Sau 4 năm sẽ tiết kiệm được một khoản tiền để mua một thứ gì đó. Còn đối với những người đi chơi thì rất phấn khởi vì dù mới đóng góp được một ít nhưng vẫn đi chơi được do có tiền của tập thể bù vào.
- Cho trả góp từ từ hàng tháng:
Với những chuyến đi chơi xa hay đi du lịch nước ngoài, mỗi cá nhân đều phải đóng góp them một khoản tiền nữa mới đủ. Khoản tiền này nhà trường cho phép họ trả từ từ trong năm học sau bằng cách trừ dần vào lương.
Tất cả cách làm nêu trên đây đều được thông qua hội nghị Cán bộ công chức, được đội ngũ nhất trí cao và được thực hiện nghiêm túc dưới sự giám sát của Công đoàn trường.
- Kết quả:
Với những biện pháp mạnh đạn như trên nhà trường đã tổ chức được 2 chuyến đi Singapore – Malaysia cho 28 CB –GV –CNV. Ngoài ra, với biện pháp cho trả góp, nhà trường cũng đã tổ chức cho Chi bộ cùng nhóm trung kiên về thăm quê Bác, thăm nghĩa trang Trường Sơn, tham quan Phú Quốc, Côn Đảo… Mỗi mùa hè, CB –CNV – GV được đi nghỉ mát một nơi khác nhau với số lượng người tham gia có đông người tham dự đã tạo tình cảm gắn bó của anh chị với tập thể nhà trường. Mặt khác sau mỗi lần đi chơi, mọi người đều phấn khởi, tầm hiểu biết được nâng cao, cùng cố gắng hỗ trợ nhau để công việc đạt hiệu quả hơn và lại háo hức để chờ mùa hè tới cùng nhua khám phá một điểm du lịch mới.
Tp Hồ Chí Minh
Người viết sáng kiến kinh nghiệm
sáng kiến kinh nghiệm mầm non cùng bé khám phá
CÙNG BÉ KHÁM PHÁ
LỜI GIỚI THIỆU
Khi nói đến trẻ mầm non không ai không biết trẻ ở lứa tuổi này rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh, trẻ rất vui sướng khi tự tay mình thả quả trứng vào một miệng chai nhỏ hơn “Bỏ trứng vào chai”; nhìn thấy nước ở trong ống hút “Ống hút lạ lùng”; sự hoà tan của bột giặt “Nhủ tương và dầu”… từ những thí nghiệm nhỏ này sẽ hình thành ở trẻ những biểu tượng về thiên nhiên là cơ sở khoa học sau này của trẻ.
sáng kiến kinh nghiệm mầm non 2012, sáng kiến kinh nghiệm mầm non của cán bộ quản lý, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 4-5 tuổi, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn tạo hình, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 5-6 tuổi, sang kien kinh nghiem, sang kien kinh nghiem am nhac mam non, sang kien kinh nghiem mam non, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 4-5 tuổi, sang kien kinh nghiem mam non bao ve moi truong, sáng kiến kinh nghiệm mầm non của cán bộ quản lý, sang kien kinh nghiem mam non hay, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái, sang kien kinh nghiem mam non mon tao hinh, sang kien kinh nghiem mam non mon van hoc
>>> Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi
>>> Sáng kiến kinh nghiệm Môn giáo dục âm nhạc
>>> Trò chơi chuyển tiếp trong Giáo dục Mầm Non
Thông qua các thí nghiệm tự tay trẻ làm, đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích so sánh, tổng hợp nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ nhanh nhạy, chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn.
Khi quan sát trẻ hoạt động tôi thấy những biểu hiện của trẻ là rất tích cực, thích thú khi trẻ nhìn thấy các bước thực hiện cũng như kết quả mà trẻ thu nhận được. Chính vì thế chúng ta, những người giáo viên mầm non có nhiệm vụ khuyến khích, tạo điều kiện giúp trẻ có điều kiện khám phá, trải nghiệm.
Tuy nhiên, nội dung, đối tượng cho trẻ làm quen cần được chọn lọc: nội dung phải đảm bảo cung cấp cho trẻ những kiến thức đơn giản, gần gũi và đặc biệt là phải đảm bảo an toàn về qui trình thưc hiện đối với trẻ. Và sau đây là những bài tập thí nghiệm mà tôi đã lựa chọn phù hợp với trẻ 4 tuổi.
BÀI TẬP 1: HAI CHIẾC ỐNG HÚT
1. Bé chuẩn bị gì?
• Hai chiếc ống hút.
• Băng keo.
• Một ly nước xí muội (hhoặc nước ngọt nước cam).
• Cho một ống nhúng vào ly, một ống ở bên ngoài.
2. Bé làm thế nào?
• Dùng băng keo quấn hai chiếc ống hút lại.
• Đặt miệng vào cả hai ống hút và hút mạnh.
3. Bé thấy gì?
• Lần đầu bé chỉ hút được… không khí.
• Còn lần sau bé đã hút được nước xí muội rồi.
4. Tại sao vậy?
• Bé biết rằng không khí nhẹ hơn nước nên trong lần hút đầu, không khí sẽ di chuyển đến miệng bé nhanh hơn. Kết quả bé không hút được nước. Còn lần hút sau, bé hút được nước là nhờ luồng không khí bên ngoài ly đã bị ngón tay bé chặn lại.
BÀI TẬP 2: ỐNG HÚT LẠ LÙNG
1. Bé chuẩn bị gì?
• Một cái ống hút.
• Một ly nước cam hoặc nước ngọt.
2. Bé làm thế nào?
• Hút một ít nước vào ống.
• Đặt nhanh một ngón tay lên ống bịt trên ống – giữ ống thẳng đứng. Bé hãy nhìn xem (nước vẫn còn trong ống!).
• Bây giờ bé hãy thả ngón tay ra khỏi đầu ống. Bé thấy gì? (nước trong ống sẽ chảy ra).
BÀI TẬP 3: BỎ TRỨNG VÀO CHAI
1. Bé chuẩn bị gì?
• Một quả trứng gà.
• Một cốc giấm.
• Một cái chai có miệng nhỏ hơn quả trứng.
2. Bé làm như thế nào?
• Trước tiên, bé hãy thả quả trứng vào trong cốc giấm.
• Sau một tuần, bé hãy vớt quả trứng ra lúc này lớp vỏ trứng mềm nhũn đi vì sự “tấn công” của giấm.
• Bây giờ bé cứ kiên nhẫn và khéo léo bỏ trứng vào miệng chai. Một thời gian sau, vỏ trứng sẽ trở nên cứng lại, bé đem khoe “tác phẩm” của mình đi nào.
BÀI TẬP 4: NHŨ TƯƠNG: DẦU VÀ NƯỚC
1. Bé chuẩn bị gì?
• Một cái lọ hoặc là ly thuỷ tinh.
• Nước sạch , dầu ăn và nước rửa chén.
2. Bé làm như thế nào?
• Cho nước sạch vào lọ thuỷ tinh.
• Sau đó, thêm vào một ít dầu ăn. Bé nhìn thấy gì? (dầu sẽ nổi trên mặt nước).
• Tiếp theo, bé dùng tay lắc lọ thuỷ tinh, để yên một lúc, bé hãy quan sát (dầu và nước lại phân thành hai lớp rõ ràng).
• Bây giờ bé lại cho thêm vào lọ thuỷ tinh một ít nước rửa chén hoặc bột giặt quần áo, bé tiếp tục lắc lọ thật kỹ rồi quan sát sẽ thấy dầu và nước không còn phân thành hai lớp nữa mà hoà làm một với nhau.
