Archive
Các biện pháp giáo dục tài nguyên biển hải đảo
Các biện pháp giáo dục tài nguyên biển hải đảo
Các biện pháp chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ MGL
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta có các vùng biển và thềm lục địa với diện tích khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, có bờ biển dài 3260 km và có hàng nghìn đảo lớn nhỏ, đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm án ngữ trên biển đông. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, biển, đảo có vai trò, vị trí quan trọng, gắn bó mật thiết, ảnh hưởng to lớn và đã có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững của quốc gia.
Vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mọi người dân trong nước đều phải có trách nhiệm tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo phù hợp với điều kiện và môi trường sống.
Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào cấp học mầm non là tạo cơ hội cho trẻ được làm quen, nhận biết về biển, đảo việt Nam. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ thói quen, hành vi bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, hải đảo. Những thói quen đó cần phải bắt đầu hình thành ngay từ lứa tuổi mầm non.
Một trong những nhiệm vụ của ngành Giáo dục mầm non trong năm học 2012-2013 là “Tăng cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi”. Đó vừa là nhiệm vụ giao cho các trường học và cũng là cơ hội để các nhà quản lý giáo dục và giáo viên mầm non phát huy khả năng về chuyên môn nghiệp vụ của mình.
Trong thực tế, đây là năm đầu tiên sở giáo dục đào tạo Hà Nội triển khai đại trà việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Bản thân tôi là người quản lý phụ trách chuyên môm cũng như các đồng chí giáo viên 5 tuổi trong trường tôi còn bỡ ngỡ, chưa hiểu rõ, hiểu sâu về vấn đề này. Mặt khác các đồng chí giáo viên còn cho rằng việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi là quá khó, giáo viên chưa biết cách lựa chọn nội dung lồng ghép sao cho phù với chủ đề, nội dung bài dạy và các hoạt động khác trong ngày của trẻ.
Mặc dù vậy, là một cán bộ quản lý trẻ, khỏe có trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng say mê nhiệt huyết với nghề, tôi đặt quyết tâm phải làm tốt công việc được giao. Tôi nhận thấy, muốn giáo viên hiểu rõ kiến thức về tài nguyên môi trường biển, hải đảo và biết cách lựa chọn nội dung lồng ghép phù hợp. Trước hết bản thân người quản lý phải nắm chắc kiến thức, hướng dẫn chỉ đạo cho giáo viên các bước cụ thể để giáo viên nắm bắt được. Từ đó giáo viên có kế hoạch dạy trẻ phù hợp. Trong thời gian qua, cùng với đồng nghiệp trong trường, tôi đã cố gắng suy nghĩ áp dụng nhiều biện pháp để chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn của trường và thực hiện có hiệu quả kế hoạch năm học đề ra.
Trong bản sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin trình bày “Các biện pháp chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Quỳnh” với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp, đồng thời nhận được những đóng quý báu từ phía các bạn.
* Mục đích của đề tài:
– Bản thân tích lũy được kinh nghiệm trong việc chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Giáo viên có nhiều biện pháp, nghệ thuật lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho học sinh 5 tuổi vào các hoạt động một cách phù hợp có hiệu quả.
– Học sinh có ý thức gữi gìn bảo vệ môi trường biển, hải đảo quê hương đất nước Việt Nam.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
– Chỉ ra các biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi tại trường mầm non Vĩnh Quỳnh.
* Phạm vi áp dụng: Tại trường mầm non xã Vĩnh Quỳnh, năm học 2012 – 2013.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Biển là loại hình thủy vực nước mặn của đại dương thế giới, nằm sát các đại lục và ngăn cách với đại dương ở ngoài bởi hệ thống đảo và bán đảo, phía trong bởi bờ địa lục còn gọi là bờ biển.
Đảo là một vùng đất tự nhiên, có nước bao bọc khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
Quần đảo là một tổng thể các đảo kể cả các bộ phận của đảo, các vùng nước tiếp liền và thành phần tự nhiên khác.
Nước ta có hai quần đảo lớn nhất Việt Nam đó là đảo Hoàng Sa ở Đà Nẵng, là một nhóm có khoảng 30 đảo, bãi san hô và các mỏm đá ngầm. Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa gồm 100 đảo lớn nhỏ và bãi ngầm, các nguồn lợi tự nhiên như: Cá, dầu mỏ, khí đốt và các khoáng sản khác…
Biển, hải đảo Việt Nam rất giàu tài nguyên, khoáng, giàu mỏ, khí tự nhiên: Năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Biển, hải đảo có rất nhiều nguồn lợi tự nhiên từ sinh vật biển như: 11 nghìn loại sinh vật biển, 13 nghìn sinh vật trên đảo, 2 nghìn loại cá, loại yến. Biển, hải đảo là khu du lịch để mọi người vui chơi giải trí, là nơi giao thông đi lại trên biển giúp con người đi lại giữa các vùng, các nước và vận chuyển hàng hóa.
Nhưng hiện nay môi trường biển, đảo nước ta đang phải chịu ảnh hưởng các áp lực từ sự gia tăng dân số, đô thị hoá nhanh, nông nghiệp, khai khoáng, hàng hải, du lịch, năng lượng, thủy sản. Nguyên nhân chính bắt nguông từ đất liền: Rác thải, nước thải nông nghiệp, nước thải công nghiệp, hóa chất, phát triển khai thác cảng. Ô nhiễm từ các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí, ô nhiễm do nhấn chìm các chất nguy hại, nhấn chìm tàu thuyền gây ra, ô nhiễm từ khí quyển.
Chính vì vậy con người cần ngăn ngừa, hạn chế nguồn ô nhiễm môi trường biển và bảo vệ môi trường biển, hải đảo như: Bảo vệ hệ sinh thái ( Rừng ngập mặn, san hô, cửa sông, đất ngập mặn…) bảo vệ tài nguyên sinh vật chống khai thác quá mức. Bảo vệ chất lượng nước biển, môi trường biển chống ô nhiễm, đó được coi là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người dân Việt Nam.
Đối với trẻ mẫu giáo 5 tuổi việc tích hợp nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào trong chương trình giáo dục mầm non là rất quan trọng và cần thiết, giúp trẻ có sự hiểu biết về biển, đảo Việt Nam, thông qua đó giáo dục trẻ ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường biển, hải đảo xanh, sạch, đẹp.
Khi thực hiện tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi cần chú ý đến các nguyên tắc sau:
Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo góp phần giáo dục trẻ tình yêu, lòng tự hào ý thức bảo vệ, gữi gìn biển, đảo quê hương Việt Nam, hướng đến mục tiêu giáo dục mầm non, phát triển nhân cách toàn diện hài hòa ở trẻ.
Nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo về tài nguyên môi trường biển, hải đảo được xây dựng phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu kinh nghiệm của trẻ và được tích hợp trong tất cả các lĩnh vực giáo dục: Giáo dục phát triển thể chất; giáo dục phát triển nhận thức; Giáo dục phát triển ngôn ngữ; giáo dục phát triển thẩm mĩ; giáo dục phát triển tình cảm kĩ năng xã hội theo chủ đề. Có thể tích hợp trong cả một hoạt động, trong một phần của hoạt động hoặc mọi lúc mọi nơi.
Nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo tích hợp vào hoạt động đảm bảo tính mở rộng dần theo hướng đồng tâm phát triển từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của trẻ. Các hoạt động phải gần gũi, không xa lạ, gắn với thực tế địa phương, đảm bảo tự nhiên, nhẹ nhàng. Không gây quá tải nặng nề chương trình giáo dục mầm non.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
- 1. Đặc điểm tình hình
– Trường mầm non Vĩnh Quỳnh được xây dựng trên địa bàn xã Vĩnh Quỳnh- Huyện Thanh Trì – Hà Nội. Trường có 3 khu nằm rải rác ở 3 thôn: Thôn Quỳnh Đô có 12 lớp, Vĩnh Ninh 8 lớp, Ích Vịnh 3 lớp.
– Năm học 2012-2013 trường có 23 nhóm lớp với số học sinh là 1019 cháu, trong đó 200 cháu nhà trẻ, 819 cháu mẫu giáo. Lớp mẫu giáo lớp có 6 lớp với 291 học sinh, 100% trẻ 5 tuổi ăn bán trú tại trường.
– Toàn trường có 97 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Trong đó 11 người trên 45 tuổi, 88 người ở độ tuổi từ 22- 40 tuổi.
Chức danh | Số lượng | Trình độ đào tạo | ||
Trung cấp | Cao đẳng | Đại học | ||
Ban Giám hiệu | 3 | 0 | 0 | 3 |
Giáo viên(Giáo viên dạy lớp 5 tuổi) | 67 | 52 | 3 | 12 |
17 | 5 | 2 | 10 | |
Nhân viên | 26 | 24 | 0 | 2 |
– Thực tế, việc tích hợp nội dung về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi chưa được đưa vào cụ thể trong chương trình giáo dục mầm non. Chỉ được giáo dục ở một số hoạt động trò chuyện bên ngoài mang tính chất kể chuyện cho trẻ nghe, chưa đưa vào chương trình dạy trẻ có hệ thống.
– Giáo viên dạy lớp 5 tuổi chưa có nhận thức, phương pháp và nghệ thuật tổ chức, chưa biết lựa chọn nội dung về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi để dạy trẻ cho phù hợp.
– Bản thân chưa có kinh nghiệm, chưa có sự chỉ đạo sát sao về tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– 100% giáo viên dạy lớp 5 tuổi đều có trình độ chuyên môn vững vàng, năng động yêu nghề mến trẻ, nhận thức tốt về chuyên môn nghiệp vụ trong chương trình giáo dục trẻ.
– Năm học 2012-2013 trường mầm non Vĩnh Quỳnh đã bắt đầu thực hiện tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào một số chủ đề giáo dục trẻ lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi, bước đầu giáo viên đã nắm bắt được kiến thức, có kĩ năng lồng ghép vào dạy trẻ phù hợp có hiệu quả. Trẻ hứng thú tích cực tham gia các hoạt động, đã có ý thức gữi gìn bảo vệ môi trường biển, hải đảo quê hương đất nước Việt Nam.
- Thuận lợi:
– Trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao về chuyên môn của sở giáo dục, phòng Giáo dục huyện Thanh Trì về tập huấn nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Trường tạo điều kiện cho giáo viên 5 tuổi tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi do sở giáo dục, phòng giáo dục và nhà trường tổ chức.
– Trường có nhiều giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, có ý thức thực hiện nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là các giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 tuổi đều có trình trình độ chuyên môn vững vàng có khả năng truyền thụ kiến thức cho trẻ tốt.
– Các lớp 5 tuổi có đầy đủ đồ dùng đồ chơi như: Bộ tranh, ảnh, trang thiết bị hiện đại (Vi tính, ti vi, đầu đĩa, máy ảnh, máy chiếu) phục vụ hoạt động giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non. Vì vậy trẻ có thể được tiếp xúc với các hình ảnh biển, hải đảo qua du lịch màn ảnh nhỏ tại lớp.
– Bản thân tôi là cán bộ quản lý, trẻ, khỏe, năng động, vững vàng về chuyên môn, có năng lực quản lý chỉ đạo. Tâm huyết với việc tích hợp nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
- 3. Khó khăn:
– Trường có nhiều điểm lẻ, không thuận tiện cho việc kiểm tra các hoạt động của các lớp 5 tuổi, nên việc chỉ đạo chỉ đạo giáo viên 5 tuổi thực hiện việc tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ chưa được sâu sát, chỉ đạo không được đồng đều.
– Đây là năm học đầu tiên sở giáo dục đào tạo Hà Nội triển khai đại trà việc tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ. Vì vậy giáo viên chưa có kiến thức, hiểu biết nhiều về vấn đề này.
– Bản thân giáo viên còn bỡ ngỡ chưa biết cách lựa chọn nội dung, cách lồng ghép tích hợp tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ sao cho phù hợp với chủ đề, nội dung bài dạy.
– Đồ dùng dạy học và các đồ dùng hiện đại đã được trang bị đầy đủ như: Ti vi, đầu đĩa, máy tính, đàn, bộ tranh.. hiện nay đã cũ, hỏng cần được nâng cấp thay thế, mua bổ sung loại đồ dùng có chức năng hiện đại để giáo viên sử dụng có hiệu quả hơn trong việc dạy trẻ về nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo.
– Đa số phụ huynh học sinh làm nông nghiệp, ít có thời gian quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Ít trò chuyện mở rộng kiến thức cho trẻ về “Tài
nguyên môi trường biển, hải đảo” do phụ huynh quan niệm rằng: “Trẻ còn nhỏ
chưa cần thiết phải giáo dục về môi trường biển, hải đảo và nội dung đó rất khó đối với trẻ 5 tuổi”.
Căn cứ vào thực trạng và các điều kiện thuận lợi khó khăn trên của nhà trường, tôi luôn trăn trở suy nghĩ và đã tìm ra một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi như sau:
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP
- Lập kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo trong chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi:
Kế hoạch được ví như chìa khóa mở đường đi đến mục đích. Kế hoạch có tầm quan trọng đặc biệt, nó như kim chỉ nam, có tác dụng chỉ đạo chỉ đường cho hoạt động thực hiện theo một con đường đã định sẵn. Nó như ngọn đèn pha dẫn lối cho chúng ta thực hiện công việc một cách khoa học. Vì vậy, nếu xây dựng được kế hoạch coi như ta đã thành công được một nửa công việc.
Nhìn vào tình hình thực trạng của nhà trường, cũng như những vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường biển, hải đảo của ở Việt Nam. Tôi đã nhận định được những điểm mạnh và những điều còn hạn chế, trong vấn đề giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi trong trường mình. Do vậy ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên dạy lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi thực hiện công tác giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ như sau:
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN NỘI DUNG GIÁO DỤC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BIỂN, HẢI ĐẢO VÀO CHƯƠNG TRÌNH MẪU GIÁO 5 TUỔI
Năm học 2012-2013
Thời gian thực hiện | Nội dung thực hiện | Người |
thực hiệnTháng
9,10/2012– Tham gia lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi do sở giáo dục tổ chức.
– Xây dựng bài giảng, tập huấn bồi dưỡng cho giáo viên 5 tuổi trong trường về kiến thức nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Xây dựng, lựa chọn các nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ vào các chủ đề trong chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi.
– Chỉ đạo giáo viên xây dựng góc tuyên truyền của nhà trường, của lớp đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường biển, hải đảo cho phụ huynh, học sinh và cộng đồng hiểu rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn bảo vệ môi trường biển, hải đảo quê hương.
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi- Hiệu phó chuyên môn
– Hiệu phó chuyên môn
– Hiệu phó chuyên môn.
– Tổ trưởng chuyên môn khối 5 tuổi
– Giáo viên 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
Tháng
11,12/2012– Chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: “Gia đình”, “Nghề nghiệp”.
– Xây dựng các tiết dạy mẫu có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo cho giáo viên học tập:
+ Chủ đề gia đình:
Khám phá xã hội “Nhận biết về những người thân trong gia đình làm nghề bội đội hải quân”.
Âm nhạc: Dạy hát “ Ba em là bội đội hải quân”. Nghe hát “Thân thương trường xa”
+ Chủ đề nghề nghiệp:
Khám phá khoa học; Nghề bội đội hải quân, nghề nuôi hải sản, nghề chế biến hải sản, nghề làm muối.
Tạo hình: Vẽ quà tặng chú bộ đội.
– Tổ chức hội thi giáo viên giỏi cấp trường.
– Tổ chức kiến tập các tiết dự thi giáo viên dạy giỏi cấp trường có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo đạt kết quả cao cho giáo viên học tập.
– Kiểm tra góp ý, nhận xét đánh giá các lớp thực hiện tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ.- Hiệu phó chuyên môn, giáo viên 5 tuổi
– Lớp MGL5 tuổi ( A1)
– Lớp MGL 5 tuổi ( A2)
– Các lớp MGL 5 tuổi
( A3, A4, A5, A6)
– Ban thi đua.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
Tháng
1, 2/2013
– Tiếp tục chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: Thế giới động vật, thực vật
+ Một số động vật sống ở biển ( Cá, tôm, cua, rong, tảo biển)
+ Ích lợi của động, thực vật ở biển: Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng: cá thu, tôm, cua…
+ Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh: Rong, tảo…
+ Ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường biển, đảo.
– Tổ chức họp chuyên môn xây dựng các hoạt trong ngày như: Hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều có tích hợp nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi.
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi
– Chỉ đạo giáo viên, học sinh lớp mẫu giáo 5 tuổi tập luyện tiết mục văn nghệ ca ngợi về biển đảo quê hương Việt Nam, tham gia dự thi hội diễn “Mừng đảng, mừng xuân ngành giáo dục huyện thanh trì” năm 2013.- Hiệu phó chuyên môn.
giáo viên 5 tuổi.
– Giáo viên, học sinh lớp 5 tuổi.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên, học sinh 5 tuổi. Tháng
3,4/2013
– Chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: Giao thông, nước và các hiện tượng tự nhiên.
+ Chủ đề “Giao thông”: Khám phá một số phương tiện giao thông trên biển: Tàu, thuyền, ca nô…Ích lợi của giao thông biển. Ý thức của trẻ khi tham gia giao thông.
+ Chủ đề “ Nước và các hiện tượng tự nhiên”: Một số hiện tượng tự nhiên: Cát nước biển, sóng biển, bão biển. Ý thức hành vi giữ gìn bãi biển, nước biển, trong lành.
– Phát động hội giảng “ Mừng đảng mừng xuân” tổ chức cho giáo viên tham gia dự thi các hoạt động trong ngày.
– Tổ chức kiến tập các hoạt động có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo đạt kết quả cao cho giáo viên 5 tuổi học tập:
+ Khám phá khoa hoc: Một số phương tiện giao thông trên biển.
+ Âm nhac: Dạy hát “ Em đi chơi thuyền” Nghe hát
“ Thuyền và biển”.
+ Hoạt động góc: Làm bộ sưu tập ( cắt dán) giao thông trên biển
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi
– Tổ chức cho học sinh 5 tuổi đi thăm quan ngoại khóa tại viện bảo tàng quân đội phòng không không quân tại Hà Nội.
– Hiệu phó chuyên môn
– Giáo viên 5 tuổi.
– Giáo viên và học sinh 5 tuổi.
– Hiệu phó chuyên môn.
+ Lớp MGL 5 tuổi ( A3)
+ Lớp MGL 5 tuổi ( A2)
+ Lớp MGL 5 tuổi ( A6)
– Ban giám hiệu.
– Giáo viên, học sinh các lớp MGL 5 tuổiTháng
5/2013
– Chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: Quê hương, đất nước.
+ Nhận biết về biển, đảo Việt Nam: Tên gọi, vị trí địa lí và một và đặc điểm nổi bật của một số vùng biển ( Khu du lịch biển) nổi tiếng ở Việt Nam.
+ Ích lợi của biển, hải đảo:
Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng cho con người: Cá thu, tôm cua.
Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh cho con người: Rong, tảo.
+ Khu du lịch nổi tiếng để tham quan nghỉ ngơi, tắm mát.
+ Phát triển các nghề.
+ Giao thông trên biển.
+ Cung cấp nguồn năng lượng sạch.
+ Cung cấp các mỏ dầu.
+ Nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường biển, hải đảo
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi
– Chỉ đạo giáo viên 5 tuổi tập luyện cho trẻ bài đồng diễn thể dục với chủ đề “ Bé yêu biển” tham dự thi “ Hội khỏe măng non” tại trung tâm thể thao huyện Thanh Trì. Tham dự ngày hội thể thao do ủy ban nhân xã tổ chức.
– Hiệu phó chuyên môn
– Giáo viên, học sinh 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên, học sinh các lớp 5 tuổi
- Bồi dưỡng kiến thức tích hợp về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho đội ngũ giáo viên 5 tuổi trong trường.
Bồi dưỡng những kiến thức, kỹ năng lồng ghép tích hợp về nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho cho đội ngũ giáo viên 5 tuổi. Đây là kế hoạch nhiệm vụ năm học 2012-2013 đề ra thực hiện, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt nam ngày càng giàu đẹp và phát triển bền vững.
Việc bồi dưỡng cho giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi có tầm quan trọng đặc biệt. Bởi vì, giáo viên là lực lượng trực tiếp thực hiện mọi hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non. Hơn ai hết giáo viên phải là người nắm vững những kiến thức, kỹ năng cơ bản về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi, để truyền thụ kiến thức đến cho trẻ.
Bản thân tôi là phó hiệu trưởng, phụ trách chuyên môn của nhà trường. Tôi đã thực hiện áp dụng bồi dưỡng các biện pháp cho giáo viên 5 tuổi kiến thức về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho giáo viên trong trường ngay từ đầu năm học như sau:
* Nội dung bồi dưỡng:
– Giúp giáo viên hiểu biết về tài nguyên môi trường biển, hải đảo ở Việt Nam. Giáo dục ý thức về tài nguyên môi trường biển, hảo đảo cho giáo viên.
– Lựa chọn các nội dung phù hợp về giáo dục biển, hải đảo vào một số chủ đề và các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Với cương vị là hiệu phó phụ trách chuyên môn trong trường, nhiệm vụ phải chỉ đạo hướng dẫn giáo viên hiểu rõ vấn đề về lồng ghép nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi một cách phù hợp, có hiệu quả. Tôi đã nghiên cứu xây dựng nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo dạy trẻ 5 tuổi vào một số chủ đề theo hướng tích hợp như sau:
Các chủ đề | Nội dung | Hoạt động |
1. Gia đình
* Nhận biết về người thân trong gia đình ( Bố, mẹ, cô, chú, bác…trong họ) Làm nghề bộ đội hải quân.
* Biết yêu thương, quí mến, tôn trọng người thân trong gia đình.
– Khám phá xã hội: Trò chuyện về công việc người thân trong gia đình làm nghề bộ đội hải quân.
– Hát, vận động“ Ba em là bộ đội hải quân”. Nghe hát “ Thân thương trường xa”
2. Nghề nghiệp
3. Thế giới động vật, thực vật.
4. Giao thông
* Nhận biết tên gọi, dụng cụ, sản phẩm và ý nghĩa một số nghề:
– Nghề bộ đội hải quân
– Khám phá khoa học:
+ Trò chuyện về: Chú bộ đội hải quân.
+ Đọc thơ: Chú bộ đội hành quân trong mưa, Chú giải phóng quân.
– Âm nhạc:
+ Âm nhạc dạy hát“ Cháu thương chú bội đội. Nghe hát “ Màu áo chú bội đội’
– Tạo Hình: Vẽ quà tặng chú bộ đội
– Nghề nuôi hải sản
– Nghề đánh bắt hải sản,
– Khám phá khoa học:
+ Trò chuyện về nghề nuôi tôm,
cua, cá.
+ Nghề đánh bắt hải sản.
– Nghề chế biến hải sản thành nước mắm và tôm cá đông lạnh.
– Khám phá khoa hoc:
+ Trò chuyện về nghề chế biến hải sản thành nước mắm và tôm cá đông lạnh
+ Trò chơi chọn hình ảnh đúng sai
( Hành động bảo vệ môi trường biển)
– Nghề làm muối
*Một số nguyên nhân gây ô nhiễm biển, hải đảo
– Do con người khai thác cạn kiệt tài nguyên biển: Đánh bắt cá tùy tiện, khai thác các loại tảo, rong biển quá mức….
– Do rác thải từ hoạt động của nghề đánh, bắt cá, nuôi tôm, chế biến hải hải thành nước
mắm, không được xử lí đổ thẳng ra biển.
* Quan tâm đến bảo vệ môi trường biển, hải đảo như:
– Nhận xét và tỏ thái độ hành vi
“ Đúng”, “Sai”, “ Tốt”,
“ Xấu”
* Một số động vật, thực vật sống ở biển
( Cá, tôm, cua, rong, tảo).
* Lợi ích của động vật, thực vật ở biển:
– Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng: Cá thu, tôm, cua…
– Cung cấp nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh: Rong, tảo…
* Ý thức giữ gìn môi trường biển, đảo.
* Nhận biết một số phương tiện giao thông trên biển: Tàu thủy, ca nô, thuyền, xuồng…
* Ích lợi của giao thông trên biển: Đường giao thông trên biển, giúp mội người đi lại giữa các vùng, các nước và vận chuyển hàng hóa…
* Ý thức của trẻ khi tham gia giao thông trên biển.
– Khám phá khoa học:
+ Trò chuyện về nghề làm muối
+ Trò chơi: Xếp tranh qui trình của ngề làm muối.
– Cho trẻ xem hình ảnh về một số nguyên nhân môi trường biển.
+ Trò chuyện gợi ý cho trẻ nêu nhận xét về các hành vi đúng, sai.
+ Tổ chức chơi trò chơi: Thi xem đội nào nhanh “ Chọn hành vi đúng”, hành vi gây ô nhiễm môi trường biển, hải đảo.
– Khám phá khoa học
+ Du lịch dưới lòng đại dương.
– Văn học:
+ Đọc thơ: Rong và cá
+ Kể chuyện: Loài cá thông minh
– Âm nhạc:
+ Hát vận động bài: “ Cá ơi”,
“ Tôm cua cá thi tài”,
– Tạo hình: Vẽ, xé dán, nặn các con vật sống dưới nước.
– Trò chơi “ Ai nhanh nhất” chọn hình ảnh động vật, thực vật có từ biển.
– Làm đồ chơi từ vỏ ốc, vỏ sò biển.
– Ghép hình con vật ở biển bé thích bằng lá cây.
– Tạo thảm có, vườn hoa trên bờ biển.
– Khám phá khoa học
+ Trò chuyện về phương tiện giao thông đường thủy.
– Âm nhạc: Hát “ Em đi chơi thuyền”, “ Bạn ơi có biết”
– Văn học:
+ Kể chuyện: Một chuyến tham quan
+ Đọc thơ: Cô dạy con
– LQVT: Đếm các loại phương tiện giao thông trên biển.
– Tạo hình:
+ Vẽ, cắt dán, tranh ảnh về giao thông trể biển, đảo.
+ Làm bộ sưu tập ( cắt, dán) Phương tiện giao thông trên biển.
+ Tạo hình thuyền bằng cách gấp, các nguyên liệu từ lá cây, bẹ chuối…
– Trò chơi: Chọn hành vi đúng, sai khi tham gia giao thông trên biển
5. Nước và các hiện tượng tự nhiên
* Nhận biết một số hiện tượng tự nhiên như: cát, nước, sóng biển, bão biển.
* Ý thức hành vi gữi gìn bãi biển, nước biển sạch, trong lành- Khám phá khoa học.
+ Trò chuyện về nước biển, cát, sóng biển.
– Văn học;
+ Nghe kể chuyện: Mùa hè thú Vị, vì sao nước biển lại mặn, sự tích sóng biển.
+ Đọc thơ: Mùa hè vui, sóng biển.
– Tạo hình:
+ Vẽ, xé dán bức tranh về biển.