3. Vì sao?
• Bởi chất tẩy rửa có một thuộc tính đặc biệt là có thể bao vây từng giọt dầu, đem phân tán đều trong nước.
• Bột giặt có thể khử đi vết dầu trên quần áo, chất tẩy rửa có thể tẩy sạch ố dầu là do chúng có thể tách phân tử dầu trên quần áo để đưa vào trong nước.
BÀI TẬP 5: AO NÀO CẠN TRƯỚC? AO RỘNG VÀ NÔNG – AO SÂU VÀ CẠN
1. Bé chuẩn bị gì?
• Một cái chậu.
• Một cái chai thuỷ tinh.
2. Bé làm như thế nào?
• Đổ đầy nước vào lọ thuỷ tinh.
• Bé cẩn thận rót hết nước từ chai thuỷ tinh vào cái chậu.
• Sau đó bé đặt cái chậu lên kệ (đây là cái ao rộng và nông của bé).
• Bé lại tiếp tục đổ nước vào cái lọ thuỷ tinh đặt nó bên cạnh chậu nước (đây là ao nhỏ và sâu của bé).
• Bé hãy quan sát mực nước của chậu và lọ trong nhiều ngày cái nào sẽ cạn nước trước? Tại sao?
BÀI TẬP 6: KHÍ NÉN “ĐẠI LỰC SĨ”
1. Bé chuẩn bị gì?
• Hai chiếc cốc thuỷ tinh miệng nhỏ, đáy lớn.
• Một chiếc kim kẹp giấy.
2. Bé làm như thế nào?
• Xếp chồng hai ly lên nhau.
• Dùng tay hơi nhấc chiếc cốc bên trên.
• Bé thổi hơi vào khe giữa hai chiếc cốc. Bé thấy điều gì? (chiếc cốc ở bên trên bị dội lên như chực nhảy ra khỏi chiếc cốc bên dưới).
Làm thế nào giúp trẻ 1-2 tuổi phát triển ngôn ngữ tốt
BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Tiêu đề: LÀM THẾ NÀO GIÚP TRẺ 1 – 2 TUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ ĐƯỢC TỐT.
- Đặt vấn đề:
Ai cũng biết ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển tâm lý của trẻ.
Đối với nhóm trẻ từ 1 đến 2 tuổi qua quan sát những giờ hoạt động chung và giờ hoạt động vui chơi, tôi thấy các cháu rất thích được giao tiếp, thích được trò chuyện và thích được nói, nhưng vì ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế , các cháu còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều, nên tôi thấy mình cần phải tìm nhiều biện pháp tác động để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát triển, trong năm tôi đã thực hiện một số biện pháp như sau:
>>> Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi
>>> Ý nghĩa trò chơi xây dụng đối vơi trẻ
>>> Trẻ mẫu giáo làm quen với tiếng Anh qua những mẫu truyện
- Giải quyết vấn đề:
Biện pháp: Dùng tranh di động trên kiếng.
Trong giờ hoạt động chung; trên tiết phát triển ngôn ngữ: “con chó, con mèo” tôi dùng tranh di động trên kiếng, những con vật như con chó, con mèo di chuyển rất sinh động, vừa xuất hiện nhân vật đã thu hút và gây hứng thú cho trẻ, trẻ rất thích và rất chú ý, các cháu được nhìn, được chỉ, được gọi, được chạy đuổi bắt khi tôi di chuyển các nhân vật.
Với biện pháp này, rất thuận lợi cho tôi trong việc di chuyển vì được cách bởi tấm kiếng, nên tôi có thể di chuyển theo ý muốn và cung cấp kiến thức cho trẻ một cách đầy đủ nhất, mà không bị trẻ làm gián đoạn. Các cháu muốn sờ vào nhân vật cũng không sờ được nên lại làm tăng thêm kích thích ở trẻ.
Biện pháp 2: Giao lưu trực tiếp với nhân vật.
Tôi đã sử dụng thùng gỗ (thùng carton) khoét một lỗ tròn (lớn, nhỏ) để tôi cho trẻ đoán, tìm, sờ, tôi cho trẻ từng bộ phận của nhân vật, có khi tôi cho xuất hiện lỗ này cái đầu, lỗ kia cái chân. Tôi cho những nhân vật xuất hiện ở những lỗ khác nhau để kích thích trẻ gọi tên ví dụ như : đuôi chó, đuôi con chó… Sau đó tôi cho các nhân xuất hiện để trẻ được ôm ấp, vuốt ve, ôm hôn, trò chuyện…
Ở dạng hoạt động này, tôi cung cấp cho trẻ từng bộ phận của nhân vật, tôi còn tạo được cảm xúc giao lưu cho trẻ và qua đó dạy trẻ kỹ năng bộc lộ cảm xúc trong giờ chơi.
Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ thông qua tình huống trò chơi.
Trong giờ hoạt động vui chơi, tôi luôn quan sát các cháu chơi và tùy vào tình huống mà tôi tác động theo.
Ví dụ : Bé Bi đang đẩy xe đi chơi, xe bị lật, em bé ngã. Tôi thấy bé Bi bế em lên và miệng lẩm bẩm, tôi liền đến bên và hỏi: “ Em con bị làm sao?” Bé trả lời: “Em bị té u đầu” “ Thế phải làm sao bây giờ?” “Xức dầu cho em”….
Biện pháp 4: Xem tranh, xem sách tôi đã đưa giờ xem tranh xem sách lồng vào trong giờ hoạt động vui chơi một cách tự nhiên nhẹ nhàng không gò bó nhưng đạt hiệu quả rất cao. Thông qua xem sách, xem cách cháu tự nói rất nhiều theo sự hiểu biết của mình như : về tên đồ dùng vật dụng của đồ chơi, đồ dùng và đặc trưng của các con vật, và ở đây tôi đã phát triển cho trẻ kỹ nanưg xem sách và lật sách.
- Kết thúc vấn đề:
Qua những biện pháp trên, tôi đã ứng dụng trong năm học và nhận thấy rằng các cháu ở lớp tôi về ngôn ngữ phát triển rất tốt, các cháu nói được rất nhiều, mạnh dạn và tự tin trong giao tiếp.
Một vài biện pháp đưa ra, mời các bạn cùng tham khảo.
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi
- ĐẶT VẤN ĐỀ
– Ông bà ta xưa có câu “ Trẻ lên 3 cả nhà học nói” Thật đúng như thế dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ 3 tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt, hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển NN cho trẻ 3 tuổi sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học khác. Đặc biệt là thông qua bộ môn NBTN, giúp trẻ khả năng phát triển TDuy và NNgữ, cảm thụ cái hay, cái đẹp xung quanh trẻ. Phát triển ngôn ngữ là một trong các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mầm non.
sáng kiến kinh nghiệm mầm non 2012, sáng kiến kinh nghiệm mầm non của cán bộ quản lý, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 4-5 tuổi, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn tạo hình, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 5-6 tuổi, sang kien kinh nghiem, sang kien kinh nghiem am nhac mam non, sang kien kinh nghiem mam non, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 4-5 tuổi, sang kien kinh nghiem mam non bao ve moi truong, sáng kiến kinh nghiệm mầm non của cán bộ quản lý, sang kien kinh nghiem mam non hay, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái, sang kien kinh nghiem mam non mon tao hinh, sang kien kinh nghiem mam non mon van hoc
– Năm học 2014-2015 tôi được phân công chủ nhiệm lớp Sơn ca, sỉ số 35 cháu. Đa số cháu đã biết nói, nhưng phát âm chưa rõ ràng, một số còn nói ngọng, nói chưa trọn câu…
– Để phát triển tốt về ngôn ngữ, tôi đã lựa chọn đề tài “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi”
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
– Khoa học đã ng cứu về đặc điểm TSL lứa tuổi chúng ta thấy trẻ 3 tuổi phát triển rất nhanh về thể lực và tâm lý, ngôn ngữ ngày càng đóng vai trò quan trọng với trẻ . Trẻ có thể sử dụng lời nói để trao đổi với mọi người xung quanh.
– Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy đã giúp trẻ có khả năng nhận thức thế giới bên ngoài, do đó ở trẻ luôn xuất hiện câu hỏi “ Tại sao” với chúng ta.
-Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Đây là giai đoạn trẻ đang học nói hay bắt chước người lớn và chính thời điểm này cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn trẻ cách nói rõ câu, cách phát âm rõ ràng…
Muốn làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch sự.
*Trò chuyện với trẻ:
– Cho trẻ được tiếp xúc và hoạt động với các đồ vật, tôi hỏi trẻ: “ Đây là cái gì? Chiếc ô tô này màu gì? Quả bóng này to hay nhỏ…Từ những hoạt động này cũng giúp trẻ mở rộng vốn từ, tôi thường xuyên sửa phát âm sai cho trẻ, hình thành thói quen tư duy về mọi việc diễn ra xung quanh trẻ một cách tự nhiên nhất.
Ví dụ: trẻ quan sát vườn hoa trẻ kể lại. Hoa hồng màu đỏ có gai, hoa cúc màu vàng, hoa rất thơm…
– Những lần sau tôi đã tích cực hóa lời nói của trẻ khi quan sát tôi đưa ra các câu hỏi: Hoa gì màu đỏ có gai ? Hoa gì cánh dài mà có màu vàng?…Đối với trẻ 3 tuổi biểu tượng của trẻ còn chưa đầy đủ, tôi luôn bổ sung câu trả lời chưa đầy đủ cho trẻ. Những lúc trẻ lúng túng tôi đã gợi ý và giúp trẻ trả lời cho chính xác.
*Tổ chức cho trẻ chơi theo từng nhóm
– Tôi cho trẻ tham gia chơi cùng bạn bè trong lớp theo từng nhóm nhỏ. Đây là cơ hội cho trẻ được trò chuyện với các bạn và phát triển khả năng giao tiếp của trẻ , trẻ sớm học được cách truyền tải, suy nghĩ, cảm giác thành lời khi chơi với đồ chơi.
Ví dụ: Tôi cho trẻ chơi ru em. Mỗi nhóm ngồi 3-5 trẻ, mỗi trẻ ôm 1 con búp bê, tôi nói trẻ: Ru em à ơi và lắc lư người, từ đó cũng làm cho trẻ gia tăng trí tưởng tượng và nâng cao khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh.
– Hay trong trò chơi xếp hình, xâu hạt. Tôi cũng tổ chức thường xuyên để trẻ được hoạt động với đồ vật để trẻ phát triển tư duy ngôn ngữ và trẻ có thói quen sử dụng các trò chơi. Qua đó cũng kích hoạt cho trẻ phát triển ngôn ngữ.
*Sử dụng tranh ảnh trong các hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
– Trong các tiết dạy tôi đã đưa ra các bức tranh có các nhân vật, thể hiện được nội dung chủ đề. Tôi hướng dẫn trẻ quan sát một cách chi tiết những nội dung thể hiện trong tranh, trẻ rất hứng thú quan sát và từ đó hình thành kỹ năng cho trẻ. Trẻ không chỉ nhắc lời nói của cô giáo mà trẻ thể hiện sự hiểu biết của mình qua lời nói của trẻ
Ví dụ: Khi đưa bức tranh về đàn gà tôi hỏi trẻ
Các con ơi đàn gà nhà Bà có đẹp không? Gà mẹ thì to, gà con thì nhỏ… Gà to có bộ lông màu gì?…
– Những giờ trả trẻ tôi thường đọc sách, truyện có tranh minh họa, trẻ rất thích thú và luôn miệng hỏi về những nhân vật trẻ nhìn thấy trong tranh.
*Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong mọi hoạt động
để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
– Ở lớp những đồ dùng đồ chơi như: Búp bê, ô tô, các con vật, các hình khối đều có những ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của trẻ. Nó làm phong phú những biểu tượng đạo đức, lời nói giữa cô và trẻ cũng làm tích cực hóa vốn từ cho trẻ
Ví dụ: Trong giờ tập nói về: Đồ dùng của bé tôi thấy trẻ tham gia hoạt động chung một cách tích cực
*Tôi hỏi trẻ: Đi học Bé có mang dép không?
*Khi nắng bé phải đội gì?
*Bé dùng gì để lau mũi?
Qua đó các chuẩn mực hành vi và thói quen tự phục vụ cho trẻ cũng được hình thành
– Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi tự lập để phát triển lời nói
– Tôi đã hướng dẫn trẻ cách chơi, các kĩ năng cơ bản, trong quá trình chơi trẻ đã được phát âm nhiều lần các từ khác nhau
Ví dụ: Trẻ chơi xếp ô tô
Trẻ sẽ tưởng tượng ra ô tô chạy và nói: Ô tô chạy…bíp …bíp
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với kinh nghiệm của bản thân và những kiến thức được trang bị trong quá trình công tác tôi đã áp dụng những biện pháp trên vào quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tuy chỉ là những biện pháp có được từ cá nhân tôi, dựa vào tình hình của trẻ lớp tôi chủ nhiệm tôi thấy các cháu lớp tôi cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt:
– Trên 80% trẻ đã nói trọn câu: VD“ Cô ăn cơm – Con mời cô ăn cơm” Và nói rõ ràng, không nói ngọng, không nói lắp, có nhiều cháu trả lời lưu loát và trọn ý, trọn câu. Các cháu đọc thơ đã hay hơn. Các giờ âm nhạc cháu đã hát được đúng giai điệu, rõ lời và nhịp nhàng
– Trong giao tiếp với cô trẻ đã trả lời rõ nghĩa. Khi tham gia các trò chơi tập thể trẻ trò chuyện với bạn rất vui. Trẻ có yêu cầu gì trẻ đều thể hiện qua lời nói rất rõ ràng. Tôi cảm thấy rất vui mừng và các bậc phụ huynh cũng tỏ ra hài lòng và mến phục.
III. Kết luận:
– Ngành giáo dục mầm non là ngành học đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đào tạo con người mới, là cơ sở hình thành và phát triển con người. Vì vậy giáo viên mầm non luôn cần có phẩm chất đạo đức, lối sống ,tư tưởng, lập trường, tư tưởng vững vàng. Luôn bồi dưỡng trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát âm chuẩn cho trẻ. Vì kĩ năng này đóng một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của trẻ, giúp trẻ có thêm nhiều vốn từ mới làm giàu cho kho tàng kiến thức của trẻ.
– Việc rèn luyện cho trẻ nói mạch lạc hiện nay là một vấn đề quan trọng nên mỗi giáo viên không chỉ rèn cho trẻ tốt qua các tiết học mà bên cạnh đó phải rèn luyện bản thân để có trình độ chuyên môn dạy tốt, mang trí thức thắp sáng thế hệ mầm non phấn đấu tất cả vì trẻ thân yêu.
– Trên đây là một số biện pháp hữu ích nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua môn nhận biết tập nói. Tôi rất mong được sự ủng hộ của các đồng nghiệp và của các cấp lãnh đạo.
- Bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ PTNN:
– Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của mình, coi ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo
– Giáo viên phải thật sự kiên trì và nhẫn nại yêu trẻ như con đẻ của mình
– Phải gần gũi thân thiện và nhiệt tình trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
– Giáo viên phải sưu tầm tranh ảnh, các đồ dùng, đồ chơi đẹp, đảm bảo tính thẫm mỹ và khoa học, thu hút trẻ vào tiết học
– Cô giáo là người gần gũi trẻ nhất, tiếp xúc với trẻ nhiều nhất phải luôn phát âm chuẩn, nói chuẩn phải uốn nắn trẻ để trẻ phát âm chính xác
– Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu cần đạt của giáo viên
Ý nghĩa trò chơi xây dụng đối vơi trẻ
Sáng kiến kinh nghiệm:
GÓC XÂY DỰNG TRONG HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
- Ý NGHĨA TRÒ CHƠI XÂY DỰNG ĐỐI VỚI TRẺ
Trò chơi xây dựng (tcxd) là loại trò chơi biểu hiện khả năng tạo hình của trẻ, từ những khối gỗ, khối nhựa, hộp giấy… với những hình dạng kích thước khác nhau, trẻ có thể lắp ghép xd nên những công trình như : công viên, lăng tẩm.. Hoăc từ những vật liệu thiên nhiên như vỏ sò, hến, ốc, đá, sỏi… trẻ xây nên những vừơn trường , vườn cây. Trong những công trình đó, sáng kiến của trẻ được bộc lộ rõ nét, tùy theo hoàn cảnh sống, vốn sống và khả năng tưởng tượng, mỗi trẻ đều có những khả năng riêng biệt và được biểu hiện trong các công trình của mình. Qua trò chơi trẻ thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu về đặc điểm, tính chất của thế giới xung quanh đặc biệt là đồ vật xung quanh trẻ
Thông qua trò chơi trẻ rèn luyện khả năng lắp ghép xây dựng, đồng thời phát triển trí tưởng tượng, ý thức tình cảm, tính tò mò, tính ham hiểu biết và đó cũng là những phẩm chất cần thiết của con người trong thời đại phát triển.
- NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TRÒ CHƠI XÂY DỰNG
Theo su hướng từ trước đến nay góc xd ở một số trường hợp hoàn toàn không sử dụng cho trò chơi, nhưng là một phần cần thiết cho khung cảnh chơi. Nhưng cũng có trường hợp công trình xd mà trong đó nội dung chỉ đơn thuần là thực hiện một công trình không có mối liên hệ gì với các góc khác. Hình thức đó nếu được lập đi lập lại thường xuyên thì trẻ sẽ nhàm chán và không phát triển tính sáng tạo cuả trẻ
- BIÊN PHÁP KHẮC PHỤC
Luôn luôn làm phong phú các mối quan hệ xã hội bằng cách liên kết các góc chơi theo chủ đề thành một xã hội thu nhỏ, trong đó có nhiều ngành nghề khác nhau như Kmác đã nói: sự phong phú của nhân cách phụ thuộc vào sự phong phú của các mối quan hệ xã hội “. Góc xd ở MG phải có mối quan hệ qua lại giữa các góc khác khi đó trẻ không những biết đặt mối quan hệ trong cùng một nhóm mà còn biết nhân rộng mối quan hệ với các nhóm khác:
Khi chơi xd ngoài tạo ra một khuân viên nhất định cô còn có thể gợi ý cho tre mở rộng liên kết với các góc khác bằng những con đường nối từ góc này sang góc kia từ khu chợ tới góc gia đình, từ khu vui chơi tới cửa hàng lúc này góc xd làm nhiệm vụ trung tâm nối các góc khác lại với nhau muốn đi chợ phải đi trên con đường băng qua góc xd muốn đi đến ga cũng có con đường đi đến ga
Tuy nhiên ở trường hợp naỳ các cô có thể gặp khó khăn vì không đủ gạch xd. Để khác phục điều đó các cô có thể lấy những thùng giấy, hộp sữa, long.. đẻ làm hàng hào đường đi
Ngoài ra để làm phong phú thêm góc chơi, cô có thẻ dùng thùng giấy để làm đường hầm cho trẻ chui qua ,hoạc phủ một tấm vaỉ lên hai cổng cũng tạo ra một đường hầm cho trẻ đi qua khi muốn tới một nơi nào đó
Đôi khi công trình xd còn phục vụ cho sự khởi đầu cuả trò chơi đóng vai : vd xây nhà hát bắt đầu cho trò chơi đóng kịch hoạc diễn rối , xây bến xe bắt đầu cho góc bán vé và đi chơi ..lúc đó trẻ xẽ được chơi ngay trong góc xd bạn mới xây
Góc xd còn là chỗ trưng bày sản phẩm của góc tạo hình sau khi trẻ làm song những sản phẩm từ đó trẻ có thể kể về một câu chuyện mà các nhân vật do chính trẻ tạo ra
- KẾT LUẬN
Sau 3 năm thực hiện em thấy có những hạn chế như: khoảng trống trong lớp không đủ
- Ưu điểm : các góc chơi theo kiểu cuốn chiếu không bày la liệt ra cùng một lúc
- Trẻ phát triển tính sáng tạo và tự lập rất nhiều
- Trẻ rất hứng thú và chơi rất tích cực
- Hạn chế sự chạy nhảy sô đẩy nhau vì ai cũng phải tự bảo vệ công trình của bạn
- Tận dụng được những nguyên vật liệu phế thải và với nhiều nguyên liệu sẽ khơi gợi tính sáng tạo của trẻ
Với ít ỏi kinh nghiệm nên em chỉ nêu được một số sáng kiến nho nhỏ, sáng kiến này còn rất nhiều thiếu sót, vì thế mong các cô giúp em hoàn thiện hơn nữa để tiếp tục phục vụ tốt cho các bé và nâng cao tay nghề
Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi
Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi
Tên đề tài:một số biện pháp giáo dục
lễ giáo cho trẻ 5 tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam.
Đối tượng : 5-6 Tuổi.
I /Đặt Vấn Đề
Văn học dân gian đóng vai trò là: “Bầu sữa mẹ” (theo cách nói của MGORKI-Nhà văn Nga vĩ đại )Nuôi dưỡng nền văn học .
Nếu không có thể thơ lục bát được hình thành và đào luyện từ trong ca dao dân tộcthì không thể có truyện Kiều của Nguyễn Du.Không có kho tàng truyện cổ tích cực kỳ phong phú thì không có Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Nhiều nhà văn thơ khác của dân tộc đã học tập,tiềp thu những hìn tượng nghệ thuật,những cốt truyện và nhất là cách nhìn nhận về con người và cuộc sống trong văn học dân gian truyền thống để tạo nên tác phẩm văn học của họ như: Hồ Chí Minh,Nguyễn Khuyến,Tố Hữu,Trần Đăng khoa…
Trong đó truyện cổ tích là một trong những thể loại chủ yếu của văn học dân gian nó cũng là thể loại có nhiều vấn đề phức tạp và phong phú . Thông qua những sáng tạo nghệ thuật cổ tích ,tác giả dân gian đã gửi vào đó quan niệm nghệ thuật
về thế giới nhân sinh thể hiện ý thức thẩm mỹ gắn liền với tinh thần nhân văn của mình .