+ Làm bộ sưu tập( Cắt dán tranh ảnh về biển đảo)
– Trò chơi: “Tai ai tinh” phân biệt âm thanh tự nhiên: Mưa, gió, sóng biển.
– Trò chơi tạo sóng biển bằng tay6. Quê hương, đất nước* Nhận biết về biển, đảo Việt Nam.
– Tên gọi, vị trí địa lí và một và đặc điểm nổi bật của một số vùng biển( Khu du lịch biển) nổi tiếng ở Việt Nam.
* Ích lợi của biển, hải đảo.
– Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng cho con người: Cá thu, tôm cua.
– Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh cho con người: Rong, tảo.
– Khu du lịch nổi tiếng để tham quan nghỉ ngơi, tắm mát.
– Phát triển các nghề.
– Giao thông trên biển.
– Cung cấp nguồn năng lượng sạch.
– cung cấp các mỏ dầu.
* Nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường biển, hải đảo
– Do rác thải: Rác thải của mọi người khi đi du lịch xả xuống biển, do rác thải khu công nghiệp, rác thải sinh hoạt của người dân không được xử lý đổ thẳng ra biển.
– Do tràn dầu: tàu bè đi lại trên biển làm tràn dầu, đắm tàu do bão, lốc.
– Do chặt phá cây: Con người chặt phá cây ven biển.
– Do khai thác cạn kiệt tài nguyên biển: Đánh bắt cá tùy tiện, khai thác các loài rong, tảo biển quá mức.
* Tham gia bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, hải đảo
– Không vứt rác thải xuống biển, đảo trong khi đi du lịch cũng như trong sinh hoạt hằng ngày.
– không bẻ cành, phá cây trồng ven biển.
– Tham gia thu gom rác thải.
– Khám phá khoa học:
+ Nhận biết biển, đảo Việt Nam.
+ Du lịch biển Việt Nam
+ Trò chuyện về môi trường biển bị ô nhiễm.
+ Xem phim tài liệu ( Tranh, ảnh, mô hình) về biển đảo Việt Nam.
+ Xem hình ảnh các hoạt động bảo vệ môi trường biển, đảo.
– Âm nhạc:
+ Hát, múa “ Bé yêu biển”, nghe hát “Biển hát chiều nay”, “ Đảo chân mây”…
– Văn học:
+ Đọc thơ: Quê em
+ Kể chuyện: Bé và cái vỏ bao ny lon.
– Tạo hình;
+ Tô màu, cắt dán làm sách tranh du lịch quê em.
+ Tổ chức chơi trò chơi: Thi xem đội nào nhanh “ Chọn hành vi đúng”, hành vi gây ô nhiễm môi trường biển, hải đảo.
* Hình thức bồi dưỡng:
– Tôi tham mưu với hiệu trưởng nhà trường mua các cuốn tài liệu có liên quan đến việc hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Trang bị cho 100% giáo viên dạy các lớp 5 tuổi tự nghiên cứu và học tập. Bồi dưỡng cho giáo viên cách truy cập hình ảnh mạng internet.
– Tạo điều kiện cho các đồng chí giáo viên 5 tuổi được tham gia đầy đủ đúng thành phần các lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài
nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi, do sở giáo dục Hà Nội và phòng giáo dục và nhà trường tổ chức.
– Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn tọa đàm về các nội dung hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi vào các hoạt động trong ngày. Đưa ra các ví dụ cụ thể để giáo viên nghiên cứu, suy nghĩ, trao đổi và rút kinh nghiệm.
– Xây dựng các giờ dạy mẫu có lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ vào tiết học phù hợp. Tổ chức kiến tập cho giáo viên học tập
* Kết quả đạt được:
– Nhà trường đã mua và phô tô nhiều tài liệu liên quan đến nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi để giáo viên, nhân viên nghiên cứu và học tập, 100% giáo viên biết cách truy cập tài liệu hình ảnh trên mạng ….
– Ban giám hiệu đã tạo điều kiện cho 100% giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 tuổi tham gia lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi do huyện Thanh Trì tổ chức ngày 13/10/2011. Nhà trường tổ chức ngày 20/10/2012 buổi tập huấn đạt kết quả tốt.
– Đã tổ chức được 8 buổi tọa đàm về các nội dung hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi vào các hoạt động trong ngày.
– Tổ chức được 15 tiết dạy và hoạt động có lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho 100% giáo viên 5 tuổi trong trường học tập và rút kinh nghiệm.
– 100% giáo viên hưởng ứng tham gia học tập tích cực và rút ra được nhiều kinh nghiệm giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Bắt đầu giáo viên đã biết cách xây dựng lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ 5 tuổi.
– 100% giáo viên đã nhận thức được cần phải giáo dục lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– 100% giáo viên đã nắm được kiến thức, kỹ năng tổ chức các hoạt động lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho
trẻ mẫu giáo 5 tuổi một cách phù hợp nhẹ nhàng có nghệ thuật, không gò bó áp đặt trẻ.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 1 )
- Bổ sung đồ dùng dạy học, phát động phong trào thi đua làm đồ dùng sáng tạo phục vụ cho việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
Đồ dùng dạy học đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết cho giáo viên thực hiện các hoạt động có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống. Nhằm giúp trẻ hình thành phát triển tư duy, ngôn ngữ, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới
xung quanh ở trẻ. Đồ dùng đưa vào dạy trẻ phải phù hợp về nội dung, đảm bảo tính thẩm mỹ cao, áp dụng có hiệu quả trong các hoạt động. Thực tế đồ dùng dạy học của các lớp mẫu giáo 5 tuổi trong nhà trường đã được đầu tư từ những năm học trước như: Ti vi, đầu đĩa, máy tính có nối mạng intenet, tranh ảnh…qua nhiều năm sử dụng nay đã cũ, hỏng chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành. Vì vậy, việc bổ sung đồ dùng dạy học và phát động phong trào thi đua làm đồ dùng dạy học sáng tạo là việc làm cần thiết, giúp giáo viên thực hiện các hoạt động giáo dục tài nguyên môi truờng biển, hải đảo cho trẻ một cách thuận tiện, dễ dàng đạt hiệu quả. Tôi đã thực hiện như sau:
* Mục đích:
– Bổ sung thêm những đồ dùng dạy học cần thiết như: Bộ tranh ảnh, lô tô, mô hình về biển, đảo Việt Nam.
– Bổ sung thêm trang thiết bị hiện đại còn thiếu và thay thế đồ dùng đã cũ, hỏng như: Ti vi màn hình phẳng, loa vi tính, nâng cấp mạng intenet, máy ảnh.
– Phát động giáo viên làm đồ dùng dạy học sáng tạo như: Thiết kế bài giảng điện tử, Làm các mô hình biển, đảo. Các loài động vật sống ở biển bằng các nguyên vật liệu sẵn có như; Xốp, ni lon, vỏ trai, vỏ hộp nhựa, bọt biển…
* Cách làm:
Ngay từ đầu năm học khi triển khai thực hiện tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi. Căn cứ vào tình hình thực tế của trường và chương trình lồng ghép nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo dạy trẻ 5 tuổi. Tôi đã đề xuất với đồng chí hiệu trưởng nhà trường trích nguồn kinh phí mua sắm những đồ dùng cần thiết cho các lớp mẫu giáo 5 tuổi như: Bộ tranh, mô hình, lô tô dạy trẻ về giáo dục biển, đảo. Màu nước, giấy màu, băng dính, bìa, súng bắn keo, giấyA0, kéo, hồ dán… để giáo viên làm đồ dùng dạy học.
Làm công tác xã hội hóa với phụ huynh học sinh, mua bổ sung đồ dùng hiện đại như: Mua 6 ti vi màn hình phẳng có chức năng kết nối vi tính, thay thế cho ti vi cũ. 6 đôi loa vi tính cho các lớp, bổ sung 3 đàn, 2 máy ảnh cho khu Quỳnh Đô và Ích Vịnh.
Phát động giáo viên thi đua làm đồ dùng dạy học sáng tạo phục vụ cho việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ 5 tuổi như: Tôi đã tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn khối 5 tuổi, đưa ra ý tưởng về thiết kế bài giảng điện tử theo các môn học của từng chủ đề là rất thiết thực, vì các nội dung dạy trẻ biển, đảo rất cần phải cho trẻ xem hình ảnh thực tế thì trẻ mới lĩnh hội được các kiến thức giáo viên truyền tải đến cho trẻ. Tôi cho giáo viên thảo luận và lựa chọn ra từng bài dạy trong các chủ đề, cần phải thiết kế bài giảng dạy trẻ. Sau đó cho các đồng chí giáo viên lựa chọn, mỗi đồng chí phụ trách một môn học để thiết kế bài giảng áp dụng dạy trẻ như: Đồng chí Hiếu (lớp A1) thiết kế hoạt động khám phá, đồng chí Hạnh (lớp A3) thiết kế bài giảng môn làm quen với toán, đồng chí Chinh (lớp A2) thiết kế bài giảng môn âm nhạc, đồng chí Thảo( lớp A4), thiết kế bài giảng môn văn học, đồng chí Loạt
( lớp A5) thiết kế bài giảng môn chữ cái. Sau khi thiết kế xong tôi cùng các đồng chí giáo viên tập hợp nhận xét góp ý sửa lại cho phù hợp rồi đi in thành một bộ bài giảng điện tử cho cả khối áp dụng thực hiện.
Bên cạnh đó tôi chỉ đạo giáo viên các lớp tăng cường làm đồ dùng sáng tạo phục vụ cho các hoạt động như: Sưu tầm các nguyên vật liệu sẵn có, vận động phụ huynh ủng hộ các phế liệu vỏ hộp, vỏ trai, vỏ sò, mút xốp…để làm mô hình biển, đảo và các loại động vật sống ở biển, để áp dụng vào dạy trẻ.
* Kết quả:
– Nhà trường đã mua cho các lớp đầy đủ các đồ dùng cần thiết như: Mỗi lớp 1 bộ tranh giáo dục về biển, đảo dạy trẻ, các vật liệu màu nước, kéo, hồ, băng dính, bìa, giấy màu chia đều cho các lớp. Mua mới 3 cái đàn Yamaha cho 3 khu.
– Phụ huynh đã ủng hộ mua 6 ti vi màn hình phẳng hãng Sony, 6 đôi loa vi tính trị giá 57.000.000 đồng.
– Giáo viên đã thiết kế được bộ bài giảng điện tử gồm 46 bài có nội dung giáo dục biển, hải đảo dạy trẻ theo các chủ đề.
– Giáo viên đã sáng tạo được 5 mô hình có nội dung giáo dục về biển, hải đảo và rất nhiều các loài động vật sống ở biển bằng các vỏ trai, lọ, xốp, vỏ sò… ứng dụng dạy trẻ trong các hoạt động.
– Phụ huynh rất tích cực ủng hộ đồ dùng phế liệu ch0o giáo viên làm đò dùng sáng tạo.
– 100% giáo viên dạy lớp 5 tuổi có thêm kĩ năng thiết kế bài giảng điện tử, say sưa làm đồ dùng dạy học.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 2 )
- Chỉ đạo giáo viên sưu tầm, sáng tác các bài hát, bài thơ, bài vè, câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
* Mục đích:
– Lựa chọn các bài hát, bài thơ, câu truyện có nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo đưa vào các chủ đề dạy trẻ phù hợp.
– Phát huy tính tích cực, sáng tạo của giáo viên.
* Cách làm:
– Phát động phong trào thi đua, khích lệ giáo viên giáo viên sưu tầm, sáng tác các bài hát, bài thơ, vè, câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ phù hợp với lứa tuổi.
– Các bài hát bài thơ, bài hát, câu truyện giáo viên sáng tác được đưa ra các buổi sinh hoạt chuyên môn cùng thảo luận, đánh giá nhận xét.
– Tôi cùng giáo viên lựa chọn các bài hát, bài thơ, câu truyện giáo viên đã sưu tầm, sáng tác, sắp xếp đưa vào từng chủ đề và các hoạt động dạy trẻ ở chủ đề đó sao cho phù hợp có hiệu quả.
* Kết quả đạt được:
– Giáo viên đã sưu tầm được 10 bài thơ, 13 bài hát, 5 câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ 5 tuổi.
VD: Một bài thơ, bài hát, câu truyện giáo viên đã sưu tầm
Bài thơ: “Nghề của bố” |
Chủ đề “ Nghề nghiệp”
Hôm bố về nhà
Cõng bé trên vai
Bố nhún, bố nhẩy
Bố bảo như là
Tàu bố ngoài khơi
Bé ngồi trên vai
Lắc lư, lắc lư
Cứ như ngồi tàu
Lướt trên biển vậy
Mẹ thương bảo bố
Lính hải quân mà
Đã về đến nhà
Còn ham làm sóng
( Trần Anh)
Bài thơ: Quê em
Chủ đề: “Quê hương, đất nước”
Quê em bên bãi biển
Phong cảnh đẹp vô cùng
Nước biển xanh mênh mông
Sóng xô tràn bãi cát.
Sớm ngày vang tiếng hát
Từng đoàn thuyền ra khơi
Chiều ngả bóng mặt trời
Thuyền về đầy ắp cá
Quên em giàu đẹp quá
Em tha thiết yêu quê.
( Sưu tầm)Bài thơ: Chú hải quân
Chủ đề “ Nghề nghiệp”
Đứng canh ngày, canh đêm
Ngoài xa vời hải đảo
Kìa bóng chú hải quân
Dưới trời xanh trứng sáo.
Mặc nắng, mưa, gió bão
Cây súng chú chắc tay
Quân thù mà ló mặt
Biển lướn sẽ vui thay
Em mong ngày khôn lớn
Sẽ vượt sóng ra khơi
Cũng cầm chắc tay súng
Giữ lấy biển lấy trời.
( Sưu tầm)
Bài thơ: Đảo xa
Chủ đề: “Quê hương, đất nước”
Đảo như con tàu
Leo lên mặt nước
Sóng lớn sóng to
Không làm đắm được
Cũng rừng cây bãi cát
Cũng giếng nước của nhà
Đảo như làng của bé
Từ đất liền trôi ra.
( Vũ Duy Thông)
Truyện: “Vì sao nước biển lại mặn”
Chủ đề : Nước và các hiện tượng tự nhiên
Truyện xưa kể rằng có một anh chàng tên là Y- a – Nich rất tốt bụng hay giúp đỡ mọi người, trong một lần giúp đỡ nhà vua, anh được đức vua tặng cho chiếc cối xay nhỏ. Các bạn biết không, đây là chiếc cối xay thần, khi bỏ bất cứ thứ gì vào cối, nó cứ xay mãi chỉ đến khi nào nó nghe được câu thần chú ” Ba ra la ta ta ” thì mới dừng lại.Y – A- Nich tốt bụng rất hay cho bạn bè mượn đồ dùng của mình , Y-a-Nich cho người bạn của mình là thuyền trưởng một con tàu lớn mượn cái cối xay và nói cho bạn biết sự mầu nhiệm của nó. Trong một lần đi biển , do gặp bão trên thuyền hết thức ăn dự trữ, chỉ còn vài hạt muối còn sót lại trong lọ, ông sực nhớ đến cái cối xay nhỏ, thế là ông ta bỏ các hạt muối còn lại vào và ra lệnh : ” Cối xay nhỏ! Ta cần xay muối và xay nhanh lên ” .
Thế là cái cối xay nhỏ cứ xay, xay ra muối trắng rất mịn, và cứ xay hoài chẳng bao lâu muối chất đóng trên tàu, ông ta hoãng hốt kêu to : ” đủ rồi! ” , nhưng vô hiệu . Cuối cùng ông ta nảy ra ý kiến : Là ném chiếc cối xay nhỏ xuống biển để cứu chiếc thuyền của mình.Từ đấy, cái cối xay nhỏ vẫn tiếp tục xay ra muối mặn cho cả biển.
(Sưu tầm)
– Tôi và giáo viên đã sáng tác được tác được 15 bài thơ, 8 bài vè, đặt lời 7 bài hát, 5 câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ 5 tuổi.
VD: Một số bài thơ, bài vè, bài hát, câu truyện tôi và giáo viên đã sáng tác:
Bài thơ: Cho con |
Chủ đề “ Gia đình”
Ba là bộ đội hải quân
Ngày đêm canh giữ, biển trời xa xôi
Mẹ là cô giáo quê tôi
Chăm lo việc lớp, đảm đang việc nhà
Còn Nam sớm tối chiều tà
Giúp mẹ được việc, đuổi gà quét sân
Lại còn việc học tự thân
Thi đua học giỏi, cháu ngoan Bác Hồ
Ba ơi ba cứ yên lòng
Đánh giặc giữ nước, giữ đảo trờimây
Có con đứng cạnh mẹ đây
Luôn ở bên mẹ, động viên sớm chiều
Giờ đây bé nhớ một điều
Ba mẹ giành cả cuộc đời cho con.
Sáng tác: Nguyễn Thu Hà
Bài thơ: Sóng biển
Chủ đề “Nước mùa hè”
Ôi rì rào rì rào
Từng đợt sóng cao trào
Dâng lên như ngọn núi
Rồi vỡ tung xòe hoa
Tan ra thành từng mảnh
Bỗng chỉ trong chớp nhoáng
Sóng đứng lặng như tờ
Chờ khi con thuyền đến
Cất tiếng nhạc du dương
Sáng tác: Nguyễn Thị Tâm
Bài vè : Chú bội đội |
Chủ đề: Nghề nghiệp
Ve vẻ vè ve
Bài vè ca ngợi
các chú bội đội
lặn lội đảo xa
Biển cả là nhà
Đảo xa là bạn
Muôn vạn trùng khơi
Chú bội đội ơi
Giành lấy bầu trời
Để cháu vui chơi
Khi ở ngoài khơi
Giữ gìn sức khỏe
Chú cứ vui vẻ
Gữi đảo Trường Sa
Bảo vệ tổ quốc
Ve vẻ vè ve
Bài vè đã hết
Sáng tác : Nguyễn Thị Dung
Bài thơ: Mùa hè vui
Chủ đề “ Nước mùa hè”
Mùa hè thích lắm bạn ơi
Được đi tắm biển, ngồi chơi thuyền bè
Điệu nhạc sóng vỗ vui ghê
Lăn tăn gợn sóng, như biển bạc sao
Lại còn người thấp người cao
Nhảy theo đợt sóng,tung cao hơn người
Mặt trời xế lặn biển khơi
Từng hàng ghế sắp,mọi người ngồichơi
Buổi sáng thì thật là vui
Tàu thuyền, tấp nập ngược xuôi kéo về
Thuyền thì đầy cá đầy tôm
Họp chợ tấp nập, mời chào đông vui
Bên kia có đám vui cười
Đuổi theo quả bóng, tiếng cười vang xa
Ơ kìa con bướm bay qua
Thì ra các bé, đang chơi thả diều
Tắm biển sảng khoái sớm chiều
Tạm biển biển nhé, hẹn hè năm sau.
Sáng tác: Nguyễn Thu Hà
Câu truyện: Mùa hè thú vị
Chủ đề: Nước và mùa hè
Ba Minh đóng quân ở đảo Trường Sa, đã gần một năm chưa lần nào được về thăm nhà, Minh nhớ Ba lắm, Minh Nói “Ước gì dịp hè này mình sẽ được gặp Ba” vừa nói xong ở trong nhà có tiếng điện thoại kêu “Reng reng…” Minh chạy ngay vào nhà nghe điện thoại. Bỗng một tiếng hét to của Minh vang lên A! Ba mình được về nghỉ phép rồi. Minh chạy một mạch ra vườn khoe với mẹ, hai mẹ con ríu rít vui mừng. Đêm hôm đó Minh thấp thỏm không sao ngủ được, mong sao đến sáng để được gặp Ba.
Sáng sớm tinh mơ khi Minh vừa tỉnh gấc, vừa nghe tiếng kêu ket két ngoài cổng Minh chạy ra ngó nhìn xem sao. Thoáng nhìn thấy Ba Minh cất tiếng chào thật to “ Con chào Ba ạ !” Minh mở cổng rồi ôm chầm lấy Ba và nói với Ba rằng:
“ Ba ơi ở nơi đảo xa, Ba có nhớ nhà không? Ba này, ở lớp con các bạn được Ba, Mẹ cho đi tắm biển thích lắm, Ba có đi tắm biển không? Ba cho con đi với nhé”
Ba tươi cười nói: “ Thế ở nhà với mẹ con có ngoan không? Có học giỏi không?”
Minh đáp: có ạ!
Thế thì ba vui lắm! hè này Ba sẽ cho cả nhà đi tắm biển sầm sơn. Hai Ba con ríu rít ngồi bên nhau kể chuyện. Sáng sớm hôm sau, chuyến đi du lịch sầm sơn của gia đình Minh bắt đầu khởi hành trên chuyến xe khách. Minh được Ba, mẹ ôm ấp vỗ về, Minh vui sướng vô cùng. Xuống đến bãi biển cả nhà Minh cùng chụp ảnh lưu niệm và đi tắm biển, Minh được Ba, Mẹ cho ngồi trên chiếc phao cá heo, Ba gữi phao cho Minh chơi, những con sóng nhỏ rập rềnh du dương chiếc phao, rồi những con sóng lớn ào ạt nối đuôi nhau kéo đến tung bọt trắng xóa trùm qua đầu làm cho Minh rất vui sướng cười tít mắt. Lúc nghỉ ngơi dạo trên bờ biển, Minh nhìn thấy rất nhiều người ăn quà bánh vứt ngay vỏ bánh, túi nilon xuống bãi biển. Minh nói với ba rằng: “ Ba ơi tất cả mọi người phải giữ cho biển luôn sạch đẹp, không vứt rác bừa bãi, phải vứt rác đúng nơi qui định, cô giáo con dạy thế Ba ạ ! Ba mỉm cười xoa đầu Mình và nói “ Con của Ba giỏi lắm”.
- Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động trong ngày của trẻ.
Các hoạt động giáo dục trẻ diễn ra trong một ngày tại trường mầm non được bắt đầu từ khi đón trẻ đến khi trả trẻ về với bố mẹ. Trong từng thời điểm diễn ra các hoạt động, giáo viên có thể lồng ghép các hoạt động có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo một cách hợp lý, tự nhiên, giúp trẻ hình thành thái độ, thói quen và kĩ năng sống tích cực.
Để giúp giáo viên biết cách lựa chọn các nội dung lồng nghép vào các thời điểm trong ngày phù hợp, tôi đã nghiên cứu xây dựng gợi ý lồng ghép các hoạt động có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động trong chủ đề “ Quê hương, đất nước” với chủ đề nhánh: “ Đất nước Việt Nam mến yêu” để giáo viên học tập như sau:
Hoạt động trong ngày | Hoạt động tích hợp |
Hoạt động trong thời gian đón, trả trẻ.– Cô trò chuyện cho trẻ xem tranh, ảnh, video clip hình ảnh về biển, đảo Việt Nam.
– Cho trẻ đọc các bài thơ: Quê em, “ Tiếng sóng”, bài hát: Bé yêu biển, Quê hương em….Hoạt động học1. Lĩnh vực phát triển thể chất.
– Thể dục
+ Tập luyện để có sức khỏe như chú bộ đội hải quân.
+ VĐCB: Đi trên băng đầu đội bao gạo ( Tập làm công việc chuyển lương thực từ đất liền ra đảo.
+ Giáo dục dinh dưỡng: Các loài động vật sống dưới nước: Tôm, cua, cá, mực, cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho con người, cần ăn đầy đủ các chất để cho cơ thể khỏe mạnh.
2.Lĩnh vực phát triển nhận thức:
– Hoạt động khám phá:
+ Nhận biết biển, đảo Việt Nam
– Làm quen với toán:
+ Dạy trẻ lập số đếm đến 10. ( Sử dụng đối tượng đếm là chú bộ đội hải quân và tàu thủy, hoặc súng, mũ…)
3. Lĩnh Vực phát triển ngôn ngữ:
– Văn học: Đọc thơ “ Quê em”, .
4. Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ.
– Tạo hình: Vẽ về biển.
– Âm nhạc:
+ Dạy hát: Bé yêu biển
+ Nghe hát: Biển hát chiều nay
+ Trò chơi: Tạo sóng biển bằng tay.Hoạt động góc1. Góc học tập:
2. Góc phân vai:
– Chế biến các món ăn từ hải sản.
– Bán hàng: Bán thực phẩm hải sản, bán đồ chơi lưu niệm làm từ vỏ sò, vỏ ốc biển.
– Gia đình: Gia đình đi chơi du lịch biển.
3. Góc nghệ thuật:
– Vẽ, xé dán tranh về biển. Làm bộ sưu tập “ Biển quê em” cắt dán tranh, ảnh về biển đảo.
– Hát, múa VĐMH, nghe nhạc các bài hát: Bé yêu biển, mùa hè đến. biển hát chiều nay, đảo chân mây.
4. Góc thiên nhên: chơi với cát, nước.
5. Góc xây dựng: Xây dựng khu du lịch bên bờ biển.Hoạt ngoài trời– Quan sát mô hình biển
– Chơi với cát, nước, sỏi.
– Chơi với vỏ ốc, vỏ sò biển.Hoạt động chiều– Làm sách tranh về biển đảo.
– Du lịch biển, đảo qua màn ảnh nhỏ.
– Hát, múa, VĐMH các bài hát về biển, đảo quê hương.
Ngoài cách xây dựng kế hoạch mẫu một tuần của chủ đề nhánh, có nội dung tích hợp môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi cho giáo viên học tập. Nhưng thực tế nếu chỉ xây dựng không thì chưa đủ, vì người thực hiện tổ chức hoạt động truyền thụ các kiến thức đến cho trẻ lại chính là giáo viên. Để giáo viên hiểu rõ, mắt thấy, tai nghe và biết các truyền thụ kiến cho trẻ đến cho trẻ một cách hợp lý nhẹ nhàng, có nghệ thuật. Tôi và các đồng chí giáo viên dạy lớp 5 tuổi đã thường xuyên xây dựng các giờ dạy mẫu để cho giáo viên trong khối học tập.
VD1: Hoạt động khám phá xã hội: Biển Việt Nam
- Mục đích – yêu cầu.
– Trẻ nhận biết tên gọi, vị trí địa lý và một vài đặc điểm nổi bật của một số vùng biển, nước ta như: Sầm Sơn, Cửa Lò, Hạ Long…
– Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường biển: Không vứt rác xuống biển khi đi du lịch.
- Chuẩn bị:
– Bài giảng điện tử: Hình ảnh video clip về một số bãi biển gần gũi với trẻ như: Sầm Sơn ( Thanh Hóa), Cử Lò ( Nghệ An), Đồ Sơn (Hải Phòng), Hạ Long ( Quảng Ninh)…
– Ti Vi, máy vi tính, đàn nhạc ghi giai điệu bài hát; “ Bé yêu biển”, “ Biển hát chiều nay”,
– Lô tô hình ảnh hành động đúng, sai cho trẻ chơi trò chơi.