Truyện cổ tích của dân tộc nào cũng đề cao đạo đức nhân nghĩa .Nó là một môi trường đắc địa để những bài học đạo đức,luân lý được đưa đến cho trẻ một cách tự nhiên. Hiện nay cuộc sống hiện đại nên có nhiều phương tiện giải trí vui chơi và học tập hấp dẫn khiến các bậc phụ huynh thường lệ thuộc vào đó,thường khi con đi học về là bố mẹ mở băng đĩa siêu nhân hay trò chơi “Game” cho con xem.Nhưng thông qua các thể loại ấy làm sao có thể đánh thức được tình cảm đạo đức ban đầu như:
Tình yêu thương lòng biết ơn,tinh thần đoàn kkêt….mà thông qua nội dung ý nghĩa của những câu truyện khiến những quan hệ hành vi của trẻ nhận thức được sâu sắc từ đó tôi đã tìm tòi ,học hỏi ,suy nghĩ và mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam”.
- Giải Quyết Vấn Đề
1.Cơ Sở Lý Luận:
Là một loại hình nghệ thuật,văn học giữ vai trò lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non nhất là các lớp mẫu giáo: Đó là sự mở cửa cho những bước đi chập chững đầu tiên vào thế giớ các giá trị phong phú chứa đựng trong tác phẩm văn học đóng góp trong việc hìn thành và phát triển tình cảm đạo đức cho trẻ.Tuy niên không phải dân tộc nào cũng đề cao đạo đức như yếu tố thứ nhất của phẩm chất con người như dân tộc Việt Nam. Dường như quan điểm của con người Việt Nam đạo đức như là cái gốc của sự tôt sấu trên đời.Quan niệm được phản ánh trong truyện cổ tích,vừa chắt lọc kinh nghiệm ứng sử trong thực tế vừa là đạo đức lý tưởng mà con người lao độmg mong muốn xây dựng. Vì thế nó vừa gần gũi,vừa cao cả,nó không chỉ là cái vốn có,cần phải cho cuộc đời tốt đẹp hơn.
2.Cơ Sở Thực Tiễn:
Khả năng khám phá thế giới xung quanh của trẻ còn hạn chế.Tư duy của trẻ là tư duy tổng quát hành động nên trẻ không hiểu qua những lời cô nói ,làm như thế này có nghĩa là tốt,như thế kia là xấu,hay còn phải làm như thế nào ?…Nhưng qua những câu truyện cổ tích thường có cốt truyện ngắn gọn,rõ ràng,dễ nhớ dễ thuộc,nhân vật gần gũi,chính là con người trong các mối quan hệ xã hội.Điều quấn hút các em chính là yếu tố thần kỳ,những đồ vật quen thuộc gần gũi được thổi những yếu tố ly kỳ hoang đường bỗng trở nên hấp dẫn đối với trí tượng của trẻ thơ mà giáo dục tình cảm cho trẻ là một trong năm nhiệm vụ lớn của công tác chính sách giáo dục cho trrẻ mẫu giáo.Vì vậy tôi đã thực hiện một biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam.
Qua một vài năn thực hiện tôi đã thu được một số kết quả khả quan:Trẻ ý thức được việc mình làm tốt hay xấu,nên hay không nên.Biết yêu cái thiện ghét cái ác.Tuy nhiển tông quá trình thực hiện tôi đã gặp phải những thuận lợi và khó khăn sau;
a)Thuận Lợi:
-Trẻ đi học tương đối đều ,được làm quen và củng cố thường xuyên nên đã thành hệ thống .
-Cô giáo có trình độ chuyên môn vững ,yêu nghề mến trẻ, chịu khó học hỏi.Tích cực học hỏi và trao đổi cùng đồng nghiệp về chuyên môn nghiên cứu,sưu tầm các loại sách báo nên tích lũy được một số kinh nghiệm .
b)Khó Khăn :
-Trường mầm non Việt Long là trường mầm non nông thôn và đặc biệt lớp tôi là một lớp không gần trung tâm,phụ huynh làm nông nghiệp nên chưa thực sự quan tâm đến con cái.Vì vậy việc học tập của trẻ chưa đạt kết quả ,kinh tế còn nghèo nàn ….trẻ không được tiếp cận với các phương tiện thông tin sách báo…
Nhất là phụ huynh không hiểu tầm quan trọng của các môn học đặc biệt là môn văn học ,họ đưa con em họ đến lớp với mục đíc là nhờ cô giáo…Vì thế cho nên nhận thức của trẻ còn yếu.
-Đồ dùng và tranh ảnh còn ít.
3.Biện Pháp Thực Hiện
Xuất phát từ những tình hình đặc điển của lớp tôi đã mạnh dạn cho trẻ làm quen với một số truyện cổ tích Việt Nam (ngoài chương trình quy định).Thông qua nội dung truyện dẫn đến giáo dục lễ giáo cho trẻ một cách nhẹ nhàng,phù hợp với lứa tuổi,không gò bó áp đặt mà đạt hiệu quả cao cho trẻ.
a)Lập kế hoạch cho chủ điểm;
Trước hết để cho nội dung lôzíc và phù hhợp với chủ điểm,tôi xây dựng kế hoạch làm quen với văn học cho cả một năm ngay từ đầu năm. Tìm hiểu theo từng chủ điểm của ban giám hiệu xem có bao nhiêu bài mà có nội dung là truyện cổ tích Việt Nam từ đó điều chỉnh,bổ xung một số truyện mà tôi sưu tầm sao cho phù hợp với đặc điểm của trẻ cuẩ lớp theo các chủ điiểm.
Chương trình của lớp tôi là 10 chủ điểm.Tôi thấy số lượng truyện cổ tích Việt Nam còn rất ít và đưa vào giờ hoạt đông chung cũng rất ít.Trong khi đó kho tàng truyện cổ tích của chúng ta rất phong phú .Truyện cổ tích dù ở thể loại nào :Truyện cổ về loài vật ,truyện cổ tích thần kỳ hay truyện cổ tích sinh hoạt đều mang nội dung tình cảm,nêu được những bài học đạo đức cho các em ở lứa tuổi mầm non.Chính vì vậy
Tôi đã bỏ ra khá niều thời gian sưu tầm lựa chọn một số truyện cổ tích Viêt Nam để đưa vào chương trình để cho trẻ của tôi được học(ngoài chương trình quy định của ban giám hiệu)để giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ.
Ví dụ
*Chủ điểm gia đình(Tấm Cám,người con út hiếu thảo)
*Chủ điểm ngành nghề – Sự tích quả dưa hấu, anh nông dân và ba điều ước.
*Chủ điểm động vật-Sự tích con khỉ , cóc kiện trời.
*Chủ điểm thực vật – Sự tích cây thìa là,cây khế ,cây tre trăm đốt.
b,Chuẩn bị đồ dùng dạy học
Bản thân tôi khẳng định : Đồ dùng dạy học là một trong những phương tiện dạy học đạt kết quả cao nhất.Đồ dùng dạy họchấp dẫn sẽ giúp trẻ nhớ rất lâu những kiến thức mà cô cung cấp nhất là khi trẻ được trực tiếp quan sát ,trực tiếp hoạt động ,qua đó trẻ cảm nhận dược tình cảm ,tích cách của các nhân vật trong truyện một cách sâu sắc.Vì vậy trươc khi tổ chức cho trẻ làm quen với truyện tôi chuẩn bị đồ dùng thật
chu đáo .Tranh ảnh hấp dẫn ,rối nhạc nền khi kể phù hợp, sa bàn phù hợp khi kể ,có thể cho trẻ xem đĩa.
ví dụ khi kể truyện “cây tre trăm đốt”ở chủ điểm thực vật . kể song cho trẻ đóng kịch và chuẩn bị đồ dùng cho trẻ đóng kịch . tôi muợn áo của bà già làm áo anh nông dân cho các cháu mặc vào làm cuốc dao vv..
c, Sử dụng các phương tiện giảng dạy
Sử dụng phối hợp và hợp lý ->hiệu quả các phương pháp giáo dục sẽ phát huy tínhchủ động tích cực của trẻ vì thế cho nênkhi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi dùng kết hợp nhiều phương pháp để tất cả trẻdược hoạt động một cách tích cực và cụ thể là: ngoài phương pháp cũ tôi dùng thêm:
+Thuộc truyện
+Nhập vai kể diễn cảm
+Phương pháp cá thể hóa
+Phương pháp tích hợp
*Thuộc truyện và nhập vai kể diễn cảm .
-Để đạt dược giờ dạy đạt kết quả tốt cô giáo phải chuẩn bị tốt giáo án , phải thuộc truyện , thuộc các tình tiết tròg truyện để từ đó nhập vai tốt .
*Phương pháp cá thể hóa
Mỗi trẻ em tuy ở cùng độ tuổi song có sự phát triển khác nhau cả về thể chất và trí tuệ nên cô phải dựa vào đặc điểm này để có những biện pháp riêng biệt tránh lối giáo dục đồng lọat để phát huy khả năng của từng trẻ.
*Phương pháp tích hợp
Đây không phải là phép cộng tác bộ môn mà là sự kết hợp lôzích , hợp lý giụp giáo viên khai thác tối đa nội dung giáo dục tình cảm đạo đức qua mỗi truyện nhờ đó bài học đạo đức trở nên hấp dẫn ,gần gũi ấn tượng và sâu sắc với trẻ.
Ví dụ :
Khi dạy truỵên “cây trẻ trăm đốt” ở chủ điểm thế giới thực vật .
Cô giáo có thể tích hợp bộ môn môi trường xung quanh , biết về cây tre gần gũi và rất quen thuộc của địa phương và một số loại cây khác …
d, Tổ chức giáo dục lể giáo cho trẻ thông qua truyện cổ tích ở mọi lúc mọi nơi.
Theo lịch sinh hoạt chương trình cho trẻ làm quen với văn học mỗi tuần chỉ một giờ hoạt động chung(25-30 phú) mà nội dung chương trình đa số là truyện hiện đại và thơ truyện cổ tích còn ít .
Chính vì vậy để đạt được mục đích đề ra tôi đã tổ chức cho trẻ làm quen với truyện cổ tích Việt Nam mọi lúc mọi nơi mọi thời điểm khác nhau trong ngày :
+Giờ đón trẻ
+Giờ hoạt động ngoài trời
+Giờ HĐ góc
+Giờ HĐ chung
+Giờ trả trẻ
Trẻ mẫu giáo rất giầu tình cảm,trong mọi hành động đều chịu sự chi phối của tình cảm.Một hành vi tốt của trẻ thường do cảm xúc khi được khích lệ khen ngợi hoặc do tình yêu lòng mong muốngiúp đỡ người mà trẻ yêu mến thúc đẩy . Những hành vi đạo đức của trẻ chỉ thực hiện được định kỳ khi trẻ phân biệt được điều tốt ,điều xấu ,những hành vi ứng xử nào cần làm và làm như thế nào ? Những hành vi nào không nên làm và không được làm đồng thời trẻ có những hành vi động cơ đúng đắn.
Chính vì vậy việc giáo dục các chuẩn mực , quy tắc và động cơ hành vi coi là cốt lõi của công tác giáo dục đạo đức và được thực hiện liên tục ,thường xuyên , cần luôn luôn làm giàu vốn kinh nghiệm đạo đức cho trẻ .
-Giờ đón trẻ ,giờ trả trẻ là lúc cô áp dụng biện pháp cá thể hiệu quả nhất.
Ví dụ :cô trò chuyện cởi mở ,tự nhiêngần gũi trẻ để trẻ tự bộc lộ bản thân:cô hỏi trẻ nhà con có em bé không ?Con thường làm gì với em bé nếu em đòi đồ chơi của con thì con làm gì ?Từ đó cô có thể kể chuyện có nội dung về gia đình cho trẻ nghe.
-Hoặc giờ hoạt động góc :
Góc là khu vực riêng biệt trong nhóm nơi trẻ có thể làm việc một mình hoặc theo nhóm nhỏ theo hứng thú và nhu cầu riêng để trẻ xem xét và khám phá .Cô giáo có thể làm việc riêng với từng nhóm nhơ mà không sợ ảnh hưởng đến sự hoạt động tích cực của trẻ ,ở đây trẻ được thoải mái về không gian và thời gian …
-Sinh hoạt chiều :Đây là thời gian lý tưởng để cô giáo tổ chức cho trẻ làm quen chọn vẹn với một truyện cổ tích đúng các bước làm quen với tác phẩm văn học.
e,Phối hợp với phụ huynh
-Để việc giáo dục đạt hiệu quả tốt nhất tôi dã phối hợp chặt chẽ với phụ huynh ,từ đầu năm giáo viên đã thông báo chương trình học của cả một năm cho phụ huynh nắm được
– Tuyên truyền với phụ huynh về lợi ích của truyện cổ tích Việt Nảmtong quá trình giáo dục trẻ. Đến đầu chủ điểm tôi cho phụ huy n muợn phô tô những câu truyện đã chọn cho phụ huynh xem .Phát cho phụ huynh nhũng bản phụ huynh phô tô đẻ phụ huynh kể cho con em mình nghe.
-Giáo dục lễ giáo cho trẻ không thể tách rời khỏi gia đình vì giáo dục tình yêu là nội dung cơ bản của giáo dục lòng nhân ái cho trẻ.
Giáo viên luôn trò chuyện tuyên truyền với phụ huynh về các nội dung giáo dục đạo đức ,hành vi đạo đức phù hợp với trẻ để phụ huynh phối hợp rèn trẻvà dạy trẻ tại gia đình .
4.Kết quả đạt được như sau:
Sau một thời gian thực hiện với lòng kiên trì lòng say mê kết hợp với việc sử dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt .Tôi nhạn thấy nội dung mình lựa chọn đạt kết quả như sau:
-Tạo cho trẻ hứng thú hoạt động làm quen với văn học đặc biệt là truyện cổ tích Việt Nam,giờ hoạt động góc nhiều trẻ thích chơi ở góc sách hơn.
-Trẻ tiếp thu được những chuẩn mực đạo đức gần gũi trong cuộc sống hằng ngày .
-Giáo dục lễ giáo không chỉ thể hiện trong giờ
học mà còn được thể hiện ở tất cả các hoạt động;
+Giờ chơi ,góc chơi , trẻ biết hòa thuận không tranh giành đồ chơi
+Đối với mọi người biết chào hỏi lễ phép biết nhường nhị em nhỏ .
+Đối với gia đình : không quấy rầy vòi vĩnh bố mẹ biết yêu thương chia sẻ tình cảm với người thân trong lúc vui buồn .
+ Đối với thiên nhiên : Không bẻ cành ,hái hoa ,…hình thành đức tính tốt :Ngăn nắp ,gọn gàng ,tính tự lập.
Kết quả khảo sát như sau:
III.Kết Thúc Vấn Đề
1.Kết Luận
Vởy giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ mẫu giáo là vô cùng quan trọng như đầu bài viết tôi đã nêu có phải chăng văn học góp pần cốt lõi cho việc giáo dục con người ,con người có phẩm chất đạo đức có tình yêu thương, con người giàu lòng nhân nghĩa khi trưởng thành .