– 02 bảng, que chỉ.
- Tổ chức hoạt động.
Hoạt động của cô | Hoạt động của trẻ |
1. Ổn định tổ chức, gây hứng thú. |
– Cô cho các lớp hát, vận động bài “ Bé yêu biển”
– Cô hỏi trẻ:
+ Các con vừa hát bài gì?
+ Bài hát nhắc đến điều gì?
+ Các con đã được đi biển chưa?
– Cô giới thiệu cho trẻ đi thăm du lich biển qua màm ảnh nhỏ.
2. Nội dung chính:
a. Nhận biết biển Việt Nam
– Cho trẻ quan sát hình ảnh video clip về một số bãi biển Việt Nam như: Sầm Sơn, Đồ Sơn, Hạ Long…
– Quan sát hình ảnh biển Sầm Sơn.
– Trò chuyện cùng trẻ:
+ Đây là biển gì?
+ Con đã được đi biển Sầm Sơn chưa?
+ Con biết gì về biển này?
+ Khi ra biển con thấy những gì ?
+ Con có nhận xét gì về nước biển và sóng biển?
+ Con có cảm giác gì khi được đi tắm biển?
+ Để đảm bảo an toàn khi tắm biển cần sử dụng gì?
– Khái quát: Bãi biển Sầm Sơn ở tỉnh Thanh Hóa, đây là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Biển được khai thác với mục đích cho mọi người tắm biển. Bãi biển dài 6 km, bờ biển phẳng, sóng êm, nước trong xanh có nồng độ muối vừa phải. Biển Sầm Sơn có quang cảnh đẹp: Có du lịch trên núi, du lịch biển, du lịch văn hóa lịch sử. Du lịch sinh thái…
– Quan sát hình ảnh bãi biển Cửa lò, Hạ Long cô đặt câu hỏi gợi mở cho trẻ nêu ý kiến nhận xét.
– Mở rộng: Cho trẻ kể tên một số bãi biển khác mà trẻ biết. Cô kết hợp cho trẻ xem hình ảnh để trẻ quan sát và nêu nhận xét.
+ Muốn gữi cho bãi biển được trong xanh, sạch đẹp theo các con mọi người cần phải làm gì?
– Giáo dục: Cô giáo dục trẻ khi được đi tắm biển phải giữ gìn môi trường biển sạch sẽ: Không vứt rác xuống biển, bảo vệ cây trồng ven biển, phải gữi an toàn khi đi du lịch biển ( Không tách xa người lớn, khi tắm phải dùng phao kết hợp tắm cùng người lớn để đảm bảo an toàn)
3. Ôn luyện, củng cố.
– Trò chơi 1: Đi du lịch biển.
+ Cách chơi: Cho trẻ thi đua giữa hai đội chọn hình ảnh các hành động đúng, sai khi đi du lịch biển, bằng cách nhấn chuột trên màn hình nếu chọn đúng hình ảnh mặt cười hiện ra để chúc mừng, nếu sai mất lượt chơi.
+ Luật chơi: Thời gian chơi trong 5 giây suy nghĩ, đội nào có câu trả lời lắc chuông để giành quyền trả lời, nếu trả lời sai thì mất lượt chơi.
+ Tổ chức cho trẻ chơi 3, 4 lần.
– Trò chơi 2: Tạo bức tranh về biển
+ Cách chơi: Chia trẻ làm 2 đội chơi, cô chuẩn bị 2 khung tranh cho 2 đội và nhiều hình ảnh dời, nhiệm vụ 2 đội phải chọn các hình ảnh dời sắp xếp dán tạo thành bức tranh về biển theo ý thích và đặt tên cho bức tranh.
+ Luật chơi: Chơi theo nhóm, trò chơi bắt đầu kết thúc bằng một bản nhạc, kết thúc đội nào tạo được bức tranh về biển nhanh và đẹp sẽ chiến thắng.
* Kết thúc: Nhận xét giờ học.
=> Cho trẻ hát theo nhạc bài hát “ Mùa hè đến”
– Trẻ hát, vận động theo nhạc.
– 2 trẻ trả lời.
– 2,3 trẻ nêu ý kiến.
– Trẻ trả lời
– Trẻ quan sát.
– Tập thể, cá nhân 4, 5 trẻ trả lời.
– 4,5 trẻ nêu ý kiến
– Trẻ trả lời.
– 3,4 trẻ trả lời.
– Cho trẻ tạo sóng biển bằng tay. Trẻ trả lời.
– Trẻ lắng nghe
– Trẻ quan sát và nêu nhận xét.
– Trẻ kể tên 1 số biển trẻ biết.
– Trẻ nêu ý kiến
– Trẻ lắng nghe
– Trẻ chơi theo yêu cầu của cô.
– Trẻ lắng nghe
– Trẻ chơi thi đua giữa 2 đội.
– Trẻ hát theo nhạc
VD2: Tổ chức hoạt động góc trong chủ đề nghề nghiệp.
Tổ chức cho trẻ chơi hoạt động góc, giúp trẻ củng cố lại kiến thức đã được học. Thông qua các trò chơi thao tác vai hình thành ở trẻ thói quen tập làm người lớn. Trẻ chơi giao lưu với bạn bè phát triển ở trẻ các kĩ năng giao tiếp, tình cảm quan hệ xã hội, biết quan tâm chia sẻ cùng bạn chơi. Đây cũng là cơ hội để giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ một cách thuận tiện phù hợp. Tôi gợi ý thiết kế mẫu nội dung các góc chơi có lồng ghép giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo với nội dung cụ thể như sau:
– Góc tạo hình: + Làm chú bộ đội bằng túi nylon
+ Vẽ chú bộ độ hải quân
– Góc xây dựng: Xây doanh trại quân đội trên đảo.
– Góc bán hàng: Bán trang phục, đồ dùng của chú bộ đội hải quân.
– Góc nấu ăn: Nấu các món ăn chế biến từ hải sản.
– Góc học tập: Sắp xếp qui trình nghề làm muối.
– Góc âm nhạc: Hát, biểu diễn, nghe nhạc nghe hát các bài về chú bội độ hải quân.
Bên cạnh những cách xây dựng kế hoạch mẫu như trên, hàng tuần giáo viên phải xây dựng kế hoạch, soạn giáo án trước khi đế lớp. Vào thứ sáu hàng tuần khi duyệt giáo án mầm non, tôi thường xuyên góp ý nhận xét việc giáo viên lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt
động cho phù hợp. Bởi vì, không phải tiết dạy nào hay tổ chức hoạt động nào cũng đưa nội dung giáo dục trẻ vào các hoạt động từ đầu đến cuối hoạt động mà tùy từng hoạt động có thể giáo dục lồng ghép ở các phần như: Ổn định tổ chức, nội dung chính, giáo dục, ôn luyện củng cố, sao cho phù hợp không gò bó áp đặt, không làm nặng chương trình giáo dục trẻ.
* Kết quả đạt được
– 100% giáo viên dạy lớp 5 tuổi, đã biết cách lựa chọn nội dung lồng ghép giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo và các thời điểm trong ngày của trẻ một cách phù hợp.
– Tôi và giáo viên đã xây dựng được 15 tiết dạy và hoạt động mẫu, cho 100% giáo viên khối mẫu giáo lớn 5 tuổi học.
– Giáo viên đã có khả năng sáng tạo hình thức tổ chức hoạt động, có nghệ thuật lên lớp nhẹ nhàng, đưa nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động phù hợp có hiệu quả.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 3 )
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện tích hợp nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi.
Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện theo kế hoạch là biện pháp hết sức quan trọng trong công tác quản lý chuyên môn. Ta vẫn nói rằng: Không có kiểm tra tức là không có quản lý. Kiểm tra nhằm thu thập thông tin, điều khiển, điều chỉnh bộ máy đi đến đích. Kiểm tra nhằm thiết lập các tiêu chuẩn, đo lường kết quả thực hiện mục tiêu, phân tích và điều chỉnh các sai lệch (nếu có) nhằm làm cho bộ máy tốt hơn lên, đạt kết quả mong đợi. Kiểm tra giúp cho nhà quản lý phát hiện người làm tốt để khuyến khích động viên họ, còn người làm chưa tốt để cố gắng hơn. Kiểm tra còn giúp cho việc sai sót có thể xảy ra. Vì công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng như vậy nên người quản lý cần phải tích luỹ kinh nghiệm kiểm tra và thực hiện nghiêm túc biện pháp kiểm tra trong mọi hoạt động.
*Nội dung kiểm tra:
– Kiểm tra về nhận thức của giáo viên về nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi.
– Kiểm tra việc giáo viên xây dựng lựa chọn nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ ở một số chủ đề và các hoạt động trong ngày.
– Kiểm tra việc giáo viên sưu tầm, sáng tác các bài thơ, bài hát, câu truyện có nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ có phù hợp với trẻ 5 tuổi không.
– Kiểm tra việc giáo viên tổ chức các hoạt động tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ có phù hợp hiệu quả hay không.
* Phương pháp kiểm tra, đánh giá:
– Thăm lớp, dự giờ.
– Quan sát.
– Kiểm tra trực tiếp việc giáo viên, thực hiện các hoạt động trong ngày.
– Trò chuyện trao đổi trực tiếp với giáo viên, học sinh.
* Hình thức kiểm tra, đánh giá:
– Kiểm tra theo định kỳ.
– Kiểm tra thường xuyên.
– Kiểm tra đột xuất.
– Kiểm tra có báo trước.
* Kết quả:
– Qua thực hiện biện pháp kiểm tra, đánh giá tôi thấy hầu hết đội ngũ giáo viên 5 tuổi trong nhà trường luôn có ý thức thực hiện nghiêm túc nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ theo và kế hoạch của nhà trường đã xây dựng.
– 100% giáo viên đều có phẩm chất đạo đức tốt luôn yêu quý trẻ, thương yêu tôn trọng trẻ trong mọi hoạt động, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giáo dục trẻ.
– Qua kiểm tra tôi đã nhận thấy có một số đồng chí tiêu biểu thực hiện tốt việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi như: Đồng chí Hiếu lớp A1, đồng chí Chinh lớp A2, đồng chí Thảo lớp A3, đồng chí Hạnh, Điệp, lớp A4, đồng chí Loạt, Hiền lớp A5, đồng chí Oanh, Thủy lớp A6. Bên cạnh đó còn một số đồng chí giáo viên trẻ mới vào trường kinh nghiệm về nghệ thuật lên lớp, chưa có khả năng sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động còn hạn chế như: Đồng chí Ngân, Hương, Hiền, Hòa.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 4 )
- Tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng.
Thực hiện quyết định số 373/ QĐ- TT ngày 23/3/2010 của thủ tướng chính phủ về phê duyệt “ Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý bảo vệ phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam” với mục đích là đến năm 2015 nâng cao nhận thức đội ngũ cán bộ công chức và các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Tôi nhận thấy việc phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng cùng chung tay bảo vệ tài nguyên môi trường biển, hải đảo là rất cần thiết.
Công tác tuyên truyền có vai trò rất to lớn đối với việc thực hiện thành công hay không thành công của một hoạt động nào đó trong trường mầm non. Tuyên truyền nhằm làm cho đông đảo nhân dân, phụ huynh cộng đồng xã hội hiểu rõ về mục đích của một hoạt động hoặc một chương trình nào đó trong trường mầm non và ý thức cùng phối hợp với nhà trường để thực hiện. Chính vì vậy mà trường mầm non cần phải làm tốt công tác tuyên truyền.
Trên thực tế nhìn chung nhân dân, phụ huynh biết rất ít về kiến thức giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ. Có một số phụ huynh còn cho rằng trẻ còn nhỏ chưa cần phải giáo dục trẻ, nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo còn xa vời với trẻ không phù hợp. Muốn nhân dân, cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội trên địa bàn xã hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ. Thì trường mầm non phải “ Tự mình nói về mình” bằng nhiều hình thức tuyên truyền tốt, khéo léo, rõ ràng, rộng rãi, với nhiều hình thức, thì công tác tuyên truyền sẽ đạt hiệu quả tốt. Qua đó sẽ thu hút được nhiều trẻ đến trường, nhận được nhiều sự quan tâm ủng hộ của nhân dân của cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội ở địa phương để phát triển giáo dục mầm non của nhà trường. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, ngay từ đầu năm học tô đã xây dựng nội dung và các hình thức tuyên truyền về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ trong năm học như sau:
– Tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã và của các thôn với các nội dung:
+ Các nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, trú trọng với các nhiệm vụ tăng cường giáo dục nội dung về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
+ Nêu rõ nội giáo cần giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ.
+ Tầm quan trọng của công tác giáo dục trẻ ở trường mầm non.
+ Ý nghĩa của việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Tổ chức họp phụ huynh đầu năm với các nội dung tuyên truyền:
+ Đánh giá kết quả chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, kết quả thực hiện các hoạt động của năm học trước.
+ Ý nghĩa của các hoạt động của bé ở trường mầm non, trong đó có hoạt động tích hợp giáo dục trẻ nội dung tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi là nhiệm vụ trọng tâm của năm học.
+ Thông qua các nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, đi sâu phân tích tuyên truyền hoạt động tích hợp giáo dục trẻ nội dung tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
+ Vận động phụ huynh đóng góp tự nguyện ngoài các khoản quy định, để mua sắm trang thiết bị hiện đại để tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục trẻ.
– Tổ chức các buổi họp phụ huynh giữa năm, cuối năm để báo cáo kết quả thực hiện trong học kỳ I, năm học và kết quả lồng ghép tích hợp nội giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ.
– Xây dựng các góc tuyên truyền chung của nhà trường tại 3 khu với các nội dung:
+ Xây dựng các nội dung ở bảng tin theo từng thời chủ đề.
+ Trang bị hệ thống các biểu bảng, panô áp phích có nội dung liên quan đến chủ đề năm học và các cuộc vận động và các phong trào thi đua:
Ví dụ : “ Quyết tâm xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”
“Cùng chung tay bảo vệ môi trường biển, hải đảo Việt Nam”
“ Hãy dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất”
“Mẹ cũng là cô giáo”
+ Dán các bài thơ bài hát, có nội dung giáo dục môi trường biển hải đảo theo chủ đề, để để phụ huynh được biết và phối kết hợp cùng cô giáo dạy trẻ.
+ Dán các bài viết tuyên truyền về bảo vệ môi trường biển, hải đảo Việt Nam:
VD: Tiêu đề “Cùng chung tay bảo vệ môi trường biển, hải đảo Việt Nam”
– Hãy nhớ là nước thải sẽ chảy thẳng ra hệ thống thoát nước, không vứt rác ra đường phố và cống rãnh vì chúng có thể trôi ra biển hoặc bãi biển.
– Cố gắng tạo ra ít rác thải, hạn chế sử dụng túi nilông, nên mang theo túi vải khi mua hàng.
– Hãy nói với bạn bè và gia đình biết về mối nguy hiểm của rác thải đối với các động vật biển. Khuyến khích họ vứt rác thải vào đúng nơi quy đinh.
+ Dán ảnh của các hoạt động , các hội thi của nhà trường.
– Chỉ đạo giáo viên 5 tuổi xây dựng mỗi lớp một góc tuyên truyền với phụ huynh với các nội dung.
+ Chương trình thực hiện theo các chủ đề cho trẻ 5 tuổi.
+ Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ qua từng giai đoạn trong năm.
+ Các nội dung cần phối hợp với phụ huynh bài viết tuyên truyền giáo dục tài nguyên môi trường về biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi như: các bài thơ, bài hát cần dạy trẻ trong chủ đề.
– Tổ chức tốt các hội thi trong năm học mời phụ huynh đến dự.
– Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, văn nghệ ở trường, tham gia biểu diễn, giao lưu với các đoàn thể ở địa phương tổ chức.
– Tổ chức tốt các ngày hội ngày lễ ở trường trong năm học như ngày: Khai giảng năm học, ngày tết trung thu, ngày 20/11, ngày tết Noel, ngày 8/3, ngày 1/6, ngày tổng kết năm học. Mời lãnh đạo xã, lãnh đạo thôn và phụ huynh đến dự.
* Kết quả:
– Với các nội dung và hình thức tuyên truyền phong phú như trên chúng tôi đã thu được kết quả như:
+ Lãnh đạo, chính quyền địa phương, nhân dân và cha mẹ trẻ trên địa bàn đã hiểu rõ được tầm quan trọng của giáo dục mầm non nói chung và nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ nói riêng; nắm được ý nghĩa của các hoạt động của bé ở trường giúp các bé phát triển một cách toàn diện, biết được các nhiệm vụ trọng tâm của năm học. Qua đó nâng cao được ý thức trách nhiệm của cha mẹ trẻ về việc phối hợp cùng cô giáo, để giáo dục trẻ nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi một cách phù hợp hiệu quả là việc làm cần thiết.
+ Phụ huynh đã có thêm hiểu biết về môi trường biển, hải đảo Việt Nam để giáo dục con tại nhà, phụ huynh có tinh thần đóng góp tự nguyện ủng hộ việc mua sắm các thiết bị hiện đại, sưu tầm các tranh ảnh có nội dung giáo dục trẻ theo chủ đề, để ứng dụng vào dạy trẻ.
+ Lãnh đạo địa phương đã tạo điều kiện mọi mặt cho công tác tuyên truyền cũng như vận động nhân dân, phụ huynh ủng hộ và đầu tư kinh phí mua sắm các đồ dùng hiện đại như ti vi màn hình phẳng, loa vi tính cho các lớp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong nhà trường đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 5,6 )
- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên một cách tích cực, cùng với sự kết hợp giữa bản thân tôi với giáo viên, việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi và đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
– Đã xây dựng được kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi năm học 2012-2013.
phù hợp với đặc điểm và các điều kiện của trường.
– Nhà trường đã mua và phô tô nhiều tài liệu liên quan đến việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi phát cho 100% các lớp 5 tuổi nghiên cứu và học tập. Ban giám hiệu đã tạo điều kiện cho 100% giáo viên 5 tuổi tham gia lớp tập huấn tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình cho trẻ 5 tuổi do phòng giáo dục, nhà trường tổ chức.
– Đã mua được đầy đủ các đồ dùng các đồ dùng cần thiết cho giáo viên làm đồ dùng dạy học như: Mỗi lớp 1 bộ tranh có nội dung giáo dục tài nguyên biển, hảo dạy trẻ, cung cấp các nguyên vật liệu cho giáo viên làm đồ dùng dạy học, mua mới 3 đàn Yamaha cho 3 khu.
– Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục với phụ huynh, trang bị được bổ sung 6 ti vi màn hình phẳng, 6 đôi loa vi tính trị giá: 57.000.000 đồng, phục vụ công tác giáo dục trẻ đảm bảo chất lượng.
– Đã phát động giáo viên sáng tạo thiết kế được một bộ bài giảng điện tử gồm 46 bài giảng các môn học có nội dung giáo dục biển, hải đảo theo từng chủ đề. Giáo viên đã sáng tạo được 5 mô hình về biển, đảo và các động vật sống dưới biển bằng các nguyên vật liệu sẵn có và các vật liệu phế thải, ứng dụng vào dạy trẻ.
– Giáo viên sưu tầm, sáng tác được 19 bài thơ, 15 bài hát, 10 câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên biển, hải đảo cho trẻ phù hợp đã lựa chọn dạy trẻ vào các chủ đề ( Bên cạnh đó bản thân tôi đã sáng tác được 10 bài thơ, bài vè, 5 câu truyện, đặt lời 6 bài hát theo giai điệu bài hát, có nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ theo các chủ đề)
– Đã tổ chức được 15 tiết dạy và các hoạt động có lồng ghép nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo, cho 100% giáo viên 5 tuổi được tham gia kiến tập học hỏi kinh nghiệm.
– 100% giáo viên 5 tuổi trong trường đã nghiêm túc thực hiện việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ năm học 2012-2013 và đạt kết quả tốt. Giáo viên nắm được kiến thức, kỹ năng lồng ghép nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ phù hợp có nghệ thuật.
– Đã làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh và cộng đồng về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– 100% các lớp 5 tuổi đã xây dựng được lớp tuyên truyền tại lớp để phối hợp cùng phụ huynh giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi tại lớp.
– 100% trẻ trong trường đã có ý thức bảo vệ giữ gìn tài nguyên môi trường biển, hải đảo Việt Nam, hứng thú được đi thăm quan nghỉ mát tại các bãi biển đảo nổi tiếng ở Việt Nam.
– 05 giáo viên lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi phòng giáo dục thanh tra và 2 giáo viên đăng kí chiến sĩ thi đua cấp cơ sở được phòng giáo dục kiểm tra đánh giá xếp loại tốt.
– Bản thân tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong việc chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi. Tôi đã được phòng giáo dục phân công cùng tổ công tác, tham gia soạn thảo các nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi để tập huấn cho các giáo viên 5 tuổi trong toàn huyện học tập.
– Thông qua kết quả kiểm tra thi đua năm học 2012-2013 của phòng giáo dục, chất lượng giáo dục trẻ của nhà trường được phòng giáo dục đánh giá xếp loại tốt, trường đạt trường tiên tiến cấp huyện. Nhà trường tiếp tục phấn đấu vào đầu năm học mới 2013- 2014 sẽ đón trường chuẩn quốc gia mức độ I.
Nguồn: giao an dien tu mam non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/lahj3og
Rèn kỹ năng sống hòa cùng với chăm sóc giáo dục trẻ
Rèn kỹ năng sống hòa cùng với chăm sóc giáo dục trẻ
Theo khảo sát mà Vnexpress đã thực hiện mới đây, 91% các bà mẹ Việt Nam đánh giá: trẻ em có độ tuổi từ 1- 6 tuổi có kỹ năng sống còn hạn chế. Những kỹ năng sống cơ bản của trẻ dưới 6 tuổi không chỉ bao gồm tính tự giác, dễ thích nghi, có mối quan hệ tốt với bố mẹ, những người thân trong gia đình mà còn bao gồm khả năng nhận biết cảm xúc, có sức đề kháng lại những tác động xấu của môi trường và hình thành lòng yêu mến thiên nhiên. Điều đáng lưu ý là thực trạng trẻ kém phát triển về kỹ năng sống đặc biệt phổ biến ở các gia đình thành thị. Theo chuyên gia tâm lý Lê Khanh (thành phố Hồ Chí Minh) thì cách chăm sóc và dạy dỗ của các bậc phụ huynh chính là yếu tố quyết định đến sự phát triển một số các kỹ năng sống ban đầu của trẻ.Theo ông, cách chăm sóc con trẻ của phụ huynh VN hiện nay có nhiều mâu thuẫn trong cách dạy, vừa nuông chiều lại vừa áp đặt. Nhất là còn mang nhiều tính bao bọc bằng cách hạn chế sự tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài để tránh các nguy cơ mắc bệnh, nhiễm bẩn; hay cấm đoán trẻ không được đụng chạm và khám phá các vật dụng do lo lắng trẻ bị tổn thương hoặc làm hư vỡ.
Thực tế, Bộ GD&ĐT đã đưa KNS vào chương trình học với phương châm “xây dựng trường học tích cực, HS thân thiện”. Nhưng việc và học chỉ là lồng ghép, lấp khoảng trống một cách không bài bản. Trong hầu hết các lớp học, hiện tượng trẻ thiếu mạnh dạn, tự tin chiếm đa số; buổi sáng trẻ tới trường vẫn còn tình trạng nhiều trẻ nhõng nhẽo, khóc lóc; trong giờ hoạt động chung, trẻ thường ngồi thụ động ; khi cô giáo hỏi thì rất ít trẻ mạnh dạn phát biểu nhưng khi vui chơi thì nhiều trẻ lại hưng phấn, đùa nghịch quá đà. Bên cạnh đó, môi trường tiếp xúc mở rộng sẽ mang lại nhiều mối quan hệ mới như quan hệ bạn bè trong lớp học, trường học, quan hệ với nhiều người ngoài xã hội như bạn hàng xóm…Do đó, đòi hỏi trẻ mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo lớn nói riêng phải có những phương thức tiếp cận phù hợp và thích ứng với các vấn đề xã hội mới nảy sinh đó.
Năm học 2012 – 2013 nghành giáo dục mầm non tập trung thực hiện tốt một trong các nhiệm vụ trọng tâm là “Tăng cường công tác giáo dục toàn diện …Chú trọng và tăng cường giáo dục văn hóa truyền thống, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống”. Là một giáo viên mầm non có hơn 10 năm công tác trong sự nghiệp trồng người, tôi nhận thấy những khiếm khuyết của trẻ cũng là những thách thức luôn đặt ra với những người giáo viên mầm non như tôi câu hỏi: “làm thế nào để trẻ em Việt Nam có thể tự tin đứng sánh vai với bạn bè năm châu như lòng mong mỏi của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng mong?”
Xuất phát từ những lí do trên, năm học 2012 – 2013 tôi đã mạnh dạn lồng ghép thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm: bước đầu rèn kĩ năng sống hòa cùng với chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo lớn A3 tại trường mầm non A Thị Trấn Văn Điển và đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lí luận
“Kỹ năng sống” có tác dụng lớn trong hình thành tư duy, nhân cách mỗi người. Đó là thái độ sống, giá trị sống căn bản, như sống trung thực, can đảm đối mặt sự thật, biết thương yêu và biết cách vượt lên nghịch cảnh, biết kiểm soát bản thân, làm chủ thời gian sống…
Kỹ năng sống gắn với thực tế, đi liền với cuộc sống các thế hệ. Ai được học, có cơ hội rèn luyện kỹ năng sống, ứng biến tích cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu, vượt qua những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực…, người đó được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, tinh thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt, 00 được thành công trong đời.
Học kỹ năng sống, vì vậy, không chỉ cần cho nhiều thế hệ, mà đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn 5 tuổi, khi các con bắt đầu bước vào giai đoạn đỉnh cao của sự ham học hỏi và tìm tòi với câu hỏi thường trực trên môi: “ Vì sao…” “Kỹ năng sống” vì vậy không nên coi là vấn đề để “lên lớp”, dạy khôn. Đó là vô số kỹ năng, cách xử thế, kinh nghiệm trực tiếp cần cập nhật.
- Cơ sở thực tiễn:
II.1.Ưu điểm: Trường mầm non A Thị trấn Văn Điển là ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 từ tháng 12-2011; trường có bề dày về kiến thức và kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ. Trong trường có đầy đủ hệ thống phòng chức năng và các phòng sinh hoạt chung cho trẻ, lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi A3 là lớp có 2/2 giáo viên đạt chuẩn, trong đó có 1 giáo viên có trình độ đại học và 1/2 giáo viên còn lại đang theo học đại học. Lớp có cơ sở vật chất khang trang, sạch đẹp đạt chuẩn quốc gia, có tập thể các bậc phụ huynh đa số luôn quan tâm đến con em mình. 100% học sinh của lớp đều đã qua lớp 3, 4 tuổi nên hầu hết có kĩ năng phục vụ và học tập tốt.