Vậy ngay từ bây giờ tôi và các bạn hãy làm tốt công tác giáo dục này góp phần …cho đất nước sau này .
2.Bài học kinh nghiệm :
Tóm lại ,để gióa dục tình cảm đạo đức cho trẻ thông qua truyện cổ tích Việt Nam đạt hiệu quả cao . Tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
-Lập kế hoạchchi tiết cho từng chủ điểm .
-Chuẩn bị đồ dùng đẹp ,sinh động hấp,dẫn trẻ.
-Bản thân giáo viên luôn học hỏi ,tìm tòi,rèn luyện giọng kể .
-Phối hợp với ban phụ huynh lớp cũng như từng phụ huynh để nắm chắc tình hình ,tính cách của từng cá nhân trẻ ,có phưong pháp tác động kịp thời ở lớp cũng như ở nhà.
3.Khuyến nghị:
Tôi mong muốn nhà trường tạo điều kiện về thời gian và kinh phí đẻ giáo viên được học hỏi thêm các lớp làm đồ dùng ,đồ chơi trang trí lớp cho đẹp và phong phú.Nhà trường tạo điều kiện hơn nữa cho các giáo viên di tham quan quan học hỏi ,trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên khác ở các trường khác trong huyện trong thành phố. Từ đó chúng tôi học hỏi được kinh nghiệm của các đồng nghiệp về các phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ để phục vụ cho việc giảng dạy được tốt hơn
Sáng kiến kinh nghiệm Môn giáo dục âm nhạc
Sáng kiến kinh nghiệm Môn giáo dục âm nhạc
-
Đặt vấn đề
- Cơ sở lý luận
Âm nhạc đối với trẻ là một thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc. Như chúng ta đã biết âm nhạc tác động vào con người ngay từ khi còn nằm trong nôi khi được nghe tiếng ru à ơi của mẹ. Tâm hồn trẻ ngây thơ trong sáng, luôn luôn vui vẻ cho nên tiếp xúc với âm nhạc là nhu cầu không thể thiếu với trẻ. Bởi chính ở đây âm nhạc được coi như 1 phương tiện giáo dục toàn diện nhân cách trẻ.
sáng kiến kinh nghiệm mầm non 2012, sáng kiến kinh nghiệm mầm non của cán bộ quản lý, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 4-5 tuổi, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn tạo hình, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 5-6 tuổi, sang kien kinh nghiem, sang kien kinh nghiem am nhac mam non, sang kien kinh nghiem mam non, sáng kiến kinh nghiệm mầm non 4-5 tuổi, sang kien kinh nghiem mam non bao ve moi truong, sáng kiến kinh nghiệm mầm non của cán bộ quản lý, sang kien kinh nghiem mam non hay, sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái, sang kien kinh nghiem mam non mon tao hinh, sang kien kinh nghiem mam non mon van hoc
Trong chương trình giáo dục mầm non, bộ môn giáo dục âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật hết sức gần gũi với trẻ, là hoạt động được trẻ yêu thích, là nguồn hứng thú mạnh mẽ để trẻ cảm thụ nghệ thuật và nó còn là phương tiện thiết thực cho các hoạt động giáo dục khác. Có thể coi âm nhạc là một bộ phận không thể tách rời với công tác chăm sóc, giáo dục trẻ.
>>> Trò chơi chuyển tiếp trong Giáo dục Mầm Non
>>> Làm thế nào để trẻ khiếm thính hòa nhập tốt
>>> Chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1
Giáo dục âm nhạc trong trường mầm non là giáo dục cho trẻ lòng yêu âm nhạc, biết cảm thụ âm nhạc thông qua các hoạt động âm nhạc phong phú như: Ca hát, vận động, nghe hát, múa trẻ chơi âm nhạc. Đặc biệt đối với trẻ 4 tuổi, giáo dục âm nhạc đã đem lại cho trẻ những ấn tượng, những khái niệm âm nhạc, dần hình thành trong tâm hồn trẻ, tạo điều kiện phát triển thị hiếu âm nhạc. Đây là bước khởi đầu giúp trẻ biết lựa chọn, đánh giá tác phẩm âm nhạc và biết cách biểu diễn ở mức độ đơn giản.
- Cơ sở thực tiễn
Ca hát là một trong những nội dung của giáo dục âm nhạc, nó là loại hình nghệ thuật có giá trị biểu cảm cao vì nó tác động đến người nghe cả về âm nhạc và lời ca, nó phản ánh cuộc sống sinh hoạt, tâm tư tình cảm của con người và nó gấn gũi với con người, được đông đảo công chúng yêu thích. Trong trường mầm non ca hát là 1 hoạt động được thực hiện thường xuyên liên tục và được lồng ghép trong các hoạt động của trẻ, nó là cầu nối giữa hoạt động này với hoạt động khác và nó là nguồn tạo hứng thú mạnh mẽ nhất để trẻ tham gia vào các hoạt động. Tuy nhiên khi trẻ ca hát ta thường nhận thấy đôi lúc có phần không chính xác về giai điệu hoặc về lời ca, thậm chí trẻ còn tự sáng tác lời không phù hợp nội dung) để….. Mặt khác kỹ thuật hát của trẻ còn hạn chế về giọng, về hơi, vì âm vực tiết tấu vì thế nó làm giảm đi tính nghệ thuật của bài hát. Ngoài ra cơ quan phát âm của trẻ chưa thực sự hoàn chỉnh, âm phát ra yếu, hơi thở ngắn, nông và đặc biệt sự phối hợp giữa tai nghe và giọng chưa thật chủ động. Do đó trẻ hát chưa có tính nghệ thuật. Vậy làm thế nào để trẻ hát hay, hát chính xác một tác phẩm âm nhạc?
Chính vì những lý do trên mà năm học này tôi đi sâu nghiên cứu ”Những biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ 4 tuổi”. Sau đây là những giải pháp thực hiện của tôi.
- Giải pháp thực hiện
* Thực trạng trẻ ở lớp
Qua điều tra thực trạng trẻ hiện kỹ năng ca hát đầu năm tôi thấy:
+ 4/35 trẻ thể hiện tốt kỹ năng ca hát/11%.
+ 6/35 trẻ đã thể hiện được kỹ năng ca hát 17%
+ 25/35 trẻ chưa thể hiện được kỹ năng ca hát 72%.
Từ kết quả điều tra tìm cho thấy giáo viên và trẻ có một số hạn chế như sau:
- Về phía trẻ
– Trẻ chưa tích cực tham gia vào hoạt động ca hát
– Trẻ hát đúng giai điệu, hát không rõ lời hoặc hát sai lời.
– Trẻ chưa tạo được âm thanh hợp lý khi hát (hát nhỏ hoặc la hét căng cứng).
– Khi hát trẻ chưa hoà quyện giọng hát của mình vào giọng hát của tập thể.
- Về phía giáo viên
– Chưa gây được hứng thú với trẻ đến các tác phẩm âm nhạc.
– Chưa chú trọng đến rèn kỹ năng ca hát cho trẻ, gò ép trẻ học hát theo kiểu ”Học thuộc lòng”
– Giáo viên chưa thực sự đầu tư về nghệ thuật, kỹ năng ca hát.
– Chưa lựa chọn các tác phẩm khi giới thiệu với trẻ. Các tác phẩm giới thiệu đến trẻ còn nghèo nàn, đơn điệu và phụ thuộc vào chương trình chung. Giáo viên chưa chịu khó sưu tầm các bài hát hay, nó nội dung hấp dẫn ngoài vì đưa vào dạy trẻ.