Bên cạnh đó, cũng như các trường mầm non khác trong cả nước, trường mầm non A Thị Trấn Văn Điển cũng thực hiện chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình này tạo điều kiện cho giáo viên và nhà trường xây dựng, thực hiện chương trình phù hợp với trẻ ở địa phương mình, tạo cơ hội cho nhà trường đưa ra được chương trình phù hợp với trẻ em nơi đây, gồm phần lớn là con em các gia đình làm nghề buôn bán và công nhân, trí thức. Rèn luyện kĩ năng sống đã được lồng ghép trong tổ chức các hoạt động cho trẻ song việc thực hiện đạt hiệu quả chưa cao.
II.2. Hạn chế: Vào đầu năm, rất nhiều trẻ tại lớp tôi có tính nhút nhát. Sáng đến lớp trẻ chưa tự tin chào cô giáo, trong giờ học bài thì trẻ rất ngại phát biểu ý kiến, rụt rè, ngại chia sẻ cảm xúc, nhưng đến giờ chơi thì trẻ lại hò hét rất to, nói chuyện nhiều. Lớp có tình trạng trẻ không xin đi vệ sinh nhưng lại hay tè dầm…Đến lớp trẻ im lặng, có khi cả ngày không nói gì nhưng phụ huynh chia sẻ là về nhà cháu nói rất nhiều…
III. Các biện pháp thực hiện
1.Phát triển kỹ năng giao tiếp
1.1. Nguyên nhân áp dụng:
Rèn trẻ kĩ năng giao tiếp là ý tưởng hay để giúp trẻ rèn luyện cách cư xử tốt đẹp và lịch thiệp đối với mọi người. Qua giao tiếp giúp trẻ trở nên dạn dĩ, tự tin, khuyến khích trẻ phát triển những tính cách tốt như lòng nhân ái, sự yêu thương và quan tâm đến người khác. Bình thường khi trẻ bắt đầu biết nói thì trẻ đã bắt đầu trải nghiệm và học cách giao tiếp. Như vậy, rèn trẻ kĩ năng giao tiếp, không chỉ với bố mẹ mà còn với bạn bè, người thân, cô giáo và người lạ có tác dụng giúp trẻ tự tin, biết cư xử phù hợp mọi tình huống. Tại lớp, tôi chú trọng cho trẻ giao tiếp với bạn bè, cô giáo.
1.2. Cách áp dụng:
Qua các hoạt động tại trường mầm non, trẻ đã được phát triển kĩ năng giao tiếp với cô giáo, bạn bè. Từ đây trẻ học cách giao tiếp với người lạ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở các hoạt động ăn, học, chơi tại trường thì chưa đủ, giáo viên là người hướng trẻ vào các kĩ năng giao tiếp trong tất cả các hoạt động khác, chú trọng các yếu tố như:
– Phép lịch sự: từ những trường hợp ứng xử thông thường trong sinh hoạt hàng ngày như trong bữa ăn, tiếp xúc với mọi người, giải thích để trẻ hiểu tầm quan trọng của những tính cách tốt và khuyến khích trẻ nghĩ rằng mình là người lịch thiệp. Để làm được điều đó, tôi bắt đầu từ việc đưa ra những yêu cầu thực tế với trẻ và nhẹ nhàng hướng dẫn để đưa trẻ vào nền nếp.
– Trò chuyện với trẻ về những mong muốn của cô khi con tới trường. Tôi luôn cố gắng nói chuyện với trẻ một cách tự nhiên và cởi mở về những gì tôi mong muốn ở trẻ. Bên cạnh đó tôi đặt ra những giới hạn và hướng trẻ tin rằng việc tuân theo các giới hạn đó là tốt cho bản thân trẻ. Tuy nhiên, tôi không làm điều đó một cách áp đặt. Tôi cố gắng để trẻ nghĩ rằng tôi là một người bạn lớn, đáng tin cậy của trẻ.
– Tiếp xúc với bạn bè: Tôi để ý cho trẻ tiếp xúc ngay với bạn cùng lớp, đặc biệt ngay từ khi trẻ mới vào lớp. Những buổi đầu trẻ có thể bỡ ngỡ và tỏ ra thiếu tự tin. Tôi chú ý đến những biểu hiện tâm lý của trẻ khi chơi với bạn. Tôi giúp trẻ bằng cách cho phép các trẻ cùng lớp trò chuyện nhiều hơn với bạn mới; định hướng những trẻ cùng chơi với bạn vào những trò chơi hay hoạt động mà trẻ thích và có năng khiếu; hoặc cho bé làm bạn với đồ chơi… của lớp.
Bên cạnh đó, tôi cũng trở thành một người bạn cùng chơi của trẻ, nếu cần. Tôi luôn dành những khoảng thời gian có thể để trò chuyện cùng trẻ. Đây là cơ hội để tôi hiểu những thiên hướng cá nhân của trẻ và giúp trẻ định hướng những kỹ năng giao tiếp. Đến khi trẻ có thể tự chơi với nhau một cách thuận hòa, tôi để trẻ chơi đùa một cách độc lập. Tôi luôn giữ nguyên tắc không đặt quá nhiều kỳ vọng hay yêu cầu đối với trẻ, vì trẻ sẽ cảm thấy áp lực và dễ trở nên tự ti. Thay vào đó tôi luôn lắng nghe, quan sát và cố gắng hiểu trẻ.
– Để trẻ tiếp xúc với những hình mẫu tốt:
Khi trẻ bắt đầu có xu hướng chú ý và bắt chước theo hành động của bạn khác hay của cô giáo, người lớn, tôi chú ý để trẻ tiếp xúc với những “người mẫu” mà trẻ cảm thấy yên tâm. Những tính cách tốt học được từ những cuộc tiếp xúc như vậy sẽ giúp định hình suy nghĩ và cách ứng xử của trẻ.
– Sống mẫu mực:
Những giáo viên trong lớp luôn dùng những thái độ và cách thức tích cực để cư xử với nhau. Đó là nguyên tắc vàng trong giao tiếp thông thường không chỉ trong lớp mà còn với đồng nghiệp ngoài lớp, với phụ huynh. Bất kể mục đích giao tiếp là gì, tôi luôn suy nghĩ chín chắn và thận trọng để tránh gây ra những hậu quả không hay. Trẻ sẽ học được cách cư xử đúng đắn từ ngay những người thân yêu của mình mà trước hết là người “mẹ hiền” luôn bên trẻ.
– Hướng trẻ vào các hoạt động xã hội mà trước hết là các hoạt động tập thể: Việc tham gia vào các hoạt động tập thể không chỉ giúp trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin mà còn khuyến khích trẻ phát triển những tính cách tốt như lòng nhân ái, sự yêu thương và quan tâm đến người khác. Có rất nhiều cơ hội để tôi dạy trẻ biết ý nghĩa của các hoạt động xã hội. Chẳng hạn bên cạnh việc tham gia các hoạt động chung tại trường, lớp với các bạn, tôi còn dạy trẻ thêm những việc hữu ích nho nhỏ nhưng nhiều ý nghĩa như: xếp ghế giúp các em lớp bé chuẩn bị xem văn nghệ, giúp bạn bằng cách cho bạn mượn quần áo khi bạn tè dầm mà không mang đồ … Từ những hoạt động này, trẻ có thể học được những thói quen làm điều thiện khi trưởng thành.
1.3. Kết quả
Sau thời gian áp dụng sang kiến kinh nghiệm, đa số trẻ trong lớp đã mất dần tính tự ti, trẻ trở nên hòa đồng, không chỉ với bạn mà cả với các cô giáo. Trẻ biết chia sẻ và thích được chia sẻ với cô và bạn về nhu cầu cũng như mong muốn,,, của trẻ; hiện tượng trẻ tè dầm giảm xuống không còn. Bên cạnh đó, trẻ biết quan tâm tới mọi người nhiều hơn, tính cách trẻ cũng trở nên thân ái, vui vẻ hơn.
- Phát triển kỹ năng thích nghi với môi trường
2.1. Nguyên nhân áp dụng
“Thích nghi” là yếu tố tiên quyết để con người hòa nhập vào cuộc sống bắt đầu từ khi lọt lòng mẹ. Trong thời gian sơ sinh, trẻ sống trong sự bao bọc của gia đình; dần dần, trẻ bước vào “cuộc sống xã hội” mà cuộc sống đầu tiên đó chính là trường lớp mầm non, sau đó sẽ là môi trường bên ngoài như hàng xóm, đám đông…Càng thích nghi nhanh và sớm, trẻ càng dễ hòa nhập vào cộng đồng, đó là yếu tố quan trọng giúp trẻ phát triển sự tự tin và gạt bỏ sự rụt rè nhút nhát.
2.2. Cách áp dụng
. Theo thực đơn ăn của nhà trường, trẻ được làm quen với đa dạng chế độ ăn. Và bắt đầu từ lúc vào trường, trẻ được ăn hết tất cả các món ăn có thể từ thịt, cá, trứng, tôm, cua, rau xanh, củ quả,… với khẩu phần ăn được tính toán đủ dinh dưỡng, có tính thay đổi phù hợp theo tuần, mùa. ( Phụ lục 1, trang 16)
– Thích nghi với môi trường: Theo chế độ chăm sóc giáo dục trẻ, hàng ngày trẻ được hoạt động ngoài trời với thời gian phù hợp giúp trẻ thích nghi với không khí môi trường bên ngoài, vừa giúp trẻ hấp thu Vitamin D cho da. Ngoài ra, trẻ còn được tham gia các hoạt động ngoại khóa như đi xem xiếc, đi thăm Lăng Bác…
Qua đây, tôi cũng giúp trẻ có ý thức trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp bằng cách khi đi chơi, thấy lá cây trên sân, tôi nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Tôi giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác là làm sạch sân trường. Cùng với yếu tố này, tôi cũng lồng ghép cùng với chương trình khám phá khoa học giúp trẻ hiểu sâu hơn về cách bảo vệ nguồn nước và tiết kiệm điện.
– Thích nghi với đám đông: Trong chế độ sinh hoạt hàng tuần, tôi chú ý thường xuyên cho trẻ gặp gỡ, giao lưu với các bạn lớp khác, trẻ còn được tham gia các lớp học năng khiếu giúp trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
2.3. Kết quả
Thích nghi là yếu tố không thể thiếu hòa cùng với yếu tố giao tiếp và giúp cho việc giao tiếp đạt kết quả cao. Sau 1 năm áp dụng, trẻ lớp tôi đã biết ăn đa dạng thực phẩm, nhất là trẻ đã thích ăn món rau. Trẻ cũng thích nghi tốt với môi trường bên ngoài, rất thích tham gia các hoạt động tập thể và bớt hẳn tính nhút nhát.
- Phương pháp phát triển kỹ năng tự chăm sóc bản thân
3.1. Nguyên nhân áp dụng,
Trẻ càng lớn càng cần phải có một số kĩ năng tự phục vụ mà thiết yếu nhất là kĩ năng tự xúc cơm, tự mặc quần áo và biết giữ vệ sinh cá nhân. Có kỹ năng tự chăm sóc cá nhân, trẻ sẽ có tính tự giác cao.
3.2. Cách áp dụng
Thực tế trẻ rất vụng về trong những hoạt động tự chăm sóc bản thân như rửa tay, lau mặt, uống nước, xúc cơm không rơi vãi…nhưng điều đó không có nghĩa là tôi sẽ nuông chiều trẻ. Ở tuổi mẫu giáo lớn, trẻ đã có thể thực hiện các hoạt động tự chăm sóc bản thân một cách thuần thục song có lúc trẻ lại tỏ ra lười biếng hoặc cố tình làm hỏng hoặc kéo dài mọi việc. Tôi luôn kiên nhẫn, động viên và khích lệ trẻ, đồng thời giải thích cho trẻ hiểu tác dụng của mỗi điều con biết sẽ giúp con thêm tự tin và khéo léo hơn. Với trẻ còn chậm, tôi kiên trì hướng dẫn thường xuyên trong hoạt động hàng ngày, khen ngợi khi trẻ làm tốt cũng như tạo điều kiện để trẻ thực hành thường xuyên.
3.3. Kết quả
Bằng sự kiên trì, sau thời gian áp dụng sáng kiến, trẻ đã có kĩ năng tự chăm sóc bản thân tốt hơn trước. Các hoạt động như trẻ tự xúc ăn, tự lấy đồ, biết mặc áo phù hợp mùa…đã mang tính tự giác cao. Điều đặc biệt là trẻ còn tự biết nhắc nhở hay giúp đỡ bạn khi bạn làm chưa đúng. Chính thái độ phản ứng đúng của bạn cùng lớp có tác dụng rất quan trọng giúp trẻ lần sau thực hiện có chú ý để làm đúng hơn.
- Phương pháp phát triển kỹ năng tạo niềm vui thông qua
4.1. Nguyên nhân áp dụng
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Tuy nhiên, vui chơi giúp trẻ phát triển và rèn luyện kĩ năng sống lại đòi hỏi người giáo viên phải để ý tìm tòi những biện pháp cũng như cách chơi sao cho có hiệu quả trong việc vừa giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu cũng như đạt được mục đích rèn luyện kĩ năng sống.
4.2. Cách áp dụng
Khi cho trẻ chơi, tôi luôn ghi nhớ các nguyên tắc sau:
4.2.1 Tạo ra một môi trường hấp dẫn : để đồ chơi mầm non trên giá vừa tầm tay với , bầy theo từng nhóm, từng loại và ở một góc thật tự do – thoải mái, nơi trẻ có thể làm gì tùy thích mà không bị sự ngăn cấm, hạn chế khác với các khu vực khác trong lớp. Các món đồ chơi chỉ để 1 ít bên ngoài, những món còn lại tôi cất bớt đi rồi 1 thời gian sau có thể lôi ra và cho trẻ chơi để tạo sự hứng thú mới cho trẻ. Có góc chơi cho trẻ chơi với bạn như góc xây dựng nhưng cũng có góc cho trẻ tự chơi, tự phát huy óc tưởng tượng như góc lắp ghép…
4.2.2. Chọn đồ chơi : Mỗi một lứa tuổi đều có những loại đồ chơi phù hợp và qua đó cũng giúp tôi nhận biết sự phát triển về trí tuệ của trẻ qua các món đồ chơi trong lớp mầm non mà trẻ sử dụng. Rất may mắn là trẻ lớp A3 cũng như trẻ toàn trường luôn nhận được những đồ chơi phù hợp lứa tuổi mà nhà trường cung cấp. Đồ chơi khối lớn chủ yếu là đồ chơi lắp ghép, từ đó trẻ có thể lắp ghép theo ý trẻ, phát huy óc sáng tạo và trí tưởng tượng cho trẻ. Tuy nhiên tôi vẫn chú ý lựa chọn thêm những món đồ chơi cao hơn lứa tuổi của trẻ một chút vì nó sẽ kích thích sự phát triển như dạng đồ chơi lắp ghép nhiều chi tiết…
4.2.3. Đơn giản : Một món đồ chơi đơn giản như những khối gỗ cũng được bổ sung vào tủ đồ chơi lại chính là món đồ chơi giúp trẻ tưởng tượng nhiều nhất, một con búp bê đơn giản, quần áo có thể thay đổi giúp trẻ hình dung ra nhiều người , có khi đó là ông, bà, có khi là cô giáo, có khi lại là em bé thậm chí là một siêu nhân từ hành tinh khác đến … và vì thế trẻ có thể tạo ra rất nhiều tình huống khác nhau . Một chiếc xe bằng gỗ đơn giản có thể giúp trẻ nghĩ ra đủ loại xe , tùy theo trò chơi đòi hỏi hơn là một chiếc tăng, xe tải quá rõ ràng đến từng chi tiết …
4.2.4. Linh Hoạt : Một món đồ chơi có thể phù hợp với nhiều loại trò chơi khác nhau và có thể tạo ra nhiều tình huống khác nhau , các loại đồ chơi có nhiều khớp nối , có thể lắp ráp theo nhiều hình dạng khác nhau như các miếng logo chẳng hạn , cũng có thể đó là những đồ chơi mang tính công cụ như dụng cụ nấu ăn , làm vườn giúp cho trẻ có thể tập cách sử dụng chúng.
4.2.5. Sáng tạo: Từ các hộp nhựa có nắp , các ống lon nhỏ, các dĩa tròn, các khối gỗ ( từ các xưởng mộc thải ra, đã được mài thật nhẵn ) với kích thước khác nhau , các miếng mốp , bìa cat tông , các rổ nhựa cũ hay đơn giản là 1 tờ báo … tôi đều có thể dùng để cho trẻ chơi hay cùng trẻ làm thành những món đồ chơi, những cái mũ, cái ly, chiếc thuyền đơn giản và rẻ tiền mà không kém phần hấp dẫn.
Điều quan trọng hơn nữa là đồ chơi ngoài trời mầm non không dùng để thay thế vai trò cho cô giáo mà là một phương tiện giúp cô cùng chơi với con, là cách để thâm nhập vào thế giới tuổi thơ, giúp cho trẻ có thể giao tiếp với người khác và môi trường bên ngoài. Không có gì tệ hại hơn là để cho trẻ một đống đồ chơi và bỏ mặc trẻ loay hoay với các món đồ chơi xa lạ ấy, mặc dù đó là thứ trẻ đã đòi.
4.3. Kết quả
Qua chơi, trẻ rèn được óc quan sát, trí tưởng tượng…đồng thời trẻ cũng đã biết hơn về cách chơi, thỏa thuận theo nhóm. Trẻ biết chia sẻ đồ chơi cũng như cách chơi với bạn rất hòa thuận. Trẻ còn biết làm thêm đồ chơi cũng như có ý thức bảo vệ và sửa đồ chơi cùng cô. Từ đạy,vốn từ cũng như cách diễn đạt của trẻ trở nên thông minh, phong phú và nhanh nhẹn hơn.
- Phương pháp phát triển kỹ năng tự bảo vệ
5.1. Nguyên nhân áp dụng
Vòng tay cha mẹ, cô giáo có rộng bao nhiêu cũng khó có thể thực hiện được điều mong ước chở che cho trẻ suốt cuộc đời, khi trẻ ở bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào. Dạy trẻ kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ chính là phương cách hiệu quả nhất để nối rộng vòng tay yêu thương của cha mẹ, cô giáo dành cho trẻ đến trọn đời.
5.2. Cách áp dụng
Với kỹ năng tự vệ hay tự xoay xở, tôi hướng dẫn trẻ thông qua các bài học thực tế, trực quan. Ví dụ tổ chức trò chơi lái xe, giúp trẻ phân biệt đèn giao thông, cách lái xe an toàn, cách ngồi trên xe an toàn. Ngoài ra, tôi dạy trẻ biết các số điện thoại cơ bản như số điện thoại nhà, số điện thoại của ba mẹ, ông bà, nhớ địa chỉ nhà… phòng khi trẻ lạc hay cần sự giúp đỡ. Khi dạy trẻ kỹ năng sống tôi chú ý không bao giờ ép buộc trẻ khi thấy trẻ không có khả năng hoặc tỏ vẻ do dự.
Tôi cũng cùng trẻ trao đổi, xem video hình ảnh và tìm hiểu nhằm phân biệt các mối nguy hiểm, từ đây tìm ra các cách phòng chống nguy hiểm.
Các mối nguy hiểm trong nhà : Gas, Bàn ủi, Điện giật, Cửa sổ, Khói thuốc lá
Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bị bắt nạt, lạc đường.
Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, Kẹt thang máy, Chó cắn (Ong đốt), Ngộ độc Làm gì khi bị sặc, khi bị nước vào lỗ tai, khi bị côn trùng chui vào tai
Thiên tai: (động đất, sóng thần, lũ lụt, sấm sét, bị sa vào vũng lầy …)
5.3. Kết quả
Qua phần kĩ năng này, trẻ lớp tôi đã biết được cách tự giải quyết vấn đề đơn giản, hạn chế được tình trạng ỉ lại. Trẻ cũng biết được những mối nguy hiểm, cách phòng chống. Trong năm học 2012 -2013 lớp A3 không xảy ra 1 tình trạng tai nạn thương tích nào. Đó là những kết quả bước đầu tốt đẹp mà tôi thu nhận được.
- 6. Phương pháp phát triển kỹ năng làm việc đội nhóm
6.1. Nguyên nhân áp dụng,
Với lối sống tĩnh tại và ích kỉ trong thời đại ngày nay thì “làm việc” theo đội nhóm nhất định sẽ giúp trẻ thấm nhuần cảm xúc và tinh thần của cuộc sống “xã hội”. Đặc biệt với trẻ 5 tuổi, khi mà tính hiếu thắng trong trẻ là cực cao, thì qua các trò chơi tại trường sẽ giúp trẻ hiểu rằng thắng thua là một phần và là điều tất yếu của cuộc chơi. Nó sẽ giúp trẻ chấp nhận thất bại với một thái độ hoà nhã và chiến thắng với phong thái lịch sự. Ngoài ra, trẻ cũng sẽ phát triển các kĩ năng trí tuệ để giải quyết và vượt qua thất bại, những kĩ năng mà chẳng bao giờ dẫn đến những hậu quả tai hại trái lại còn làm cho trẻ thêm phấn chấn và tự tin vào chiến thắng nhưng không bị cuốn vào đó vì chiến thắng không phải là tất cả.
6.2. Cách áp dụng
Tôi sử dụng nhiều trò chơi tập thể, nhiều cơ hội để trẻ phát huy tinh thần tập thể để rèn luyện kĩ năng này. Ví dụ khi ăn cơm, tôi đặt tên cho từng bàn, động viên khuyến khích bàn số 1 (2…) ăn nhanh, ăn sạch. Điều này thôi thúc các bạn ngồi tại bàn đó phải tuân thủ nguyên tắc đồng đội để dành chiến thắng cho tập thể bàn số 1(2..) của mình. Còn qua chơi, đặc biệt các trò chơi tập thể, đội nhóm như chuyền bóng, chạy tiếp sức…trẻ phải chú ý lắng nghe bạn đội trưởng “phân công”, lắng nghe ý kiến của đồng đội khi ôm bóng theo cách nào…trẻ cũng sẽ học được cách đối phó khi chiến thắng cũng như khi thất bại. Nó cũng dạy cho trẻ cách tôn trọng đối thủ.
6.3. Kết quả
Có một câu nói rằng: hoạt động theo đội nhóm giúp trẻ khám phá ra sức mạnh của trái tim, khả năng chịu đựng của cơ thể và sự kiên nhẫn của tâm hồn. Qua những hoạt động tập thể, đội, nhóm, trẻ lớp tôi đã tiến bộ lên rất nhiều về sự tự tin, khả năng diễn đạt và chia sẻ tình cảm với bạn cùng đội. Trẻ cũng biết giúp đỡ bạn tốt hơn, quan tâm tới bạn nhiều hơn.
- Kết quả đạt được ( Phụ lục 2, trang 17)
Bảng tổng hợp kết quả:
Đầu năm ( 9/2012) | Cuối năm (3/2013) | |||
Số trẻ đạt/46hs |
% (100%)Số trẻ đạt/46hs% (100%)giao tiếp 18 39 4598thích nghi12 264496tự chăm sóc15 334393tạo niềm vui17 374496tự bảo vệ14 304291đội nhóm17 3746100
Theo kết quả được thể hiện qua biểu đồ: 6 chỉ số cơ bản thuộc kĩ năng sống đều có sự tăng lên so với đầu năm khi chưa thực hiện sáng kiến. Điều này chứng tỏ sáng kiến kinh nghiệm mầm non thật sự có hiệu quả. Bên cạnh đó, điều này còn chứng tỏ trẻ rất thích được tiếp thu và rèn luyện những kĩ năng đó.
Nguồn: giáo án mầm non
Link tải: http://tinyurl.com/lahj3og
Bồi dưỡng cán bộ nguồn kế hiệu trưởng mầm non
Bồi dưỡng cán bộ nguồn kế hiệu trưởng mầm non
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Trong suốt cuộc đời vĩ đại của Bác, công việc đào tạo cán bộ luôn được Bác chăm lo cho cả hiện tại và tương lai. Bác còn dạy: “ Không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm mà đào tạo được một cán bộ tốt. Cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”. Vì vậy, công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đòi hỏi phải thường xuyên, tận tâm, cần mẫn, chu toàn.
Thấm nhuần lời dạy của Người, trong nhiều năm qua Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng công tác cán bộ. Đảng xác định công tác cán bộ là công tác lớn của Đảng. Đặc biệt công tác cán bộ trong Giáo dục lại càng được quan tâm giáo án mầm non. Vì trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, giáo dục cũng như các lĩnh vực khác là một sân chơi bình đẳng. Nếu trước kia người cán bộ quản lý trường học là người chỉ thực hiện mệnh lệnh theo chỉ đạo từ cấp trên. Thì ngày nay, người cán bộ quản lý giáo dục phải là người chịu trách nhiệm trước cấp trên về mọi mặt hoạt động trong nhà trường, họ phải có khả năng xây dựng kế hoạch quản lý, tổ chức thực hiện, họ phải có kỹ năng giải quyết vấn đề để đưa nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đề ra trong năm học và đưa nhà trường ngày càng phát triển, đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Nhìn trước sự quy hoạch cán bộ quản lý của trường mầm non B Thị trấn Văn Điển khi 2/2 đồng chí hiệu phó tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm quản lý còn hạn chế. Đội ngũ giáo viên cốt cán hầu hết mới được tuyển dụng viên chức, còn non cả tuổi đời lẫn tuổi nghề. Vì vậy việc bồi dưỡng đội ngũ nòng cốt, đặc biệt là cán bộ nguồn kế cận ở trường mầm non B Thị trấn Văn Điển là rất cần thiết. Bởi nếu một trường học được xây mới khang trang, với một đội ngũ giáo viên có trình độ đạt chuẩn, nhưng không có cán bộ quản lý có phẩm chất chính trị, có năng lực chuyên môn, năng lực quản lý thì việc xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia là một khó khăn rất lớn.
Từ thực tế đơn vị, với kinh nghiệm của một cán bộ quản lý có 34 năm trong nghề, chỉ còn 03 năm nữa được nghỉ chế độ. Tôi hết sức trăn trở, tâm huyết muốn bồi dưỡng đội ngũ kế cận với mong muốn khi bản thân nghỉ hưu, đội ngũ cán bộ quản lý trẻ của trường có đủ đức, đủ tài, có kinh nghiệm để kế tục lớp cán bộ quản lý đi trước lãnh đạo nhà trường ngày một phát triển. Đồng thời tôi cũng mong muốn sẽ đào tạo, giới thiệu được những cán bộ nguồn kế cận xứng đáng vào nguồn cán bộ quản lý của bậc học mầm non huyện Thanh Trì. Góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường học trên địa bàn huyện, góp phần thực hiện tốt chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện ngành giáo dục như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương đảng khóa XI đã đề ra.
Vì vậy, tôi mạnh dạn trao đổi đề tài: “Biện pháp bồi dưỡng cán bộ nguồn kế cận của Hiệu trưởng ở trường mầm non B Thị trấn Văn Điển”.
* Mục đích của đề tài: nhằm tập hợp, đúc rút sáng kiến kinh nghiệm của bản thân sau 34 năm công tác.
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán của trường mầm non B Thị trấn Văn Điển.
Nâng cao chất lượng công tác quản lý chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ trong trường mầm non.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng khả năng lý luận, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cốt cán tại trường mầm non B Thị trấn Văn Điển từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 5 năm 2014.
Từ thực tiễn sau 3 năm áp dụng kinh nghiệm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên cốt cán giới thiệu vào nguồn cán bộ kế cận, trường mầm non B Thị trăn Văn Điển đã đạt được những kết quả đáng mừng. Công tác quản lý của nhà trường có nền nếp, chất lượng tốt, nhiều giáo viên đã được bổ nhiệm cán bộ quản lý tại trường và các trường mầm non trên địa bàn huyện Thanh Trì. Qua thực tế công tác, các cô đều đảm nhiệm tốt chức trách nhiệm vụ được giao, góp phần đưa trường mầm non B Thị trấn Văn Điển, cũng như các trường mầm non trong huyện ngày càng phát triển, đạt nhiều thành tích cao. Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội đánh giá bậc học mầm non huyện Thanh Trì liên tục dẫn đầu khối ngoại thành trong những năm gần đây.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
Theo Từ điển Tiếng Việt: Đội ngũ là tập hợp số đông người cùng chức năng, nhiệm vụ, nghề nghiệp hợp thành lực lượng hoạt động trong hệ thống (tổ chức) và cùng chung một mục đích nhất định. (29,tr32).
Theo đó, đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non là tập hợp những người làm công tác quản lý ở trường mầm non; họ có cùng lý tưởng, mục đích về vật chất, tinh thần và cùng thực hiện chức năng quản lý nhà trường để thực hiện các nhiệm vụ công tác của đơn vị, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, nhằm tiến tới mục tiêu chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ mầm non trong trường đạt kết quả tốt nhất.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ của nền kinh tế tri thức, nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế lao động, nền kinh tế chủ yếu dựa vào trí tuệ con người. Đầu tư cho phát triển tri thức trở thành yếu tố then chốt trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ thực tiễn trên, để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức theo quan điểm của Phó Giáo sư – Tiến sỹ Lưu Xuân Mới, giảng viên chính, nghiên cứu viên khoa Quản lý, học viện quản lý Giáo dục học thì vai trò của người cán bộ quản lý giáo dục hiện nay thay đổi một cách cơ bản. “Nếu trước kia người cán bộ quản lý trường học là người chỉ thực hiện mệnh lệnh từ cấp trên trong mọi lĩnh vực: chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính. Thì ngày nay trước yêu cầu của việc đổi mới căn bản, toàn diện ngành giáo dục, người cán bộ quản lý nhà trường phải là người quyết định, tổ chức thực hiện, minh bạch hóa các hoạt động chuyên môn, tổ chức, nhân sự và kĩ năng chủ yếu của họ là giải quyết vấn đề để đưa nhà trường ngày một phát triển, đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của xã hội”. Muốn làm được như vậy, người cán bộ quản lý giáo dục không chỉ hô hào mọi người học tập thường xuyên mà phải là tấm gương cho đội ngũ về học tập thường xuyên, suốt đời. Người cán bộ quản lý cần có kế hoạch về nghiên cứu khoa học quản lý, tự học, tự bồi dưỡng các kiến thức chính trị – xã hội, chuyên môn – nghiệp vụ quản lý, đo lường và đánh giá trong giáo dục, công nghệ thông tin, ngoại ngữ… để phát triển chính mình. Đồng thời, muốn trở thành một cán bộ quản lý giáo dục giỏi phải có tính kiên nhẫn, sự khổ luyện, lòng can đảm, tự tin… trong học tập thường xuyên và phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giáo dục.
Vì vậy, muốn có một đội ngũ cán bộ trẻ có phẩm chất đạo đức tốt, có nghiệp vụ quản lý vững vàng, thì người hiệu trưởng phải là người vừa có nhiệm vụ phát hiện, vừa có kế hoạch bồi dưỡng chỉ đạo sát sao, công tâm trong đánh giá để tìm ra những cán bộ có phẩm chất tốt, trình độ chuyên môn vững vàng, có tố chất của người quản lý. Trên cơ sở đó giới thiệu quy hoạch vào nguồn để đào tạo trở thành cán bộ quản lý các trường mầm non trong tương lai.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm chung:
Trường mầm non B Thị trấn Văn Điển là một trong 2 trường mầm non công lập của huyện Thanh Trì, nằm ở trung tâm huyện, thuộc địa bàn thị trấn Văn Điển, đóng tại khu tập thể Pin Thị trấn Văn Điển. Trường được thành lập từ năm 1962, từ năm học 2008-2009 đến nay trường liên tục được công nhận tập thể lao động xuất sắc cấp Thành phố, được Chủ tịch uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ, Công đoàn giáo dục Việt Nam tặng Bằng khen. Hàng năm trường mở dạy 11 lớp, trong đó có 02 nhóm trẻ và 09 lớp mẫu giáo, với tổng số 63 cán bộ giáo viên, nhân viên (giáo viên là 40 cô) và 609 học sinh. Trong đó:
– Trình độ trên chuẩn của giáo viên: 9/40 = 22%
– Đảng viên là giáo viên : 5/40 = 12,5%
– Trung cấp lý luận chính trị : 0
– Trình độ quản lý mầm non : 0
– Trình độ tin học cơ bản (chứng chỉ A): 8/ 40 = 20%
Từ một trường hiệp quản chuyển sang công lập, phát triển mạnh về quy mô trường lớp, số trẻ vào trường hàng năm đều tăng, kéo theo đòi hỏi phát triển mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ. Thực tế đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường lại gặp rất nhiều khó khăn. Bản thân tôi mặc dù có kinh nghiệm hơn 30 năm công tác trong ngành, đảm nhiệm những chức vụ quản lý cả về công tác đoàn thể, công tác chính quyền, công tác Đảng: Phó chủ tịch công đoàn ngành Giáo dục huyện, Bí thư chi bộ, hiệu trưởng. Bản thân luôn nhiệt tình, tận tâm trong công việc, có năng lực quản lý, sáng tạo trong công việc. Liên tục 14 năm (từ 1999 đến nay) đã có 14 sáng kiến kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn, quản lý mầm non đạt giải cấp thành phố; 9 năm liên tục đạt Giáo viên giỏi cấp huyện, Thành phố; 6 năm liên tục từ 2008 đến nay đạt Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, nhưng mới được Huyện ủy, UBND huyện Thanh Trì điều động, bổ nhiệm từ đơn vị khác về trường từ năm 2006. Hai cô hiệu phó: một cô chuẩn bị nghỉ chế độ, một cô mới được bổ nhiệm tháng 4 năm 2009.
- Phân tích thực trạng.
Từ những đặc điểm trên trường gặp một số khó khăn và thuận lợi trong công tác bồi dưỡng cán bộ nguồn kế cận như sau:
2.1. Thuận lợi:
– Đảng và chính quyền các cấp rất quan tâm đến giáo dục mầm non, đặc biệt là công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ là một trong ba đề án của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2015 và những năm tiếp theo.
– Huyện ủy Thanh Trì đã có Hướng dẫn số 15-HD/HU ngày 20/02/2009 của Ban thường vụ Huyện ủy Thanh Trì về hướng dẫn tiêu chuẩn, xây dựng quy hoạch cán bộ nguồn giai đoạn 2010-2015.
– Ban giám hiệu có năng lực quản lý, đoàn kết, nhất trí cao trong công tác chỉ đạo.
– Do đặc thù trường công lập 100% giáo viên được tuyển dụng viên chức nên trình độ chuyên môn đội ngũ vững vàng, đây là mặt thuận lợi và cũng là một trong những tiêu chuẩn để được quy hoạch nguồn cán bộ quản lý của huyện Thanh Trì. Trong khi hầu hết các trường mầm non khác trong huyện số giáo viên được tuyển dụng viên chức những năm trước rất ít.
– 32/40=80% giáo viên ở độ tuổi dưới 30.
– 33/40=82% giáo viên được đào tạo hệ trung cấp chính quy.
– Tập thể đoàn kết, nhiệt tình, có trách nhiệm cao trong công việc.
2.2. Khó khăn:
– 2 cô hiệu phó kinh nghiệm quản lý còn non nớt, kỹ năng xây dựng kế hoạch quản lý hầu như chưa có.
– Hầu hết cán bộ các đoàn thể, tổ trưởng chuyên môn các khối trẻ, kinh nghiệm quản lý còn yếu. Khả năng tuyên truyền, thuyết trình trước đám đông còn gặp nhiều khó khăn, diễn thuyết chưa mạch lạc, thiếu tự tin.
– Tỷ lệ giáo viên là đảng viên thấp, hầu hết giáo viên cốt cán chưa có trình độ lý luận chính trị, quản lý mầm non, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế.
Từ thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu, áp dụng một số biện pháp để phát huy các thuận lợi, khắc phục các điểm yếu trong việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ nguồn kế cận ở trường mầm non B Thị trấn Văn Điển.
III. Các biện pháp thực hiện:
- Xây dựng kế hoạch quy hoạch đội ngũ CBQL
Công tác xây dựng kế hoạch là giải pháp chúng tôi đưa lên hàng đầu. Bởi vì kế hoạch, chính là kim chỉ nam để chúng ta căn cứ vào đó tiến hành, đánh giá, định liệu công việc. Một người làm việc không có kế hoạch từ trước sẽ ví như người mù dò dẫm đi trong đêm tối mà không biết mình đang đi đâu.
Căn cứ thực trạng của trường, căn cứ hướng dẫn số 15-HD/HU ngày 20/02/2009 của Ban thường vụ Huyện ủy Thanh Trì về hướng dẫn xây dựng quy hoạch cán bộ nguồn giai đoạn 2010-2015, theo quan điểm của huyện ủy Thanh Trì quy hoạch cán bộ: phải đảm bảo “mở” và “động”. Mở tức là không khép kín trong quy hoạch cho từng đơn vị, mà quy hoạch cán bộ nguồn kế cận cho bậc học mầm non của huyện;… Từ thực tế đơn vị và chỉ đạo của cấp trên tôi đã xây dựng kế hoạch đề ra các nội dung, mục tiêu bồi dưỡng phát triển cán bộ nguồn kế cận của nhà trường. Tham mưu cấp ủy, Đảng ủy, phòng GD phê duyệt những chỉ tiêu, mục tiêu phấn đấu cụ thể trong việc bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ kế cận giai đoạn 2010-2015 như sau:
TT | Nội dung | Kế hoạch dài hạn (2010-2013) | Kế hoạch năm học 2013-2014 | Hình thức bồi dưỡng | Địa điểm bồi dưỡng |
1 | Bồi dưỡng đội ngũ ban giám hiệu | ||||
+ | Có kiến thức quản lý giáo dục mầm non | 3 cô | 3 cô | Cử đi học lớp Quản lý mầm non. | Tại trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục Hà Nội |
+ | Có tr×nh ®é ®µo t¹o trªn chuÈn | 3 cô | 3 cô | Cử đi học các lớp đào tạo tại chức | Trường Đại học sư phạm Hà Nội |
+ | Có trình độ trung cấp chính trị | 3 cô | 3 cô | Giới thiệu cấp ủy cử đi học các lớp trung cấp lý luận chính trị | Tại Trung tâm bồi dưỡng Chính trị huyện Thanh Trì |
+ | Có trình độ chứng chỉ B Tin học | 3 cô | 3 cô | Tham gia đề án nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo do Phòng GD&ĐT huyện Thanh Trì mở | Tại Trung tâm dạy nghề Thanh Trì. |
+ | Có trình độ cử nhân quản lý giáo dục | 0 | 2 cô | Trung tâm dạy nghề huyện Thanh Trì | |
+ | Kỹ năng xây dựng kế hoạch quản lý các hoạt động trong trường mầm non | 3 cô | 2 cô | Bồi dưỡng tại chỗ và qua các lớp tập huấn, lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý mầm non | – Thông qua các hoạt động thực tiễn.- Qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn hàng năm do PGD mở. |
2 | Xây dựng đội ngò giáo viên đủ tiêu chuẩn được bổ nhiệm cán bộ nguồn (10 cô) | ||||
+ | Có kiến thức quản lý giáo dục mầm non | 6 cô | 03 cô | Cử đi học lớp Quản lý mầm non. | Tại trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục Hà Nội |
+ | §¹t tr×nh ®é trªn chuÈn | 7 cô | 6 cô | Cử đi học các lớp đào tạo tại chức | Trường Đại học sư phạm Hà Nội |
+ | Cã tr×nh ®é tin häc B | 5 cô | 7 cô | Tham gia đề án nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo do Phòng GD&ĐT huyện Thanh Trì mở | Tại Trung tâm dạy nghề Thanh Trì. |
+ | Có trình độ trung cấp chính trị | 5 cô | 3 cô | Giới thiệu cấp ủy cử đi học các lớp trung cấp lý luận chính trị | Tại Trung tâm bồi dưỡng Chính trị huyện Thanh Trì |
+ | Kỹ năng tuyên truyền, tham mưu, thuyết trình trước Hội nghị. | 5 cô | 3 cô | Bồi dưỡng tại chỗ và qua các lớp tập huấn, lớp bồi dưỡng giáo viên cốt cán. | – Thông qua các hoạt động thực tiễn.- Qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn hàng năm do PGD mở. |
Kết quả: hết tháng 9 năm 2010 tôi đã xây dựng xong kế hoạch bồi dưỡng cán bộ quản lý của đơn vị, được các đồng chí trong BGH, cấp ủy chi bộ, Đảng ủy Thị trấn, phòng GD đồng tình, đánh giá tốt.
- Tổ chức bồi dưỡng nguồn.
2.1. Bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp:
Trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nguồn không thể không chú trọng đào tạo bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề giáo. Bởi nghề giáo là nghề “Dạy người”, nên người cán bộ quản lý phải là người có phẩm chất chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, phải hiểu biết, nắm vững những quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng và triển khai có hiệu quả các văn bản quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước, ngành,… liên quan đến giáo dục. Đồng thời nhà giáo phải có đạo đức nghề nghiệp, yêu nghề, tận tụy với nghề. Lối sống, tác phong, giao tiếp ứng xử phải mô phạm, phù hợp với chuẩn mực nhà giáo, góp phần nâng cao vị thế của cá nhân nói riêng, ngành giáo dục nói chung. Để thực hiện có hiệu quả công tác bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên mầm non, tôi đã thực hiện các hình thức bồi dưỡng sau:
* Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng viên.
Những năm trước do đặc thù đơn vị chịu sự quản lý của Công ty Cổ phần Pin Văn Điển nên việc bồi dưỡng đội ngũ còn gặp rất nhiều khó khăn. Từ năm 2008, chi bộ Đảng, chi đoàn Thanh niên đầu tiên của trường được thành lập, tôi đã tích cực tham mưu đề xuất cấp ủy giới thiệu các cô giáo trẻ có trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, tận tụy với công việc, có hướng phấn đấu đi học các lớp tìm hiểu về Đảng do Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Thanh Trì mở. Trên cương vị bí thư chi bộ, tôi luôn đặt công tác phát triển Đảng viên trẻ và bồi dưỡng lập trường tư tưởng, tuyên truyền quan điểm đường lối chủ trương của Đảng lên vị trí hàng đầu. Sau khi các cô giáo hoàn thành khóa học tìm hiểu về Đảng, tôi phân công cụ thể từng đồng chí trong cấp ủy chịu trách nhiệm theo dõi, giúp đỡ. Họp cấp ủy ra Nghị quyết thời gian phát triển Đảng đối với từng giáo viên trong diện cốt cán, phấn đấu mỗi năm phát triển từ 3 đến 4 đảng viên. Đồng thời ban giám hiệu phân công các nhiệm vụ, công việc chuyên môn cũng như công tác đoàn thể, công tác phong trào cho các cô giáo đã qua lớp cảm tình Đảng để tạo cơ hội cho các cô phấn đấu và chi bộ thử thách trong thời gian phấn đấu vào Đảng. Tiếp đó chúng tôi luôn tích cực trong việc đi xác minh thẩm tra lý lịch, phối hợp giữa đơn vị và cấp ủy địa phương nơi cư trú để đẩy mạnh công tác phát triển Đảng viên mới.
Nguồn: thiết bị mầm non
link tải: http://tinyurl.com/q2cfwk3
Hoạt động tạo hình sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Hoạt động tạo hình sáng kiến kinh nghiệm mầm non
PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài
Hoạt động tạo hình là một hoạt động nghệ thuật chiếm một vị trí quan trọng. Hình thành nhân cách trẻ ngay từ những năm đầu của cuộc sống. Thông qua HĐTH trẻ được khám phá ý thích vẻ đẹp kỳ diệu. Đây cũng là lứa tuổi ham hiểu biết có nhu cầu lớn trong việc nhận thức khám phá thế giới xung quanh, yêu cái đẹp sáng tạo cái đẹp.
Trong giáo dục MN, HĐTH có mối quan hệ chặt chẽ với HĐVC. Khi tham gia chơi khả năng nhận thức và tính sáng tạo của trẻ dần dần được hình thành và phát triển từ đó làm phong phú trí tưởng tượng nhận thức và xúc cảm tình cảm của trẻ qua những bài xé dán, nặn, vẽ..
Đối với MG vui chơi là hoạt động chủ đạo nhưng nó được tính hợp lồng ghép trong mọi hoạt động. Thông qua HĐTH trẻ lĩnh hội được những kinh ngiệm xã hội loài người kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật giúp trẻ hình thành và nâng cao dần năng lực sáng tạo và vốn thâm mỹ vốn có của mình uốn ắn được những thị yếu cho đúng hướng.
Bản chất của HĐTH là hoạt động nghệ thuật, con người luôn vươn tới cái đẹp vươn tới cái ” chất thiện mỹ ” .Do vậy người ta càng quan tâm đến nghệ thuật sáng tạo nghệ thuật và thưởng thức nghệ thuật HĐTH nói chung và HĐXD nói riêng có vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn trẻ. HĐXD là hoạt động khó nhất nhất trong HĐTH đòi hỏi bàn tay khéo léo, óc quan sát tư duy, trí nhớ tưởng tượng…góp phần phát triển trí tuệ, trẻ tìm tòi khám phá để tạo ra bức tranh đẹp giúp cho trẻ hiể biết thêm những kiến thức cơ bản của HĐTH vá sử dụng hiệu quả trong tác phẩm nghệ thuật của mình .
Trong tác phẩm nghệ thuật xé dán của trẻ người ta có thể nhận thấy được trẻ muốn nói gì (ngôn ngữ tạo hình) thể hiện tình cảm gì (phương tiện truyền cảm)
Cũng như mơ ước ngày thơ của trẻ…Chính vì vậy cần tích cực cho trẻ hoạt động tạo hình nhất là hoạt động vẽ của trẻ.
Trên thực tế em thấy chất lượng các giờ dạy HĐTH ở trường MN. Chưa cao bởi các giờ học mang tính khuôn mẫu, áp đặt. Bài xé dán của các em mang tình tái tại dập khuôn. Thiếu đi sự mềm mại và ít có tính sáng tạo. Trong đó quá trình tổ chức các tiết học tạo hình của GV. Còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Việc đưa yếu tố chơi vào tiết học còn rất hạn hẹp mà lứa tuổi MN trẻ phải được “Học mà chơi, Chơi mà học”. Nhà tâm lý học Hà Lan IBBC de dop đã từng nói”Nếu tiến hành tiết học dưới hình thức trò chơi thì tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn” HĐTH cũng vậy việc đưa các yếu tố chơi vào tiết học sẽ làm tăng hướng thú cho trẻ, tạo lên tâm trạng phấn khởi mong muốn được tạo ra sản phẩm của mình thông qua các phương tiện tạo hình, đường nét, bố cục, màu sắc, giấy màu…
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã chon đề tài: ” Thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ mẫu giáo lớn 5 -6 tuổi phát triển kĩ năng xé dán “ Do trình độ hiểu biết của tôi còn hạn chế. Kính mong quý thầy cô giúp đỡ để bài tập của tôi được hoàn thiện hơn
2) Mục đích đề tài
Thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MGL. Nâng cao phát triển kỹ năng xé dán. Để từ đó nâng cao hiệu quả của việc giáo dục nghệ thuật mang tính tích hợp nhằm phát triển và giáo dục toàn diện cho trẻ
3) Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu lý luận xây dựng lý luận, hệ thống hóa một số lý luận trong việc “Thiết kế một số trò chơi”. Tạo hình nhằm nâng cao phát triển kỹ năng xé dán cho trẻ MG
3.2. Nghiên cứu thực trạng của đề tài
Tìm hiểu thực trạng trong việc tổ chức HĐTH cho trẻ MG hiện nay ở trường MN bán công Tri Trung – Phú Xuyên – Thành Phố Hà Nội
3.3.Thiết kế và tiến hành thực nghiệm áp dụng một số trơ chơi – Tạo hình để xác định hiệu quả giáo dục của các tró chơi đã thiết kế
4) Giả thiết khoa học
Nếu thiết kế một số trò chơi – tạo hình giúp trẻ nâng cao kỹ năng xé dán cho trẻ trong các đường nét trang trí dán, bố cục, giấy màu, nội dung…thì sẽ bồi dưỡng được khả năng quan sát và cung cấp vốn hiểu biết cho trẻ, kích thích được tình cảm, xúc cảm, thẩm mỹ, từ đó sẽ giúp trẻ nâng cao kỹ năng xé dán thông qua HĐTH
5) Giới hạn nghiên cứu
Khóa luận này nghiên cứu thiết kế một số trò chơi – tạo hình dành cho trẻ MGL.( 5 – 6T ) ở các trường MN các tiết học tạo hình tập chung vào thể loại xé dán
6) Khách thể và đối tượng nghiên cứu
6.1. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu việc tổ chức HĐTH cho trẻ từ 5-6T trong trường MN
6.2. Đối tượng nghiên cứu: Các trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MGL ( 5-6T ) nâng cao kỹ năng xé dán
7) Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, đọc, phân tích tài liệu đẻ xây dựng cơ sở định hướng cho đề tài
7.2. Phương pháp quan sát tự nhiên
– Quan sát HĐTH tự nhiên của cô và trẻ từ đó nhân xét, phân tích thực trạng của lớp nghiên cứu thực trạng trong khoảng 15 – 20 tiết học hoạt động xé dán của trẻ
7.3. Phương pháp điều tra
– Điều tra dán tiếp: điều tra bằng phiếu câu hỏi : đưa ra hệ thống câu hỏi xoay quanh HĐTH và cách tổ chức tiết HĐTH ra sao tại trường MN Tri Trung đối tượng MGL. Hệ thống câu hỏi đưa ra giáo viên đánh dấu vào những phần mình đã thực hiện được và ý kiến đề xuất các hình thức biện pháp nhằm nâng cao HĐTH
– Điều tra trực tiếp:
Tiến hành điều tra: chuẩn bị hệ thống câu hỏi sẵn đến từng lớp, gặp gỡ GV trao đổi về việc tổ chức HĐTH trong trường MN. Và việc đưa yếu tố chơi vào HĐTH
7.4. Phương pháp nghiên cứu HĐTH của trẻ :
-Thu thập sản phẩm tạo hình của trẻ, xem xét, phân tích quá trình hoạt động tạo hình xé dán của trẻ trong trò chơi bổ trợ
7.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
– Đây là phương pháp dùng để kiểm nghiệm những trò chơi đã thiết kế trong việc xây dưng đề tài.
– Thực nghiệm gồm 3 Bước. Chọn lớp MGL : gồm 15 – 20 trẻ cho một nhóm
Một nhóm đối chứng, một nhóm thưc nghiệm
Yêu cầu : Hai nhóm trên số trẻ tương đương về nhận thức và khả năng thực hiện
- a) TNKS : cho 3 bài xé dán dạy hai nhóm như sau
Quan sát hai nhóm đó kết quả
- Tiến hành thực nghiệm tác động
– Một nhóm đối chứng hoạt động tạo hình tự nhiên
– Một nhóm thực hiện có lồng ghép trò chơi do GV thiết kế : ( thực hiện thời gian 2 tháng )
- c) Thực nghiệm kiểm chứng
Tiến hành kiểm chứng bằng cách cho một bài tập chung cho cả hai nhóm.
Nhận xét, phân tích, so sánh kết quả sản phẩm của 2 nhóm và đưa ra kết luận cụ thể
7.6. Phương pháp sử lý số liệu bằng thống kê toán học:
Thống kê số liệu và tính % nhằm sử dụng số liệu thu được vào phân tích kết quả nghiên cứu.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1) Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
– Để tìm hiểu về quá trình và phát triển HĐTH của trẻ em, chúng ta xem xét sự phát triển của một dạng hoạt động mang tính tạo hình đặc trưng nhất và xuất hiện sớm nhất đó là hoạt động xé xé dán
Có nhiều quan điểm và nhiều cách phân loại khác nhau về các thời kỳ phát triển của HĐTH tuy nhiên đứng từ góc độ giáo dục MN có thể phân quá trình phát triển HĐTH của trẻ em mà cụ thể là hoạt động xé dán thành hai thời kỳ.Thời kỳ tiền tạo hình và thời kỳ tạo hình
– Thời kỳ tiền tạo hình: Thời kỳ này bắt đầu không giống nhau ở đứa trẻ thường vào cuối năm thứ 2 thời kỳ này diễn ra qua nhiều gia đoạn những đường nét lộn xộn không có ý nghĩa. Lúc này trẻ chưa có ý định thể hiện một sự nhất định nào cả các chi tiết xé chỉ là kết quả của sự thỏa mãn nhu cầu vận động khám phá thế giới xung quanh đồng thời cũng là kết quả của trẻ bắt chước hành động của người lớn. Sự ham thích thực hiện ” thao tác xé ” ở giai đoạn này chính là những biểu hiện tính tích cực khảo sát – định hướng. Một chức năng tâm lý được được hình thành trong quá trình vận động với đồ vật và giao tiếp người lớn. Lúc này trẻ vô cùng thỏa mãn khi nhìn thấy dấu vết hiện nên do chính mình tạo nên càng ngày trẻ càng bị thu hút vào những vận động
2) Các nội dung HĐTH của trẻ MN
– Nhóm nội dung 1 :
Các kiến thức, kỹ năng, năng lực thể hiện sự vật đơn giản
+ Sự thể hiện về hinh dạng
+ Sự thể hiện về kích thước của các vật mẫu và các bộ phận của chúng
+ Sự thể hiện cấu trúc
+ Sự thể hiện màu sắc
– Nhóm nội dung 2 :
Các kiến thức, kỹ năng, năng lực giúp trẻ thể hiện một nội dung mạch lạc
+ Sự thể hiện bố cục trong không gian
+ Sự thể hiện kích thước tương đối và tư thế của các hình ảnh
– Nhóm nội dung 3 :
Các tri thức, kỹ năng, năng lực trang trí
+ Sự sắp xếp vị trí không gian của bố cục trang trí
+ Sự lựa chọn hình dáng, họa tiết
+ Sự thể hiện màu sắc
– Nhóm nội dung 4 :
Các tri thức các kỹ năng có tính chất kỹ thuật về kiến thức và kỹ năng xé dán
Các kỹ thuật xé dán xé cần được luyện tập và sử dụng linh hoạt tùy theo nội dung nghệ thuật và ý tưởng biểu cảm
2.1. Vai trò HĐTH đối với việc giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ
– Đối với việc giáo dục và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ HĐTH có vị trí rất quan trọng .