Để khắc phục giải quyết thực trạng và một số hạn chế trên tôi đã áp dụng một số ”Biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ như sau”.
III. Một số biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ 4 tuổi
* Biện pháp 1: Tự rèn luyện nâng cao …. khi hát mẫu cho trẻ nghe.
– Để chuẩn bị dạy hát cho trẻ tôi tìm hiểu và phân tích bài hát trên cơ sở đó luyện hát diễn cảm, thể hiện sắc thái tình cảm phù hợp nội dung bài hát. Từ đó tôi luyện kỹ năng những hứng thú sở thích của trẻ.
Lời ca trong bài hát cần ngắn gọn dễ hiểu, nên chọn những bài hát có nội đung gắn với hiện tượng thiên nhiên xã hội gần gũi với trẻ và phù hợp với chủ điểm.
VD: Chủ điểm ”TB ĐV” tôi lựa chọn bài hát về các con vật trẻ yêu thích như ”Bài hát của chuồn2” Hoàng Lương; ”Con vịt bầu” – Hoàng Long và Hoàng Lân; ”Con còng con cua” – Lê Quốc Tháng; ”Con cào cào” – Lê Thương; ”Con ve, con kiến” – Y Vân…
+ Chủ điểm ”Tết và mùa xuân” tôi chọn bài ”Bé chúc xuân” – Vũ Hoàng; ”Sắp đến tết rồi”…
Chủ điểm ”Trường mầm non” tôi chọn các bài
”Sáng đến trường”; ”Bé múa” của Hoàng Tiến
”Chào hỏi”….
Tôi lựa chọn các bài hát phản ánh hiện thực gần gũi với trẻ như những bài dân ca, đồng dao hoặc các bài hát vui tươi trong sáng phù hợp với trẻ.
VD:
+ Đồng dao ”Xỉa cá mè”; ”Con gà”; ”Làng chim”…
+ Dân ca ” Lý cây khế”; ”Lý cây bông”; ”Lý kéo chài”…
+ Các bài có t/c vui vẻ ”Đèn đỏ đèn xanh”; ”Bong bóng bay”; ”Chú ếch con”…
* Biện pháp 3: Sửa sai cho trẻ
Thông thường khi tiến hành dạy ca hát cho trẻ, giáo viên hay sửa sai cho trẻ theo dự kiến của mình 1 cây máy móc mà chưa nghĩ đến kỹ năng cho trẻ. Vì vậy giáo viên sửa sai khi trẻ đã nắm được khái quát toàn bài nên chú ý sửa khi trẻ hát sai về một số lỗi sau:
+ Sai về tiết tấu, giai điệu
+ Sai về âm điệu luyến láy
+ Sai về lời ca
+ Sai về âm thanh, phong cách thể hiện.
VD: Bài ”Con cào cào”, khi trẻ hát thường sai về tiết tấu bởi bài này có tiết tấu nhanh hơn so với các bài hát.
Nên khi sửa sai cho trẻ tôi vừa hát vừa vỗ tay đệm theo tiết tấu nhanh để trẻ hát theo cho đúng.
VD2: Bài ”Đi học về”
Khi hát trẻ chưa hát luyến được lùi ”Cha mẹ” trong bài tôi đã hát mẫu lại cho trẻ nghe và cho trẻ nghe trên đàn nhiều lần, sau đó cho trẻ hát lại cả câu hát.
VD3: Bài ”Cò và mẹ”
Câu hát ”Cô là mẹ và các cháu là con” thì trẻ hát thành ”Cô và mẹ và các cháu là con”. Tôi đọc lại câu đó cho trẻ nghe 2 – 3 lần sau đó hát lại kết hợp với đàn để cho trẻ hát theo cho đúng.
VD4: Khi cho trẻ hát ”Bông hồng tặng cô” thì tôi trò chuyện với trẻ nội dung bài hát. Từ đó giúp trẻ thể hiện được phong cách khi biểu diễn phải t/c trìu mến vì đó là t/c mà trẻ dành cho cô giáo của mình.
* Biện pháp 4: Kết hợp với phụ huynh
Thường xuyên tôi trao đổi với phụ huynh cho trẻ nghe băng đĩa ở nhà, cha mẹ có trẻ cùng trẻ thể hiện bài hát. Từ đó làm phong phú thêm vốn hiểu biết vì âm nhạc của trẻ, giúp trẻ tự nhiên khi thể hiện ca khúc từ yêu thích.
Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm băng đĩa nhạc hay, những bài hát hay có nội dung phù hợp với trẻ ngoài chương trình để dạy trẻ hoặc ghi âm giọng hát của trẻ vài đĩa và xây dựng thư viện âm nhạc của lớp.
Qua quá trình thực hiện các biện pháp dạy kỹ năng ca hát cho trẻ trên tôi đã đạt được một số kết qủa sau.
- Kết quả đạt được
* Về phía trẻ
– Trẻ hát tự nhiên rõ lời, hát đúng cao độ, trường độ của các tác phẩm.
– Trẻ tự tin thể hiện một tác phẩm và biểu diễn vui tươi, hồn nhiên, nhí nhảnh.
+ Các giờ hoạt động nêu gương cuối tuần, biểu diễn liên hoan văn nghệ của lớp được các cháu thể hiện nhiều bài hát hay, phong phú và đa dạng về nội dung cũng như giai điệu
– Về phía giáo viên
– Nâng cao được nghệ thuật ca hát khi thể hiện HP âm nhạc.
– Sưu tầm và sáng tác được nhiều ca khúc hay đưa vào dạy trẻ.
– Tạo được hưng thú cho trẻ khi hoạt động ca hát
– Có nhiều tiết dạy âm nhạc được xếp tốt
* Về phía phụ huynh
– Phụ huynh có biểu biết về kiến thức âm nhạc.
– Đã kết hợp với giáo viên cùng thực hiện tốt việc nêu kỹ năng ca hát cho trẻ.
– Thường xuyên quan tâm đến chất lượng các tiết mục văn nghệ của lớp.
- Bài học kinh nghiệm:
Qua các biện pháp thực hiện và kết quả đạt được tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm khi tiến hành rèn kỹ năng ca hát cho trẻ như sau:
– Giáo viên phải tìm hiểu kỹ năng tiếp thu âm nhạc của từng trử để có biện pháp rèn luyện cho phù hợp.
– Luôn chú ý đến NT biểu diễn để thu hút trẻ tham gia vào hoạt động ca hát.
– Chú ý sửa sai cho trẻ vè kỹ năng ca hát và giúp trẻ thể hiện đúng phong cách NT.
– Sưu tầm và sáng tác nhiều ca khúc để dạy trẻ.
– Xây dựng thư viện âm nhạc của lớp để có đầy đủ các thể loại nhạc cần thiết, phục vụ cho hoạt động ca hát của cô và trẻ.
– Tạo cho trẻ có thói quen đánh giá tác phẩm âm nhạc khi được thưởng thức để nâng cao kiến thức âm nhạc cho trẻ.
– Khuyến khích trẻ sáng tạo phong cách biểu diễn khi thể hiện các tác phẩm âm nhạc.
– Kết hợp với phụ huynh cùng rèn kỹ năng cho trẻ khuyến…… phụ huynh sưu tầm các tác phẩm âM nhạc để làm màu thêm thư viện âm nhạc cho lớp.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc nghiên cứu áp dụng ”Các biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho trẻ 4 tuổi”. Rất mong nhận được sự đánh giá góp ý của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.