– HĐTH là một trong những hoạt động hấp dẫn nhất đối với trẻ MG, nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiển một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh những gì làm trẻ rung động mạnh mẽ và gây cho chúng những xúc cảm, tình cảm, tích cực
– HĐTH là hoạt động có đầy đủ điều kiện để đảm bảo sự tác động đồng bộ lên mọi mặt phát triển của trẻ em, về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và hình thành các phẩm chất kỹ năng ban đầu của con người như một thành viên trong xã hội biết lao động tích cực sáng tạo.
2.2.Cách tổ chức HĐTH cho trẻ MN
2.2.1.Các phương pháp tổ chức HĐTH cho trẻ MN chính là hệ thống tác động qua lại của nhà sư phạm với trẻ để tổ chức hoạt động nhận thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ và hoạt động thực tiễn cho trẻ nhằm bồi dưỡng các năng lực tạo hình giúp trẻ là lắm được những hiểu biết cũng như các kỹ năng, kỹ xảo tạo hình, hình thành và phát triển ở trẻ khả năng sáng tạo.
Dựa vào bản chất HĐTH của trẻ em vào mục đích nhiệm vụ giáo dục và phát triển của hoạt động, vào đặc điểm nhận thức xúc, cảm tình cảm và khả năng hoạt động của trẻ MN, ngày nay người ta phân loại các nhóm phương pháp tổ chức như sau:
- a) Nhóm phương pháp thông tin – tiếp nhận
a.1.Ý nghĩa:
Đây là các phương pháp tạo điều kiện phát triển ở trẻ tri giác thẩm mỹ, giúp trẻ hiểu biết về nội dung miêu tả và phương thức tạo hình, hình thành hứng thú, bồi dưỡng khả năng cảm thụ thẩm mỹ.
a.2. Nội dung :
Nhóm phương pháp này bao gồm các quá trình quan sát, nghiên cứu các đối tượng miêu tả như các sự vật, các đồ chơi, các mô hình trang, ảnh, tranh minh họa và những quá trình cung cấp cho trẻ thông tin về các sự vật, hiện tượng xung quanh .
Nhóm phương pháp này còn gồm các quá trình hướng dẫn cho trẻ các phương thức, các kỹ năng tạo hình.
a.3. Yêu cầu về việc sử dụng
Trong nhóm này có 3 phương pháp cơ bản : quan sát, chỉ dẫn trực quan và dùng lời. Chúng ta sẽ xem sét các yêu cầu sử dụng của từng phương pháp đó.
Phương pháp quan sát :
Khi quan sát cần giúp trẻ tích cực vận dụng khả năng cảm giác, tri giác, hình thành các biểu tượng rõ nét về đối tượng miêu tả.
Quan sát không chỉ dừng lại ở nhận biết mà còn phân tích để tiến tới đánh giá thẩm mỹ thưởng thức cái đẹp.
Quá trình quan sát phải được tổ chức tốt để từng bước tạp cho trẻ biết phân tích, khái quát hóa hình ảnh của đối tượng tri giác. Những phương thức tri giác khái quát này sẽ được trẻ sử dụng để nắm bắt đặc điểm của nhiều sự vật, từ đó dễ dàng thiết lập các sơ đồ, phân biệt sự giống và khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng và dễ dàng tìm kiếm phương thức miêu tả phù hợp .
Khi quan sát một vật, cần tập cho trẻ biết dùng các thao tác trí tuệ để ” phân tách ” đối tượng thành các chi tiết, các bộ phận, sau đó tìm hiểu các đặc điểm, thuộc tính của chúng rồi ” lắp ghép ” chúng lại để từ đó nắm bắt hình ảnh, biểu tượng chung của đối tượng, đồng thời phát hiên ra những nét độc đáo của nó.
Một quá trình quan sát thường phải là sự phối hợp rất linh hoạt và hợp lý của các quá trình tri giác bao quát với tri giác tập trung. Cần giúp trẻ biết bắt đầu bằng quan sát bao quát toàn bộ diện mạo của đối tượng.
Nắm vững cách thức, kỹ năng quan sát như vật trẻ sẽ trở nên tích cực và tự lập tích lũy vốn kinh nghiệm xúc cảm, tri giác thẩm mỹ của trẻ sẽ dần dần hình thành và trở nên phong phú, làm cơ sở phát triển óc sáng tạo.
Hiệu quả của quá quan sát phụ thuộc không chỉ vào việc cho trẻ rèn luyện các cơ quan cảm giác mà còn vào việc cung cấp cho trẻ các chuẩn cảm giác mang tính xã hội ( các hình hình học cơ bạn, hệ thống các màu quang phổ, các cấu trúc nhịp điệu,…). Khả năng sử dụng các chẩn cảm giác trong quá trình cảm giác trong quá trinh quan sát, trong sát trong quá trình tạo nên hình ảnh hay mô hình tâm lý của đối tượng quan sát cũng là yếu tố quan trọng đem lại hiệu quả cho tri giác thẩm mỹ.
Chính vì vậy mà khi tổ chức cho trẻ quan sát các GV cần tập cho trẻ luôn tích cực so sánh, đối chiếu, tìm mối quan hệ giữa các tính chất, đặc điểm của sự vật với các chuẩn cảm giác mà trẻ biết.
Chất lượng của quá trình quan sát phụ thuộc phần lớn vào sự tham gia tích cực của trẻ, vào mối liên hệ với hoạt động lời nói và việc thực hiện các thao tác tri giác.
Việc tổ chức quan sát các hiện tượng, khung cảnh thiên nhiên, các sự kiện, cảnh sinh hoạt trong xã hội đòi hỏi sự tổ chức, chuẩn bị kỹ lưỡng hôn so với quá trình tổ chức quan sát các vật mẫu đơn lẻ. Để tránh hiện tượng nhiễu loạn, khó tập trung khi trẻ quan sát khá nhiều sự vật trong khung cảnh rộng, GV nên sắp xếp công việc chuẩn bị như sau :
– Lựa chọn đối tượng ;
– Lựa chọn thời điểm, góc độ quan sát làm sao cho trẻ thấy rõ mọi chi tiết đặc trưng nhất
– Suy nghĩ các câu hỏi để hướng sự chú ý cho trẻ vào những nét cơ bản của đối tượng, vào những đăc điểm cần thiết cho quá trình miêu tả của trẻ sau này.
Việc tổ chức quan sát trong hoạt động tạo hình cần được tiến hành một cách sinh động để gây hướng thú và hình thành các xúc cảm, tình cảm thảm mỹ ở trẻ. Các thao tác tổ chức quan sát vào trình tự quan sát phải được nghiên cứu kỹ phù hợp với đối tượng quan sát để sao cho khi kết thúc quá trình quan sát, trẻ có thể hiểu và hình dung ra trình tự của quá trình miêu tả, sự vận hành của các thao tác tạo hình và kết quả cần đạt được của sự thể hiện sau hoạt động.
Phương pháp chỉ dẫn trực quan :
Việc cho trẻ làm quen với các thủ pháp miêu tả mới cũng được tiến hành thông qua một trong những phương pháp của nhóm phương pháp thông tin – tri giác – đó là tri giác trực quan khi bắt đầu làm quen với hoạt dộng tạo hình, trẻ nhỏ cần phải học được cách thức sử dụng các loại dụng cụ và vật liệu ( bút chì, bút sáp, giấy, kéo, hồ dán, đát nặn,…). Trẻ cần phải nắm được các biện pháp truyền đạt hình dáng và các đặc điểm thẩm mỹ của đối tượng miêu tả bằng các kỹ thuật tạo hình khác nhau : kỹ thuật vẽ, nặn, xếp dán…
Muốn hình thành ở trẻ tất cả những hiểu biết, những kỹ năng cần phải chỉ dẫn, phải giả thích cho trẻ về cách thức hành động, về đặc điểm của các thao tác tạo hình.
Khi sử dụng phương pháp chỉ dẫn trực quan cần lưu ý một số điểm sau:
– Không nên chỉ dẫn các biện pháp miêu trả trên môĩ giờ học. Điều này chỉ cần thiết khi trẻ lần đầu tiên làm quen biên pháp đó, hoặc khi trẻ lắm chưa vững những biên pháp đã được hướng dẫn.
– Cùng với việc tổ chức chỉ dẫn, giả thích cần giúp trẻ tích cự huy động kinh nghiệm của mình, tập cho trẻ thói quen khi tiếp thu một thông tin mới, một biện pháp miêu tả mới cân biết đối chiếu, so sánh với những gì đã tiếp thu, tích lũy được từ trước đó, tự xây mối liên quan lại giưa cái mới và cái đã biết. Có thể cho trẻ tham gia vào quá trình chỉ dẫn ( lên bảng trình bày lại biện pháp tạo hình cần thiết, cùng nhau nhớ lại những gì đã làm trước đó) để hình thành, bồi dưỡng cho trẻ tính tích cực,độc lập trong hoạt động.
– Tùy theo mục đích, nhiệm vụ của giờ hoạt động và khả năng tạo hình của trẻ mà phối hợp linh hoạt giưa phương pháp chỉ dẫn toàn phần với phương pháp chỉ dẫn từng phần.
Phương pháp dùng lời :
Hoạt động lời nói đóng vai khá quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả của toàn bộ quá trình tạo hình: từ việc nghiên cứu đối tượng miêu tả, cảm nhận giá trị thẩm mỹ của đối tượng tới việc tổ chức khâu thể hiện – biểu cảm và đặc biệt la việc đánh giá, thưởng ngoạn thành quả của hoạt động nghệ thuật.
Các phương pháp, biện pháp dùng lời gồm : những lời dẫn, lời kể, những lời nói truyền cảm để mô tả vẻ đẹp của sự vật, những lời giải thích, chỉ dẫn, những câu hỏi – trả lời, những lời đàm thoại, trao đổi,… và cả thủ pháp ngôn ngữ kích xúc cảm như những bài hát, bài thơ, câu đố, câu chuyện…
Tính chất của phương pháp dùng lời phải được xác định và sử dụng phù hợp với nội dung thông tin và ngữ cảnh .Chẳng hạn, những lời giả thích, chỉ dẫn phương pháp tạo hình cần rõ dàng, ngắn gọn, dễ hiểu, những lời nói mô tả vẻ đẹp của sự vật lại phải sinh động đầy tính tưởng tượng , gợi cảm…phù hợp với khả năng tiếp nhận của trẻ. Những câu thơ, những bài hát, những mẩu chuyện sinh động được lồng vào một cách hợp lý và đúng chỗ sẽ giúp trẻ không chỉ hiểu về sự vật một cách chính xác, đầy đủ mà còn tạo điều kiện cho trẻ hình dung về đối tượng miêu tả, một cách rõ nét, đầy tính thẩm mỹ, chất nghệ thuật phong phú và từ các sản phẩm đó sẽ dẫn tới sự tượng sáng tạo nghệ thuật
Việc kích thích và phát triển lời nói của trẻ trong hoạt động nhận thức thẩm mỹ như hoạt động tạo hình là việc làm rất đáng chú ý : Để có thể huy động tích cực mọi khả năng của mình, trẻ cần được tự do trong thể hiện, cần được đàm thoại, trao đổi với nhau các cảm xúc, suy nghĩ, dùng ngôn ngữ nói mạch lạc để trình bày về những gì đã làm và sẽ làm, về các phương pháp miêu tả đã học cùng cách ứng dụng chúng, về những phương tiện tạo hình cần thiết để thể hiện để tài mới, về sự thành công của mình, của bạn.
Những biện pháp dùng lời nói có thể được sử dụng trong cả quá trình miêu tả ( xác định lại trình tự hành động, nhắc nhở, hỏi lại những gì mà trẻ quên, gợi cho trẻ nhớ lại, gợi cho trẻ bổ sung, làm phong phú cho hình ảnh được miêu tả…)
Trong một hoạt động mang tính sáng tạo nghệ thuật như hoạt động tạo hình cần tích cực sử dụng ngôn ngữ văn học, những lời nói so sánh , hình tượng hóa,…Lời nói của cô giáo cũng đặc biệt quan trọng trong quá trình nhận xét các sản phẩm của trẻ : Nó phải gây cho trẻ niềm vui sướng vì những gì chúng đã tạo nên, phải nhấn mạnh những thành công sáng tạo, những ý định tạo hình thú vị của trẻ, phải chỉ cho trẻ thấy sự giống nhau giữa sự vật với hình ảnh được miêu tả và giúp cho trẻ thể hiện tình cảm, thái độ trước kết quả hoạt động.
- Nhóm phương pháp thực hành – ôn luyện
b.1. Ý nghĩa
Phương pháp thực hành – ôn luyện là một hoạt động của cả GV và trẻ nhằm củng cố tri thức, bồi dưỡng các kĩ năng, rèn luyện, hình thành các kĩ xảo trong hoạt động tạo hình.
b.2. Nội dung
Bao gồm các cách thức hướng dẫn, các hoạt động, các bài tập tạo hình nhằm tổ chức cho trẻ vận dụng tích cực những hiểu biết, những thông tin mới tiếp thu được, tạo điều kiện cho trẻ được lặp lại, được rèn luyện các thao tác, các phương thức hoạt động tạo hình để hình thành các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tạo ra sản phẩm tạo hình.
b.3. Yêu cầu của việc sử dụng
Các bài tập thực hành và ôn luyện cần được sử dụng ở lớp, ở nhóm trong trường mẫu giáo, song hình thức tổ chức thực hiện và nội dung của chúng phải biến đổi phù hợp với độ tuổi.
Các bài thực hành – ôn luyện cần được sắp xếp theo hệ thống phát triển từ tạo hình tới tạo hình theo các đề tài phức tạp dần để dẫn trẻ từng bước đi tái hiện đơn thuần tới tái tạo tích cực, từ sự tiếp thu tích cực, củng cố các kĩ năng tới hình thành các kĩ xảo.
Việc lặp đi, lặp lại các nội dung tạo hình rất dễ làm cho trẻ chán, buồn tẻ và không mang lại kết quả tích cực. Bởi vậy, các đề tài ôn luyện cần được luôn thay đổi, tạo nên các yếu tố mới, lạ, gây cho trẻ sự ngạc nhiên, thích thú, kích thích sự tưởng tượng.
Các bài tập ôn luyện cần phải nhằm hình thành ở trẻ các kĩ năng, kĩ xảo, miêu tả khái quát nhằm giúp trẻ có thể độc lập lựa chọn và tổ chức quá trình tạo hình, thể hiện được nhiều sự vật, hiện tượng phong phú trong thế giới xung quanh.
Để quá trình hình thành – ôn luyện mang tính tích cực cần hạn chế sự sao chép, hạn chế sự hình thành khuôn mẫu. GV cần thường xuyên động viên, khuyến khích trẻ suy nghĩ, liên hệ; thay đổi phương thức và thời gian chỉ dẫn. muốn làm được điều này cần có những cách thức tổ chức hoạt động khiến trẻ phải chủ động tiếp thu kinh nghiệm mới, vận dụng các kinh nghiệm cũ trong các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Có thể áp dụng các giải pháp sau:
– Tổ chức quan sát bổ sung;
– Cải tiến ,đa dạng hóa mấu đối tượng miêu tả;
– Phát triển mở rộng nội dung các đề tài;
- c) Nhóm phương pháp tìm tòi – sáng tạo
c.1. Ý nghĩa
Các phương pháp tìm tòi – sáng tạo là những hoạt động của GV và trẻ nhằm động viên, kích thích hoạt động tìm kiếm, khám phá, phát hiện và sáng tạo trong HĐTH, qua dó mà phát triển khả năng tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng sáng tọa của trẻ.
c.2. Nội dung
Các phương pháp tìm tòi – sáng tạo bao gồm các phương pháp hướng dẫn mang tính gợi mở, các hoạt động, các bài tập tạo hình theo điều kiện, các tình huống có vấn đề trong tạo hình, các bài tập sáng tạo tạo hình.
c.3. Yêu cầu của việc sử dụng
Phương pháp tìm tòi (còn được gọi là phương pháp tìm kiếm từng phần) :
Với phương pháp này người ta từng bước đưa vào quá trình tiếp nhận những yếu tố sơ đẳng của hoạt động sáng tạo mà trẻ có thể thực hiện được ở mọi độ tuổi.
Phương pháp sáng tạo :
Đây là một phương pháp tổ chức hoạt động nhằm giúp trẻ không chỉ tìm kiếm từng phần mà còn biết độc lập tổ chức một quá trình sáng tạo, giải quyết các bài tập mang tính sáng tạo theo dự định tạo hình của riêng trẻ.
Nội dung các bài tập tạo hình sáng tạo thường là những đề tài tự chọn (thể hiện những khung cảnh, sự kiện iện tượng tương đối phức tạp) những cốt truyện hay nội dung các tác phẩm nghệ thuật khác. Sự thàng công mang tính nghệ thuật của việc thực hiện bài tập sáng tạo phụ thuộc vào mức độ rõ ràng của ý định tạo hình. Để có thể hình thành được ý định tạo hình, đứa trẻ cần có sự dẫn dắt, giúp đỡ của GV, đồng thời trẻ phải tích cực huy động tất cả mối kinh nghiệm đã tích lũy được và sử dụng chúng một cách linh hoạt nhằm giải quyết nhiệm vụ tạo hình mới trong phương pháp hướng dẫn trẻ mẫu giáo hoạt động tạo hình, người ta xác định một số con đường cơ bản để kích thích quá trình hình thành ý định tạo hình, khuyến khích hoạt động sáng tạo của trẻ như :
Con đường thứ nhất :
Giúp trẻ tích lũy, làm giàu vốn hiểu biết, vốn biểu tượng phong phú và xúc cảm, tình cảm về các sự vật, các hiện tượng xung quanh. Đây là cả một quá trình đòi hỏi được tổ chức liên tục, có hệ thống, có mức độ nâng dần, phong phú dần.
Trong quá trình này cần chú ý chỉ cho trẻ thấy rõ những nét khác biệt nổi bật, đặc trưng giữa các sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó có sự phân nhóm, khái quát hóa, tìm ra những nét độc đáo, những đặc điểm thẩm mỹ của đối tượng.
Con đường thứ hai :
Tổ chức hoạt động thực tiễn tạo ra sản phẩm tạo hình. Đây là quá trình mà trẻ được trải nghiệm lại những cảm xúc, ấn tượng, ” làm sống lại” các biểu tượng, hình tượng được lưu trữ trong trí nhớ và thể hiện lại những hình ảnh mà chúng nhớ được, chúng tưởng tượng ra. Có thể nói đây là quá trình trẻ biến ước mơ của mình thành hiện thực. Chính trong quá trình này, ý định tạo hình sẽ được trẻ nhận thức lại, bổ sung làm cho phong phú hơn, hấp dẫn hơn.
Nhiệm vụ sư phạm ở đây là động viên kịp thời các sáng kiến giúp trẻ tiếp thu, bổ sung, chính xác hóa các hiểu biết, làm phong phú các biểu tượng, hình tượng.
Con đường thứ ba :
Hướng dẫn, dìu dắt trẻ tới hoạt động tìm kiếm, khám phá, đưa vào sản phẩm tạo hình những nét mới lạ, những suy nghĩ ” của riêng mình “. Kịp thời khuyến khích và phổ biến những sáng kiến trong việc giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề tạo hình.
Trong tổ chức hoạt động cần hạn chế sự bắt chước, sao chép mẫu, tập cho trẻ miểu tả theo nhiều phương án khác nhau, vận dụng nhiều biện pháp miêu tả khác nhau. Lúc đầu cần có sự chỉ dẫn của cô giáo, dần dần tiến tới động viên , tạo điều kiện cho hoạt động tìm kiếm độc lập.
Con đường thứ tư :
Tổ chức và tạo mối liên hệ mật thiết giữa HĐTH với các hoạt đông thẩm mỹ khách như : âm nhạc, thơ văn, sân khấu,…
Mối liên hệ này đặc biệt cần thiết để phát triển tính sáng tạo nghệ thuật của trẻ, đồng thời giúp trẻ hình thành những biểu hình tượng đậm nét, phát triển óc tưởng tượng nghệ thuật. Các đề tài của các sản phẩm văn học, âm nhạc…,các hình tượng nghệ thuật cần được trẻ tìm kiếm, lựa chon và được trẻ thể hiện vào tranh vẽ, hình nặn,…với những sắc thái rất khác nhau.
Tóm lại để phát triển tính tích cực độc lập sáng tạo cần giúp trẻ chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ tạo hình được đặt ra và định hướng cho hoạt động tưởng tượng của trẻ.
Trước quá trình miêu tả, cô giáo giúp trẻ hình thành ý định tạo hình càng rõ nét bao nhiêu thì trong quá trình thể hiện thì trẻ lại càng tự tin, càng tự lập, chủ động trong hành động bấy nhiêu.
- d) Nhóm các biện pháp mang tính vui chơi :
Đặc điểm lứa tuổi trẻ MG và đặc điểm của HĐTH, đời hỏi các nhà sư phạm phải tìm kiếm, sử dụng các biện pháp mang sắc màu của HĐVC để tổ chức hoạt động giúp trẻ tính tích cực.
d.1.Ý nghĩa :
Việc sử dụng các biện pháp mang tính vui chơi trong các tiết HĐTH sẽ làm tăng hứng thú của trẻ, tạo nên tâm trạng phấn khởi, mong muốn được vẽ, nặn, cắt dán và làm tăng hiệu quả của việc huy động trí lực trong quá trình hoạt động.
Các biện pháp mang tính vui chơi được sử dụng để hỗ trợ cho các phương pháp tổ chức HĐTH, bổ trợ cho chúng trong việc thực hiện mục đích của HĐTH.
d.2. Nội dung
các biện pháp mang tính vui chơi để tổ chức hoạt động tạo hình bao gồm các tình huống chơi trong HĐTH, các biện pháp tổ cức hướng dẫn mang dáng vẻ của trò chơi, các trò chơi – tạo hình, ….
d.3. Yêu cầu của việc sử dụng
Để tìm kiếm, phân loại và sử dụng các biện pháp tổ chức HĐTH mang tính vui chơi cần nắm bắt được bản chất của yếu tố vui chơi trong tạo hình, hiểu được sự giống và khác nhau giữa HĐTH và HĐVC.
Hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp mang tính vui chơi phụ thuộc vào một số điều kiện sau:
– Trẻ phải có vốn hiểu biết, ấn tượng, kinh nghiệm khá phong phú về nội dung chơi – tạo hình.
– Trẻ cần có những xúc cảm, tình cảm thích hợp với các tình huống chơi – tạo hình.
– Động cơ chơi trong các tình huống chơi phải tương ứng với đọng cơ tạo hình để huy động hoạt động tích cực của trí tưởng tượng hướng nó vào quá trình sáng tạo trong HĐTH.
Phân loại các biện pháp mang tính vui chơi trong HĐTH:
Các biện pháp mang tính vui chơi khi sử dụng để tổ chức HĐTH cần được phân loại theo mục đích, nhiệm vụ của HĐTH, theo tính chất của phương pháp tổ chức hoạt động mà nó bổ trợ. Cụ thể, có thể phân các biện pháp đó thành các nhóm như sau:
Nhóm 1: Các biện pháp vui chơi tìm hiểu thế giới xung quanh.
Nhóm biện pháp này bao gồm các tình huống, các loại trò chơi này nhằm tổ chức cho trẻ tìm hiểu, tiếp thu, củng cố hiểu biết về các sự vật, hiện tượng xung quanh, củng cố hệ thống hóa các chuẩn cảm giác, tiếp thu các phương thức hoạt động.
Nhóm 2: Các biện pháp chơi – miêu tả có chủ đề
Nhóm này gồm nhiều tinh huống chơi – tạo hình, nhiều trò chơi tạo hình mang tính “sắm vai”. Áp dụng các biện pháp này, GV cần phải tọa cơ hội để nội dung chơi gắn với nội dung tạo hình, động cơ chơi gắn với động cơ tạo hình và các hành động chơi sẽ thích ứng với các hành động tạo hình.
Tính vui chơi của tình huống tạo hình gắn liền với các kinh nghiệm sống và vốn xúc cảm, tình cảm của trẻ sẽ làm tăng hứng thú thẩm mĩ và sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của trẻ trong hoạt động thực tiễn.
Nhóm 3: Các biện pháp chơi – ôn luyện
Đây là nhóm các biện pháp giúp cho quả trình rèn luyện, ôn tập, củng cố không bị tẻ ngắt, nhàm chán, đồng thời tạo điều kiện phát triển trí tưởng tượng.
Tính nhịp điệu của sự lắp đi, lặp lại các thao tác tạo hình và các hình ảnh trong trò chơi tạo hình là yếu tố tạo nên ở trẻ nhỏ niềm vui thích, cảm hứng trong hoạt động.
Bởi vậy các biện pháp này thường được dùng khi tổ chức hoạt động của trẻ ở các độ tuổi nhỏ.
Tính hình tượng của đề tài tạo hình được phát triển trong tình huống chơi sẽ kích thích trí tưởng tượng và làm cho trẻ luôn cảm nhận và tạo ra sự mới mẻ trong sự lặp đi lặp lại.
Nhóm 4: Các biện pháp ” trò chơi hóa” sản phẩm tạo hình
Đây là các biện pháp được sử dụng khi đã có các sản phẩm tạo hình hoàn thiện, chúng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển khả năng tưởng tượng và sáng tạo của trẻ.
Động cơ chơi lúc này gắn liền với hứng thú, ham muốn của trẻ là được chơi, được vận động với các sản phẩm của mình tạo nên.
Các hoạt động chơi lúc này gần như không còn gắn với các hành động tạo hình và các hành động chơi thường được thực hiện ở dạng tưởng tượng.
Qua các trò chơi với các sản phẩm tạo hình, trẻ sẽ ý thức rõ hơn về ý tưởng tạo hình và từ đó có thể nảy sinh ý tưởng mới.
Sử dụng các sản phẩm tạo hình và các tình huống, vận động thực sẽ giúp trẻ dễ dàng nhận xét, đánh giá và thưởng thức các giá trị thẩm mỹ cũng như chất lượng kĩ thuật của các sản phảm tạo hình đa hoàn thiện.
2.2.2.Các hình thức tổ chức HĐTH :
- a) HĐTH trên tiết học:
Tiết học ( có thể gọi là giờ hoạt động ) là hình thức dạy học đóng vai trò chủ chốt, ở đó trẻ có thể tìm hiểu cuộc sống xung quanh, tìm hiểu thế giới vạn vật một cách có tổ chức nhất là tiếp thu các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo theo một chương trình có tính hệ thống .
HĐTH có thể được tiến hành trẻ nhiều loại tiết học:
– Tổ chức HĐTH ở các tiết học tạo hình : ở các tiết hoc đó HĐTH là hoạt động chính, chiếm phần lớn thời gian. Các nhiệm vụ tạo hình là các nhiệm vụ cơ bản của tiết học.
– HĐTH còn có thể được thực hiện trên các tiết học của các lĩnh vực hoạt động kahcs : ở các tiết học này có thể giải quyết bổ xung một số nhiệm vụ của HĐTH, bởi vậy trong các hoạt động của những tiết học đó có xen vào một số yếu tố của hoạt động mang tính tạo hình.
- b) HĐTH ngoài tiết học :
Đây là những dạng hoạt động mang tính tự do mà trẻ có thể tham gia một cách tự nguyện, tự giác. Các hoạt động này có thể diễn các ở những thời điểm khác nhau trong ngày một cách hợp lý không theo một trình tự chặt chẽ về giờ giấc.
Hình thức này lại có hai nhóm :
Nhóm thứ nhất : là các hình thức hoạt động do giáo viên tổ chức thực hiện, được đưa vào kế hoạch chương trình của HĐTH.
+ HĐTH kết hợp với vui chơi.
+ HĐTH ứng dụng vào sinh hoạt : Lễ hội, trang trí môi trường,…
+ Hoạt động mang tính tạo hình trong các giờ rảnh rỗi : GV cung cấp thông tin về các đối tượng miêu tả, trao đổi, cùng hoạt động với trẻ để lắm bắt hiểu biết, suy nghĩ của trẻ, gợi những xúc cảm, bồi dưỡng sự cảm thụ về nét đẹp của các sự vật, hiện tượng.
+ Tổ chức giờ quan sát chuyên biệt : chuẩn bị cho các giờ hoạt động tạo hình qua các hoạt động như : quan sát, đàm thoại, phân tích các đặc điểm thẩm mĩ các sự vật, làm quen với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, tìm hiểu, tích lũy các kinh nghiệm văn hóa tạo hình,…
Nhóm thứ hai : là các hình thức HĐTH do cá nhân trẻ tự lựa chọn và thực hiện :
+ Hoạt động tự do của trẻ ở các góc ” tạo hình “, trong các giờ tham quan, dạo chơi, hoạt động tạo hình ở gia đình,…
+ Chơi – tạo hình tại các góc trong phòng lớp hoặc ngoài trời.
Hiện nay, khi phân tích đặc điểm hoạt động của trẻ em, người ta càng thấy rõ hơn rằng : ở tuổi mầm non, sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ diễn ra không phải qua các tiết học của môn khoa học riêng lẻ mà dưới tác động đồng bộ của nhiều dạng hoạt động theo quan điểm tích hợp. Các hoạt động này giúp trẻ lĩnh hội, khám phám những hiểu biết mới về tự nhiên, xã hội, khoa học. kỹ thuật, bồi dưỡng năng lực nhận thức, khả năng vận động để từng bước hòa nhập vào thế giới xung quanh, và nhờ đó mà chuẩn bị những khả năng cần thiết cho việc tiếp thu nền giáo dục ở các bậc học tiếp theo.
2.2.3. Tổ chức hoạt động xếp dán tranh
Xếp dán tranh là một loại HĐTH mà ở đó trẻ thể hiện hình ảnh nghệ thuật lên không gian hai chiều bằng cách sắp xếp các mảng hình theo một bố cục mang tính nghệ thuật và gắn chúng lên một nền phẳng – mặt giấy, gỗ.
Ngày nay, trong giáo dục trẻ em, người ta có thể mở rộng phương thức thể hiện các loại hình hoạt động dán bằng cách phối hợp cả sử thể hiện 2 chiều với sự thể hiện 3 chiều, phối hợp với nhiều loại chất liệu phong phú trong một sản phẩm tạo hình.
- Nội dung giáo dục và phát triển của chương trình HĐXD
Trẻ nhỏ rất yêu thích các hoạt động xếp – ghép – dán lên mặt phẳng 2 chiều bằng các phiến, các mảng hình nhiều màu sắc. Vẻ sặc sỡ, rực rỡ của các mảnh hình dễ cuốn hút trẻ, tính nhịp điệu của các thao tác sắp đặt gay cho trẻ hứng thú đặc biệt.
Các cơ hội xê dịch, chắp ghép, xếp chồng, tre lấp các mảnh hình, các chi tiết, các bộ phận của hình tượng trong HĐXD tranh tạo điều kiện cho trẻ học hỏi nhiều điều về kích thước, tỉ lệ, cấu trúc của các sự vật và tâp sắp xếp bố cục trên mặt phẳng của không gian 2 chiều.
– Củng cố và phát triển hiểu biết về các tình hình học cơ bản và khả năng so sánh, phát triển sự giống – giống nhau của các hình : hình vuông với vuông với hình thoi, hình bình hành với hình chữ nhật, hình chữ nhật với hình thang,…
– Tập phân loại, gộp nhóm các hình tự nhiên theo dấu hieeujkhais quát và theo mối liên hệ giữa các hình hình học, các hình có tổ chức.
– Mở rộng và hệ thống hóa các màu sắc ( theo thứ tự quang phổ). Phân biệt, gọi tên và xác định quan hệ của các sắc thái màu. Tập liên hệ màu sắc với các trạng thái cảm nhận. cảm thụ : màu vui, màu buồn, màu nóng – màu lạnh, màu xa – màu gần, màu sáng – màu tối, và tích cực sử dụng màu sắc để tạo nên vẻ đẹp, gây sức truyền cảm cho tranh.
– Để bồi dưỡng khả năng định hướng không gian cần tạo điều kiện giúp trẻ hiểu và hình dung ra các khái niệm không gian như : ” đối diện”, ” cân đối “, ” từng cặp “, “bất đối xứng “, ” ở cùng mức độ “, ” một tầng cảnh “, ” hai tầng cảnh “,…
– Trẻ bắt đầu làm quen với các bố cục trang trí theo mạng, bố cục trang trí đăng đối ( đăng đối theo một trục – đối xứng, theo một tâm và nhiều hệ trục. ).
– Để tạo tranh đề tài, cần tăng cường cho trẻ liên hệ giữa không gian ba chiều với không gian hai chiều và tập thể hiện chiều sâu không gian tranh với nhiều tầng cảnh.
– Tập thể hiện trạng thái của sự kiện, chủ đề bằng sự thay đổi tư thế, vận động của hình ảnh.
– Tăng cường phát triển các kỹ năng và rèn luyện sự khéo léo của các kỹ xảo xé, cắt: trẻ tập xé, cắt theo nhiều phương phát: cắt, xé các hình hình học, cắt, xé hình từ tờ giấy gập đôi, từ tờ gập nhiều lần và xếp nếp, cắt, xé hình theo đường nét vẽ và cắt, xé hình đơn giản không theo nét vẽ.
– Tập phối hợp giữa kỹ thuật cắt với kỹ thuật xé tạo nên chất thảm mỹ cho tranh, thể hiện nội dung nghệ thuật của ý định sáng tạo.
– Tăng cường bồi dưỡng khả năng độc lập tổ chức hoạt động và hợp tác, phối hợp động trong các giờ hoạt động nhóm và làm bài tập thể.
– Tăng cường cho trẻ phối hợp linh hoạt sáng tạo các chất liệu và phương pháp tạo hình.
- Gợi ý điều kiện vật chất của hoạt động xếp dán tranh.
Với xu hướng tích cực phối hợp ” sự thể hiện hai chiều ” với ” sự thể hiện ba chiều ” bằng nhiều vật liệu, chất liệu phong phú trong trường MN cần trang bị cho hoạt động của trẻ các loại vật, liệu, công cụ sau :
– Vật liệu xếp dán :
+ Giấy làm nên tranh : các loại giấy dày, không quá mềm, bìa, giấy phế liệu.
+ Giấy làm hình : giấy thủ công, giấy phế liệu ( báo, họa báo, sách,…) không quá cứng và không quá bóng.
+ Bột màu.
+ Các mảnh nhựa, vải, sợi, len vụn ( đôi khi cả mảnh gốm ).
+ Các phiến gỗ mỏng.
+ Các vật liệu thiên nhiên : vỏ cây, lá cây, cánh hoa, vỏ sò, vỏ hến, vỏ trứng, một số hạt cây,…)
+ Hồ dán, giẻ ẩm lau tay.
– Dụng cụ cho hoạt động xếp dán :
+ Tăng bông hoặc chổi phết hồ.
+ Các bút màu, bút lông, bàn chải.
+ Kéo, kim khâu.
+ Búa nhỏ, kìm, đinh ghim,…
– Không gian hoạt động :
+ Trong phòng lớp : không gian chung và các góc ( trên bàn và sàn nhà ).
+ Ngoài lớp học : ngoài sân, vườn, trong các cuộc dạo chơi ngoài thiên nhiên.
– Một số điều cần chú ý khi sử dụng các dụng cụ, vật liệu :
+ Tùy theo loại vật liệu và tính chất cảu chúng ( giấy, các loại vải, vật liệu thiên nhiên,…) mà sử dụng hoặc phối hợp các kỹ thuật cắt hay xé và các kỹ thuật tạo hình khác.
+ Đặc biệt chú ý cho trẻ rèn luyện kỹ thuật cắt bằng kéo : cầm kéo tay phải đúng cách, giữ và xoay giấy bằng tay trái,…
+ Chú ý kỹ thuật dán : trước khi dán sắp xếp thành bố cục tranh từ các phần đã được cắt (xé), sau khi chỉnh sửa bố cục, lần lượt nhẹ nhàng dán các hình theo bố cục đã xếp. Bôi hồ mặt trái cẩn thận bằng đầu nhón tay hoặc bằng công cụ ( tăm bông, que giấy chổi phết hồ,…)
+ Giúp cho trẻ tập nhận biết và sử dụng các loại keo, hồ tùy theo loại chất liệu của mình ( keo dùng cho vải khác với keo dùng cho giấy.)
+ Cho trẻ làm quen và tích cực sử dụng các kỹ thuật mới : Gấp, cuốn, vò nắm, vo viên.
+ Cần nghiên cứu, tổ chức ” Góc lưu trữ vật liệu ” và dạy trẻ những cách thức sắp xếp, bảo quản các loại vật liệu (giấp, vải, vật liệu tự nhiên,…) ở nơi thích hợp ( trong các loại túi, phong bao, hộp chai lọ,…), có trật tự và tiện cho việc sử dụng, don dẹp.
- c) Tổ chức hoạt động của trẻ :
c.1.Tạo động cơ cho hoạt động xếp dán :
– Nguồn cảm hứng cho sử thể hiện trong hoạt động xếp dán có thể xuất phát từ chính những trò chơi, đặc biệt các trò chơi xếp hình, ghép tranh bằng các bộ đồ chơi chất liệu cứng.
– Những tìm kiếm, khám phá các hình dáng đa dạng của mọi vật trong môi trường xung quanh trẻ cũng xuất phát điểm của các ý tưởng tuyệt vời.
– Động cơ của hoạt động còn xuất phát tư các tình huống thú vị xảy ra trong các cuộc dạo chơi ngoài thên nhiên, các câu chuyện, những sự kiện, hiện tượng xung quanh.
– Nội dung các chủ đề giáo dục trong trường mầm non cũng là nguồn nội dung pohng phú cho hoạt động của trẻ.
c.2.Tổ chức hoạt động cho trẻ 5 -6 tuổi :
– Tổ chức các quá trình quan sát, các hoạt động nhóm nhỏ và cá nhân để trẻ tự tìm kiếm, tích lũy thông tin, mở rộng vốn biểu tượng hình tượng cho hoạt động ( quan sát, dạo chơi, tham quan, xem tranh ảnh, đồ chơi,…)
– Huy động sự tham gia của trẻ vào các cuộc đàm thoại, dùng các câu hỏi – trả lời để tăng cường tính tích cực hoạt động lời nói, hoạt động trí tuệ của trẻ. Có thể cho trẻ kể về đối tượng miêu tả và trình bày, trao đổi về cách thể hiện : cách chọn vật liệu, chọn kỹ thuật tạo hình thích hợp.
– các tranh mẫu cho trẻ độ tuổi này chỉ được sử dụng khi trẻ phải thể hiện nội dung mới và nên đưa ra nhiều phương án của mẫu hạn chế khả năng so chép thụ động, đồng thời tăng hấp dẫn cho hoạt động.
– Phương pháp chỉ dẫn trực quan chỉ sử dụng đề truyền đạt các kinh nghiệm mới. Với các phương thức miêu tả quen thuộc cần động viên trẻ tham gia trình bày trước lớp, không chờ đợi sự hướng dẫn của GV.
– Ở độ tuổi này cần cho trẻ quan sát so sánh, phân loại các đối tượng miêu tả theo nhiều dấu hiệu để tìm những phương phá, kỹ thuật thể hiện chung cho nhóm đối tượng và chuẩn bị vật liệu phù hợp. Trẻ 5 – 6 tuổi bắt đầu tập cắt các hình co cấu trúc đối xứng từ tờ giấp gập đôi. Bởi vây, cần thường xuyên sử dụng các biện pháp mang tính vui chơi để giúp trẻ tập hình dung ra ” Một nửa “, cho trẻ thực hiện các thao tác tập luyện – ” phác thảo ” trong không khí đường viền bao của một nửa hình ảnh vật mẫu, tiến tới thực hành gập giấp và cắt một nửa sự vật.
– Khi tổ chức cho trẻ quan sát, nhận xét sản phẩm hoạt động cần giúp trẻ không chỉ quan tâm đến sự thể hiện nghệ thuật mà còn đánh giá được cả chất lượng của kỹ thuật tạo hình. Dùng các biện pháp ” trò chơi hóa sản phẩm tạo hình ” để tăng cường khả năng phối hợp hình tượng hai chiều với hình tượng ba chiều, tạo nhiều cơ hội cho trẻ ứng dụng và cảm nhận, vui sướng về thành quả hoạt động của mình.
3) HĐVC ở trẻ mầm non và mối quan hệ giữa HĐVC – HĐTH
3.1. Đặc điểm HĐVC của trẻ MN.
– Chơi của trẻ không phải là thật mà là giả vờ ( giả vờ làm cái gì đó ) nhưng sự giả vờ ấy của trẻ lại mang tính rất thật như : mẹ chăm sóc con.
Chơi không nhằm tạo ra sản phẩm mà chỉ nhằm hỏa mãn nhu cầu được chơi. Nhà giáo dục người nga K.D.usinxki cho rằng : trẻ chơi là vì chơi, chơi để mà chơi, chơi mang lại niềm vui cho trẻ khi trẻ phải chơi theo sự áp đặt của người lớn thì lúc ấy trò chơi theo đúng nghĩa của nó.
Khác với các hoạt động khác, động cơ chơi của trẻ nằm ngay trong các hành động chơi chứ không nằm trong kết quả chơi. Chính những hành động trong khi chơi kích thích trẻ chơi và duy trì hứng thú chơi của trẻ .
– Chơi là một hoạt động độc lập, tự do và tự nguyện của trẻ mẫu giáo.
– Nội dung chơi của trẻ phản ánh cuộc sống hiện thực xung quanh .
– Trong quá trình chơi có sự liên kết hài hòa giữa hình ảnh nhân vật hành động chơi và lời nói với nhau, chúng tạo thành phương tiện để phản ánh hiện thực.
Tính dáng tạo của trẻ thể hiện rõ nét trong hoạt động chơi
3.2. Ý nghĩa của HĐVC với trẻ mầm non.
HĐVC đã giả quyết được nhu cầu bức thiết mong muốn được lam người lớn, hành động như người lớn.
HĐVC là hoạt động chủ đạo của trẻ chơi gây ra những biến đổi về chất có ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách trẻ MG và chơi làm tiền đề cho hoạt động học tập ở lứa tuổi tiếp theo.
HĐVC là những phương tiện giáo dục và phát triển cho trẻ MG trong khi chơi trẻ được phát triển trí tuệ, được giáo dục đạo đức, giáo dục thể lực và phát triển thẩm mỹ ở trẻ.
Ngoài ra, chơi còn là hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường MG. Trong khi chơi hình thành ” xã hội trẻ em ” và các biểu hiện tình cảm thân ái cảm thông lẫn nhau .
3.3.Mối quan hệ giữa HĐVC và HĐTH
Chơi và HĐTH của trẻ MG rất gần gũi với nhau, những kỹ năng tạo hình của trẻ giúp cho trẻ dễ dàng thực hiện ý định chơi ( làm đồ chơi xây dựng công trình…) Đặc biệt trò chơi lắp ghép – xây dựng ra đời trên cơ sở của HĐTH vì trẻ có thể tạo ra các công trình khi nó nắm vững kỹ năng xây dựng mà phần lớn kỹ năng xây dựng trẻ được học trên các tiết học tạo hình.
– Thực tế đã chỉ ra rằng, việc dạy trẻ các kỹ năng xây dựng tạo điều kiện cho trẻ phát triển các trò chơi của mình.
– Tóm lại chơi có mối quan hệ chắt chẽ học tập, lao động tạo hình. Chính các mối quan hệ qua lại này đã cuốn hút trẻ MG và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của trẻ MG.
3.4. Các loại trò chơi ở trường MN
3.4.1.Trò chơi sáng tạo.
3.4.2.Trò chơi học tập.
3.4.3.Trò chơi vận động.
3.5. Cách tổ chức HĐVC
- Lựa chọn chủ đề chính .
Chọn các trò chơi kết hợp phù hợp với chủ đề chính
– Nêu mục đích – yêu cầu của buổi chơi.
– Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất cho buổi chơi.
- Hướng dẫn buổi chơi :
Gợi ý, hướng lái cho trẻ thảo luận về chủ đề chính gợi ý cho trẻ, thỏa thuận.
Trẻ nhận góc chơi và vai chơi.
– Quá trình chơi :
Cô bao quát, hướng lái trẻ chơi đúng chủ đề chỉnh sửa các hành vi, hành động sai của trẻ.
– Nhận xét góc chơi :
Cô đến từng góc nhận xét nhóm chơi, góc chơi sau đó mời cả lớp đến thăm một góc chính và trẻ tự nhận xét.
Chương II
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ THIẾT KẾ MỘT SỐ
TRÒ CHƠI – TẠO HÌNH
1) Mục đích nghiên cứu thực trạng.
Để thực hiện tốt đề tài trên, trước hết ta cần tìm hiểu, xem xét tình hình thực tế cụ thể của một số trường MN với các nội dung nghiên cứu sau :
– Tình hình sử dụng yếu tố chơi vào HĐTH cho trẻ MGL tạo nên một số trường và kỹ năng, năng lực xé dán của trẻ như thế nào.
– Trên cơ sở đó tôi đã thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MG- 5-6 tuổi phát triển kỹ năng xé dán .
2) Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
2.1.Phương pháp điều tra trực tiếp.
2.1.1.Gặp gỡ GV Nguyễn thị Tứ. Thôn Cổ Hoàng, trường MN xã Hoang Long.
Cô vui vẻ trả lời với các câu hỏi như sau :
? Chị cho biết khả năng tạo hình nói chung và khả năng xé dán nói riêng có nhiêu điểm ?
– Ban đầu do tình hình khách quan của địa phương các cháu theo học lớp ghép đến 5 -6 tuổi cháu mới được học riêng biết do vậy các kỹ năng, kỹ xảo và vốn biểu tượng sự vật hiện tượng còn lại hạn chế.
Cách xé không được thuần thục, không biết xé lượm vết xé rất nham nhở. Dán không được mịn, chọn màu sắc chưa được hài hòa.
? Chị đã đua yếu tố chơi vào tiết dạy tạo hình chưa ?
– Do các cháu còn chưa có kỹ năng, kỹ xảo xé dán nên tôi thỉnh thoảng đưa trò chơi vào vì tiết xé dán phải kéo dài không chia đủ thời gian chơi trò chơi
? Kết quả tạo hình của cháu ra sao ?
– Các cháu có kiến thức cơ bản đã nắm vững biết cách xé, cách chon màu, cách dán bố cục.
Song nhìn chung bài của trẻ chưa được sắc nét lắm.
2.1.2. Gặp cô Nguyễn Thị Tính, thôn Trình Viên, xã Phú Túc
? HĐTH nói chung, HĐXD trường cô nói riêng?
– HĐXD lớp của tôi chưa được tốt lắm vì lớp tôi cũng là lớp ghép lên trẻ không được xé từ lớp nhỏ lên trẻ không thuần thục săc nét, đến 5 – 6 tuổi cháu mới có những bài xé dán riêng .
? Chị có sử dụng trò chơi vào tiết dạy không
Tôi rất ít sử dụng vì trẻ xé dán một bài chiếm khá nhiều thời gian nên bài nào dễ tôi mới đưa trò chơi vào.
2.1.3. Gặp cô Nguyễn Thị Hạnh, xã Hồng Minh.
? Chị cho biết HĐTH nói chung và HĐXD trường chị như thế nào ?
– HĐTH trường nói chung trẻ làm rất riêng xé dán lớp tôi là lớp ghép lên việc dạy trẻ cả ba độ tuổi xé dán là raatfs khó, vì lớp lopwns xé tốt hơn.
? Chị có sử dụng trò chơi vào tiết học không ?
– Rất ít, vì lớp ghép không đủ để cho trẻ chơi trò chơi thiếu về cô thiếu về phần ngoài trời ở địa phương chưa đủ ngoại cảnh để cho trẻ tham quan trò chơi.
? Kết quả trẻ lắm ra sao ?
– Kết quả cơ bản về kiến thức là trẻ lắm được còn nghệ thuật, kỹ xảo chưa đạt được không có bài nào nổi trội.
2.1.4. Gặp cô Nguyễn Thị Sinh, trường MN Tri Trung
? HĐTH tại lớp chị như thế nào? Môn xé dán ra sao ?
– HĐTH của lớp trẻ làm rất tốt, cá biệt một số trẻ là chưa có từng độ tuổi riêng trên việc rất thuận lợi.
? Chị có lồng ghép trò chơi vào tiết học không ?
– Trong tiết dạy tôi thường lồng trò chơi. Tùy tiết dạy mà tôi lồng trò chơi phù hợp để nâng cao nghệ thuật kỹ năng, kỹ xảo cho trẻ xé dán được tốt hơn.
? Kết quả có tốt không ?
– Kết quả bài trẻ làm rất tốt có nghệ thuật kỹ năng sáng tạo từng tri tiết nhỏ.Nên đạt kết quả rất cao.
2.1.5. Gặp cô Nguyễn Thị Tín, Trường Mầm non xã Văn Hoàng:
? HĐTH nói chung, HĐXD trường chị ra sao ?
– HĐTH Trường nói chung là tốt, HĐXD chưa được tốt lắm.
Vì xé dán khó hơn nặn và vẽ nên nhiều trẻ xé chưa thuần thục, nham nhở, chỉ ít trẻ xé đẹp.
? Chị có lồng trò chơi vào tiết dạy không?
– Thỉnh thoảng tôi có lồng nhưng hạn chế vì không đủ thời gian để tôi làm đồ dùng, dò chơi nếu làm đủ đồ dùng đưa vào trò chơi phải có 2 cô/ 1 lớp mới đáp ứng được.
?Kết quả bài xé có tốt không?
– Trẻ cung làm được nhưng không có nghệ thuật, không suất xắc nên bản thân tôi cũng không hài lòng lắm.
2.1.6. Gặp cô Lê Thị Diệu trường Mầm non Tri Trung:
? Hoạt động xé dán của lớp cô thế nào ?
– Nói chung là tốt nếu có 2 cô / 1 lớp thì chắc là sẽ tốt hơn vì có đủ thời gian làm đồ dùng cho trẻ được tiếp xúc với trò chơi dưa vào tiết dạy vì ngoại cảnh của trường và địa phương rất tốt.
? Kết quả tốt không ?
– Kết quả rất tốt nếu cho chơi trò chơi vào tiết day thì trẻ xé có nghệ thuật, tỉ mỉ, bài đẹp hơn.
2.2. Điều tra gián tiếp.
Sử dụng phiếu điều tra, thu thập ý kiến của GV trực tiếp giảng dạy MGL xoay quanh vấn đề đưa trò chơi vào tiết dạy tạo hình mà cụ thể là tiết dạy xé dán.
– Việc thiết kế trò chơi khá phức tạp bởi trò chơi đó phải phụ thuộc vào: nội dung truyền đạt kiến thức, kĩ năng phù hợp chủ đề, chủ điềm và phù hợp với điều kiện vật chất của trườ ng, lớp… chính vì vậy tôi đã gặp và trao đổi với cán bộ quản lí chuyên môn và các GV khác để lắm vững hơn việc thết kế trò chơi cho HĐTH , hoạt động xé dán.
– Trong quá trình điều tra, tìm hiều để xây dựng đề tài trên, em đã vấp phải không ít những vấn đề khó khăn
+ Thuận lợi:
Được ban giám hiệu cùng tập thể GV trong trường đã tạo điều kiện thời gian đẻ cho em đi tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu một số giờ dạy ở các trường mầm non khác.
+ Khó khăn:
Cơ sở vật chất của trường còng hạn hẹp. Do vậy, việc đưa trò chơi vào hoạt động xé dán còn phải phụ thuộc vào điều kiện đó. Các cháu còn hạn chế về kiến thức kỹ năng xé. Tuy vậy, quá trình tìm hiểu thực trạng của hoạt đỗngé dán tại các trương diễn ra tốt đẹp. Một số quan điểm cũng được đưa ra:
– Quan niệm về việc đưa yếu tố chơi vào HĐTH nhằm giúp trẻ phát triển xé dán.
– Nhận thức của GVMN: về vai trò của HĐVC vào tiết dạy
– Thực tế các trương đã đưa HĐVC vào trong tiết học HĐTH nhưng trò chơi còn đơn điệu, tẻ nhạt thiếu đí tính chất học tập trong trò chơi.
2.3. Quan sát tự nhiên
Dự giờ 10 tiết dạy
2.3.1. Dự giờ cô Nguyễn Thị Sinh, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài xé dán: Vườn cây ăn quả
– Yêu cầu: Trẻ biết gấp và xé cây, xé thành dải làm cành. Gấp xé lá, xé các loại quả khác nhau, tròn, dài biết chăm sóc bảo vệ cây.
– Chuẩn bị: Trò chơi ” Bé với cây”
Tranh xé dán vườn cây, giấy màu, hồ dán. Cho trẻ ra sân chơi trò chơi với cây thật.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Em yêu câu xanh”
+Quan sát tranh – đàm thoại cùng trẻ.
+ Hỏi ý định trẻ xé những cây gì ?
- b) Trẻ thực hiện:
Cho trẻ ngồi theo nhóm rồi xé dán cô hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. (5-6 trẻ) cô nhận xét lại rõ nét bài xấu và đẹp.
+Cho trẻ chơi trò chơi “Bé với cây”
2.3.2. Dự giờ cô Nguyễn Thị Thá, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm trường mầm non)
– Yêu cầu: Cô hướng lái cho trẻ xé về chủ điểm trường MN
+ Trẻ xé được ngôi trường, đồ chơi ngoài trời, hình người cô giáo và học sinh, cây cảnh…
– Chuẩn bị: Trò chơi ” Bé đến lớp” . Tranh về trường MN, giấy màu, hồ dán
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Cháu đi mẫu giáo”
+Quan sát tranh – đàm thoại .
+ Hỏi trẻ xé về trường như thế nào?
- b) Trẻ thực hiện:
Trẻ ngồi theo nhóm rồi xé dán,cô hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. Cô nhận xét thêm bài nào xấu và đẹp.
+ Cho trẻ chơi trò chơi “Bé đến lớp”
2.3.3. Dự giờ cô Đỗ Thị Hiên, Trường Mầm non xã Hoàng Long
Bài: Xé dán hình con cá (mẫu)
– Yêu cầu:
+ Trẻ gấp đôi và xé lượn hình con cá.
+ Luyện cách phết hồ và dán vào vở bổ xung mắt, mang, vây.
– Chuẩn bị: Tranh mẫu con cá cá thật, hồ dán, khăn lau, vở tạo hình, giấy màu.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ chơi: ” Cá bơi, cá lặn, cá ngoi”
+ Quan sát tranh và đàm thoại .
+ Cô xé mẫu
- b) Trẻ thực hiện:
Cô theo dõi giúp cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
Cho trẻ treo bài và tự nhận xét bài mà trẻ thích. (Cô gợi ý thêm).
+ Cho trẻ chơi trò chơi “Thả cá vào ao” (thi đua)
2.3.4. Dự giờ cô Lê Thị Huyền, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm thế giới động vật)
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé được một số con vật trong gia đình
+ Trẻ biết yêu quý con vật gần gũi với mình.
– Chuẩn bị: Tranh mẫu về con vật gần gũi, hồ dán, khăn lau, vở tạo hình, giấy màu.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ chơi: ” Con vật nhà em”
+ Quan sát tranh – đàm thoại .
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô bao quát và hướng cho trẻ xé dán con vật trong gia đình.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ treo bài và tự nhận xét bài mà trẻ thích.
+ Cho trẻ múa hát “Mèo con, gà con và cún con”
2.3.5. Dự giờ cô Nguyễn ThịThủy, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán các loại hoa
– Yêu cầu:
Luyện cách xé vụn xếp các mẫu thành bông hoa
– Chuẩn bị: Xa bàn vườn hoa, giấy màu, hồ dán, vở tạo hình.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ chơi: ” Hái hoa tặng mẹ nhân ngày 8 -3 “
+ Cho trẻ thăm xa nàn vườn hoa – đàm thoại.
+ Nên ý kiến thích xé các lọa hoa gì .
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô hướng dẫn cho những trẻ còn lúng túng, bao quát trẻ.
- c) Nhận xét:
+ Trẻ nhận xét bài trẻ thích.(6-7 trẻ)
+ Cô nhận xét thêm bài đẹp, xấu.Khuyến khích trẻ
+ Cho trẻ vui múa hát bài ” Quà 8 – 3 “
2.3.6. Dự giờ cô Nguyễn Thị Hường, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm tết và mùa xuân)
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé được một loại quả, hoa. Ngày tết và mùa xuân
– Chuẩn bị: một số loại hoa,quả thật, bằng nhựa. Giấy màu, hồ dán, giấy A4 .
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Sắp đến tết”
+ Quan sát hoa, quả và đàm thoại .
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô bao quát và hướng lái cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ treo bài và tự nhận xét.( 6 – 7 trẻ )
+ Cô nhận xét thêm bài xấu, đẹp. Khuyến khích trẻ.
2.3.7. Dự giờ cô Lê Thị Diệu, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán thuyền trên biển
– Yêu cầu:
+ Luyện cách xé thoe tưởng tượng tạo lên bức tranh thuyền trên biển
+ Trẻ biết yêu quý con vật gần gũi với mình.
– Chuẩn bị: Tranh xé mẫu của cô, giấy màu, nguyên vật liệu thiên nhiên, lá cây, len, vụn bông.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Em đi chơi thuyền “
+ Trẻ quan sát tranh và đàm thoại .
+ Hỏi ý kiến trẻ xé thuyên như thế nào? Chánh buồm?xé nàn nước bồng bềnh hay phẳng lặng.
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô gợi mở cho trẻ, quan sát hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích.( 6 – 7 trẻ )
+ Cô nhận xét thêm bài đẹp, xấu.
+ Cho trẻ chơi trò chơi : ” Đi chơi thuyền “
2.3.8. Dự giờ cô NguyễnTthị Ngọc, Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm phương tiện và luật lệ giao thông)
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé được một số phương tiện giao thông.
+ Biết cách xé và phết hồ. Bố cục tranh
– Chuẩn bị: Tranh các phương tiện giao thông.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ quan sát tranh và đàm thoại.
+ Hỏi trẻ ý định xé phương tiện gì? Phương tiện đó ở trên không hay đường bộ, đường biển.
- b) Trẻ thực hiện:
+ Khi trẻ thực hiện cô bao quát, hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. ( 5 – 6 trẻ )
+ Cô nhận xét chung :
Cho trẻ vui múa hát về ” Các phương tiện giao thông “.
2.3.9. Dự giờ cô Lê Thị Loan , Trường Mầm non xã Phú Túc.
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm quê hương đất nước và trường tiểu học )
– Yêu cầu:
+ Trẻ xé dán hình ảnh quê hương, làng xóm
+ Biết cách xé tỉ mỉ nhiều ngôi nhà trê một con đường.
– Chuẩn bị: Tranh về quê hương, giấy màu, hồ dán, vở tạo hình.
– Cách tiến hành:
- a) Tạo hứng thú:
+ Cho quan sát tranh và đàm thoại cùng trẻ
+ Hỏi ý định xem trẻ định xé về cái gì?
Quê hương có nhiều nhà và cây có nhiều con đường không ?
- b) Trẻ thực hiện:
+ Trẻ xé, cô bao quát hướng cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích. ( 5 – 6 trẻ )
+ Cô nhận xét chung.
2.3.10. Dự giờ cô Đỗ Thị An , Trường Mầm non xã Tri Trung
Bài: Xé dán theo ý thích
( Chủ điềm gia đình )
– Yêu cầu:
+ Trẻ biết xé về người thân trong gia đình.
+ Trẻ biết bố cục tranh và dán.
– Chuẩn bị: Hồ dán, giấy màu, giấy A4.
Tranh người thân trong gia đình.
– Cách tiến hành:
a – Tạo hứng thú:
+ Cho trẻ hát bài: ” Cả nhà thương nhau “
+ Quan sát tranh và đàm thoại
+ Hỏi ý định trẻ xé dán người thân có những ai?.
- b) Trẻ thực hiện:
+ Cô bao quát từng nhóm trẻ. Hướng lái cho những trẻ còn lúng túng.
- c) Nhận xét:
+ Cho trẻ tự nhận xét bài mà trẻ thích ( 5 – 6 trẻ )
+ Cô nhận xét chung..
+ Cho trẻ chơi trò chơi “Thăm Ông Bà”
2.4. Phân tích sản phẩm của HĐTH
Trong quá trình quan sát, tìm hiểu các sản phẩm, tìm hiểu của trẻ tạo ra rất nhiều song, quy chung một mối đa số các bài xé dán hình thức đơn giản một số trẻ biết pha màu . Theo bài còn lại trẻ chưa biết pha nên tính tích cực của trẻ tham gia chưa cao.
- Tiêu chí và thang đánh giá :
3.1. Tiêu chí :
– Trẻ biết xé từ đơn giản đến phức tạp.
– Trẻ biết sắp xếp bố cục tranh.
– Biết tạo nhịp sự thể hiện giấy màu đẹp.
– Hình thức trang trí sáng tạo phối hợp mảng màu hợp lý.
3.2. Thang đánh giá :
– Qua các sản phẩm vẽ cô đánh giá các mức :
+ Xuất sắc.
+ Khá
+ Trung bình
+ Yếu.
- Kết quả nghiên cứu thực trạng.
4.1. Phân tích kết quả điều tra.
– Trong quá trình điều tra trực tiếp và gián tiếp kết quả đạt được như sau :
+ Số GV sử dụng trò chơi vào tiết dạy đạt 30 % .
+ Số GV không sử dụng trò chơi vào tiết dạy hoặc có đưa vào nhưng số lượng ít chiếm 70 % .
– Tư kết quả trên cho thấy việc sử dụng trò chơi vào tiết dạy tạo hình là quá ít.
4.2. Phân tích kết quả quan sát :
Trong quá trình quan sát thực tế tại các lớp thì kết quả quan sát cho thấy :
– Số GV sử dụng trò chơi hoặc trò chơi chưa hấp dẫn đến số trẻ ít hướng thú với HĐTH. Do vậy sản phẩm chỉ đạt 40 % so với yêu cầu đề ra.
– Từ kết quả quan sát trên đã cho chúng ta thấy được rất rõ việc thiết kế trò chơi vào trong HĐTH là quan trọng như thế nào. Nó là khơi nguồn cảm xúc cho sáng tạo nghệ thuật.
4.3. Phân tích kết quả sản phẩm HĐTH của trẻ.
Trong thời gian HĐTH của trẻ các sản phẩm tạo hình của trẻ xé đạt kết quả chưa cao thể hiện ở các bài xé đơn giản. Bố cục chưa chuẩn, vài trẻ bố cục hợp lý
- Thiết kế một số trò chơi :
5.1. Cơ sở định hướng cho việc thiết kế một số trò chơi :
– Xuất phát thừ nhu cầu được vui chơi của trẻ. Chơi vốn là hoạt động chủ đạo của trẻ MN chơi không chỉ là niềm vui sướng mà còn là để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn được chơi, chơi chính là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ MG bởi nội dung chơi có ý nghĩa giáo dục mạnh mẽ, nó ảnh hưởng đến tam tư tình cảm và hành vi đạo đức của trẻ.
– Dựa trên đặc điểm của HĐTH, HĐTH đòi hỏi khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mà lứa tuổi MN trẻ phải được học mà chơi – chơi mà học. Vì vậy khi tổ chức HĐTH chúng ta nên đưa yếu tố chơi vào, gắn mục đích tạo hình với mục đích chơi nhiệm vụ tạo hình với nhiệm vụ chơi. Chính những yếu tố chơi này sẽ cuốn hút trẻ vào cuộc chơi thú vị mà những nhiệm vụ học tập vẫn được trẻ giải quyết .
Trên cơ sở này mà em đã thiết kế một số trò chơi tạo hình nhằm giúp trẻ MGL (5 – 6 T ). Bồi dưỡng phát triển kỹ năng xé dán.
– Trên thực tiễn HĐTH ở các trường MN còn mang tính khuôn mẫu, áp đặt chính sự khuôn mẫu thụ động này làm mất đi sự sáng tạo của trẻ.
– Xuất phát từ nguyên tắc ” Dậy học lấy trẻ em làm trung tâm ” trẻ em vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình nhận thức. Trẻ tự tin tìm kiếm, khám phá thế giới xung quanh mình. Còn GV là người tổ chức, là điểm tựa, là thang đỡ khi tổ chức HĐTH cần phải đưa yếu tố chơi vào để kích thích sự hứng thú của trẻ.
5.2. Thiết kế một số trò chơi :
5.2.1.Nhóm trò chơi cung cấp kiến thức, kích thích và bồi dưỡng khả năng cảm nhận vẻ đẹp của sự vạt hiện tượng trong đời sống của trẻ.
Trò chơi 1 : BÉ VỚI CÂY
a – Mục đích giáo dục:
Cung cấp hiểu biết của trẻ về các cây trồng trong trường. Trẻ biết đặc điểm của cây ăn quả. Cây là nơi cư trú chim muông, các loài ong bướm giúp thụ phấn ra hoa kết quả đó là nguồn vốn giúp trẻ hiểu biết để xé dán vườn cây ăn quả, sáng tạo nghệ thuật.
Ví Dụ : Vẻ đẹp của cây màu lá, quả trẻ có thể pha màu qua giấy xé, trẻ thêm những họa tiết để trang trí tranh .
– Rèn luyện khả năng định hướng nhanh và phát triển ngôn ngữ .
b – Cách tiến hành :
– Cô nói ” Các con biết trong sân trường có những cây gì ăn quả ? chúng có những đăc điểm gì ? chúng ta nhận ra điều này khi chơi trò chơi ” Bé với cây “
– Cách chơi : Cô nói ” Cô sẽ miêu tả đặc điểm của cây gì ? “
Các con nói nhay cô đó
Ví Dụ: Cây ăn quả hạt lay láy đen lá dài quả có một hạt trẻ chạy đến cây nhãn. Trò chơi tiếp tục đến khi trong sân trường hết cây ăn quả.
c – Điều kiện cần :
– Sân trường thoáng mát, trồng nhiều loại cây.
– trước đó trẻ phải làm quen với nhiều loại cây ăn quả.
Trò chơi 2: PHÒNG TRANH CỦA BÉ :
a- Mục đích giáo dục:
Cung cấp vốn hiểu biết về các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên tạo điều kiện cho trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của thiên nhiên làm phong phú vốn biểu tượng về trang trí.
– Tạo hứng thú đối với các hoạt động làm quen với tác phẩm NTTT và kích thích khả năng sáng tạo nghệ thuật ở trẻ.
– Trẻ biết trang trí các hình bằng vật liệu thiên nhiên.
b – Cách tiến hành :
– Cô chia trẻ thành các nhóm. Mỗi nhóm có đủ các nguyên vật liệu : Lá các loại cây, các loại hoa, cánh hoa, cúc áo, que tăm, hạt đỗ, hạt lạc, sỏi đá, rửa sạch, hạt các loại quả…Các đồ dùng: dao, kéo, băng dính, hồ dán…
– Cô nói cô chuẩn bị nhiều cây hoa : nhiệm vụ các con trang trí cây xanh hoa, bằng những nguyên vật liệu để tạo nên sản phẩm đẹp nhất để cô mở phòng tranh, để nhận xét sản phẩm…
c – Điều kiện cần :
– Chuẩn bị : các loại lá cây, hoa, hạt, quả, hạt đỗ, hạt lạc, tăm tre, hình các loại cây hoa
– Giấy bìa cứng được cắt thành các hình cây, hoa .
– Cô cho trẻ thu gom các nguyên vật liệu cho phong phú.
Trò chơi 3: PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
a – Mục đích giáo dục:
– Tìm hiểu nguyên tắc bố cục nguyên tắc tương phản cân đối.
Một số hình thức trang trí, nhắc lại, xen kẽ, lắp ghép.
– Trẻ biết sự phong phú các chi tiết xé, phối hợp màu sắc hài hòa.
– Trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của sản phẩm trang trí, góp phần tạo hình nên những xúc cảm thẩm mỹ.
b – Cách tiến hành :
Cô bày tất cả ô tô, xe máy, máy bay,tàu hỏa và nói đây là phương tiện giao thông. Cô cho trẻ quan sát yêu cầu trẻ nhớ các phương tiện trên. Sau đó lấy tấm vải che lên.Trẻ sẽ kể những phương tiện trên cần cho con như thế nào?
Trẻ nào kể nhanh và chở gì thì được nhiều điểm?
Sau khi trẻ kể xong cô mở khăn và kiểm tra rồi nói tưng phương tiện.
Trò chơi kết thúc khi kể hết các phương tiện
c- Điều kiện cần :
– Chuẩn bị : ô tô, xe máy, máy bay, tàu hỏa, xe đạp.
5.2.2. Nhóm trò chơi nhằm hình thành kích thích cảm nhận thẩm mĩ đối với sản phẩm NTTT.
Trò chơi 1 :BÉ VỚI CÁC LOẠI HOA .
a- Mục đích giáo dục: :
Tạo điều kiện thuận lợi để trẻ tiếp thu những biểu tượng và kỹ năng cần thiết trong hoạt động trang trí.
b- Cách tiến hành :
– Chia trẻ thành các nhóm : Mỗi trẻ đều có sản phẩm trang trí của mình.
– Cô làm mẫu : Cô đến bên một trẻ có bài : ” Xé các loại hoa “
– Cô hỏi : hoa này là hoa gì? Các cánh hoa sắp xếp như thế nào?
– Sau đó trẻ lần lượt nói về các loại hoa của mình.
c- Điều kiện :
Thu thập những bài trang trí của trẻ để trẻ trả lời.
Trò chơi 2 : ĐI THĂM TRANG TRẠI
a – Mục đích giáo dục:
– Trẻ cảm nhận được những con vật gần gũi trẻ thường nhìn thấy và thể hiện được.
– Tạo cảm hứng cho trẻ khi thể hiện khả năng trang trí.
b – Cách tiến hành :
Cô và trẻ cùng bày trí một khu trang trại thật đẹp có đủ các con vật gần gũi.
– Cô đóng vai ” Bác trang trại ” ( người thuyết minh )
– Một trẻ trưởng đoàn dắt các bạn đến.
Bác trang trại đó sẽ thuyết minh về các con vật nuôi sống có ích. Trẻ đi theo đoàn ngắm nghía nghe cô giải thích . Ví Dụ : Bác trang trại nói : ” Xin giới thiệu với các cháu, đây là gà mái nó đẻ trứng cung cấp nguồn thực phẩm rất có ích”…
– Kết thúc : Bác trang trại chào tạm biệt các cháu.
c- Điều kiện cần :
– Gà, chó, mèo, ngan, nghỗng, lợn, trâu bò, chim bồ câu, thỏ ( bằng nhựa ).
– Trang trí ở góc lớp.
5.2.3 : Nhóm trò chơi tạo ra sản phẩm tạo hình.
Trò chơi 1 :TỦ THUỐC MẦM NON :
- Mục đích giáo dục:
Tổ chức cho trẻ thực hiện khả năng trang trí của mình để tạo ra sản phẩm, phong phú, đa dạng, có hiệu quả.
Kích thích hứng thú khả năng sáng tạo và tính tích cực hoạt động của trẻ.
b – Cách tiến hành :
– Chia trẻ làm 3 đội thi xem đội nà làm nhanh và đẹp.
– Cho trẻ trang trí mặt bên ngoài hộp thuốc hộp bằng bìa cát tông.
– Chuẩn bị những vật liệu trang trí mặt lên của vỏ hộp giấy :
+ Hình trang trí chữ thập.
+ Giấy màu trang trí xung quanh .
+ Một số lọ thuốc trang trí thêm bằng cát tông.
– Trò chơi kết thúc : cô nhận xét hộp thuốc của trẻ
c- Điều kiện cần :
– Hộp giấy lớn có nắp mở ngang.
– Kéo, keo dán.
– Bút lông.
– Giấy thủ công.
Trò chơi 2 : BÉ LÀM HỌA SĨ .
a – Mục đích giáo dục:
– Trẻ biết cách bày trí các hình học và đồ dùng theo yêu cầu .
– Kích thích nhu cầu nhận thức, giúp trẻ bộc lộ khả năng quan sát, mô tả. Qua đó hình thành và phát triển hành động mang tính tự giác, mang tính mô hình hóa ở dạng ngôn ngữ thầm triển khai thành lời nói.
b – Cách tiến hành :
Các họa sĩ nhắm mắt và nhận dạng các hình họa rồi lắp ghép chúng lại theo sự mô tả của người đặt tranh.
Cho trẻ chon vai chơi ( người đặt tranh, họa sĩ )
Chọn trẻ vào vòng trong, ơn định tư thế và dùng khăn che mắt
Người đặt tranh sẽ ra yêu cầu :
– Tôi cần vẽ một bức tranh có ngôi nhà, cây xanh, mặt trời…
Cho trẻ sờ vào các hình học hoặc các đồ vật được thiết kế mô phỏng đã chon, sắp xếp trang trí bức tranh theo đúng yêu cầu :
– kiến chúc : kiểm tra sản phẩm của họa sĩ. So sánh với lời mô tả ban dầu và đánh giá
c- Điều kiện cần :
– Các bức tranh vẽ những con vật đơn giản, các hình học bằng giấy, bìa carton,…, hình ngôi nhà, mặt trời, cây xanh, giấy nước, que hộp hạt …
Trò chơi 3 : NGÔI NHÀ VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
a – Mục đích giáo dục:
Trẻ biết dùng những hình học để tạo ra ngôi nhà, trang trí ngôi nhà và vườn cây.
b – Cách tiến hành :
Cô đưa ra yếu tố chơi : ” Quê hương mình có nhiều con đường và nhiều ngôi nhà rất đẹp, nhiều nhà đang xây dựng chưa xong đang cần tuyển những nhà thiết kế tài ba để xây dựng nốt. Cả lớp sẽ tham gia vào cuộc thi xem ai trúng tuyển ” .
– Cuộc thi kết thúc cô và trẻ chọn ra người trúng tuyển .
– Dùng giấy thủ công màu cắt thành hình ngôi nhà. Trang trí ngôi nhà với cửa sổ, trời mây, có cỏ cây hoa lá.
– Giờ chơi kết thúc, cô cùng trẻ chọn ra nhà được thiết kế đẹp nhất.
c- Điều kiện cần :
Bìa carton, giấy thủ công, bút lông, kéo và keo dán.
5.2.4. Nhóm trò chơi ứng dụng sáng tạo các sản phẩm tạo hình.
Trò chơi 1: BÉ HÁI HOA DÂN CHỦ
a – Mục đích giáo dục:
– Cho trẻ thấy được vẻ đẹp của những hình ảnh trang trí như giá trị ứng dụng của các sản phẩm NTTT.
– Hình thành ở trẻ lòng mong muốn được sáng tạo ra cái đẹp cho cuộc sống.
b – Cách tiến hành :
Cô phổ biến trò chơi : ” Hôm nay có cuộc thi hái hoa dân chủ nhân dịp tết . Cần có cây hoa đẹp. Nên ban tổ chức muốn thi xem cây nào được chọn “.
Cô phát cho mỗi đội một cây.
Nhiệm vụ của các đội phải trang trí bằng các giấy màu cát hoặc xé dán, hoặc gấp và một giấy óng ánh khác.
Kết thúc : Cô mở buổi diễn hái hoa dân chủ
c- Điều kiện cần :
– 6 cây, giấy màu, hồ dán, kéo.
– Dây óng ánh, giấy óng ánh bọc quà để dùng trang trí cây.
Trò chơi 2: CHUẨN BỊ NĂM HỌC MỚI
a – Mục đích giáo dục:
– Hình thành và rèn luyện kỹ năng trang trí cho trẻ.
– Giúp trẻ biết vận dụng kiến thức và kỹ năng vào những hoạt động trang trí khác nhau trong trường MN, ngày lễ hội.
– Giúp trẻ có ý thức gọn gàng, ngăn nắp, có nhu cầu tạo ra cái đẹp phong phú trong chính hoạt động của mình.
b – Cách tiến hành :
– Cô gây hứng thú chuẩn bị vào năm học mới trương MN yêu cầu các lớp thật đẹp trang trí lộng lẫy và trường chuẩn điểm lớp nào đẹp sẽ được điểm cao
– Cô chia trẻ thành các nhóm, từng nhóm có nhiệm vụ trang trí góc của mình.
Ví Dụ : + Góc học tập: sắp xếp đồ dùng, sách vở trên giá gọn gàng, ngăn nắp.
+ Góc phân vai: Đồ dung, đồ chơi mầm non sắp xếp đúng theo bộ.
+ Góc xây dựng: Lắp ghép công trình của chủ điểm MN.
– Kết thúc cuộc chơi : Cô đến từng góc nhận xét, tuyên dương góc được trang trí đẹp nhất.
c- Điều kiện cần :
Những đồ dùng, vật liệu để trang trí.
5.3.Những điều kiện sử dụng các trò chơi đã thiết kế
Những trò chơi được sử dụng vào bài cô đã thiết kế rất phù hợp từng bài, từng chủ điểm. Đòi hỏi cô giáo phải nhanh nhậy lắm bắt chương trình để đưa kiến thức ngày càng nâng cao.
Những trò chơi cô thiết kế giúp cho trẻ nghệ thuật rất cao có sáng tạo hơn trong bài xé, trẻ rất tỉ mỉ nhiều chi tiết từ nhỏ nhất đến phức tạp, nhiều trẻ có khả năng làm được.
Chương III
TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1). Mục đích thực nghiệm :
– Tổ chức thực nghiệm để xem xét mức độ đúng đắn, hiệu quả của các trò chơi đưa ra để nghiên cứu và khẳng định vai trò của các trò chơi. Giúp trẻ MGL phát triển kỹ năng xé dán cho trẻ . Từ đó tìm ra cách thức sử dụng các trò chơi trong HĐTH sao cho hiệu quả nhất và đánh giá đúng đắn giả thiết khoa học của khóa luận .
2). Nội dung và cách thức tiến hành :
Tiến hành thực nghiệm trên trẻ MGL ( 5-6T ) tại trường MN Bán Công Tri Trung.
Nội dung thực nghiệm gồm 3 bước :
Nhóm I : nhóm ( đối chứng ) ĐC.
Nhóm II : Nhóm ( thực nghiệm ) TN.
2.1 .Khảo sát thực nghiệm :
Chương trình khảo sát thực được thực hiện như nhau ở nhóm trẻ để kiểm tra trình độ tạo hình của trẻ trước khi bước vào thực nghiệm tác động.
Phần này em đã sử dụng 3 bài tập tạo hình.
– Xé dán vườn cây ăn quả.
– Xé dán thuyền trên biển.
– Xé dán các loại hoa.
Sau khi trẻ hoàn thành 3 bài tập trên. Kết quả khảo sát
Em thấy số trẻ hoàn thành bài tập tương đương nhau, đường xé chưa được mịn vẫn còn lam nham, phối hợp mảng giấy chưa hợp lý. Nhìn chung trẻ làm bài chưa kỹ xảo.
2.2. Thực nghiệm tác động :
Tiến hành TNTĐ trong thời gian 1 thán em chia trẻ thành 2 nhóm :
– Nhóm TNTĐ.
– Nhóm ĐT
Số trẻ 2 nhóm bằng nhau, trẻ mỗi nhóm đều có tâm lý nói chung và trí tuệ nói riêng phát triển bình thường đồng đều về trình độ.
– Trong chương trình thực nghiệm tác động em đã biết sử dụng các BTTH :