Archive
Biện pháp giáo dục luật lệ an toàn giao thông cho trẻ
Biện pháp giáo dục luật lệ an toàn giao thông cho trẻ
ĐẶT VẤN ĐỀ
“An toàn là bạn, tai nạn là thự”
Đó chính là khẩu hiệu mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta vẫn luôn được nhắc nhở để đảm bảo an toàn cho chính bản thân khi tham gia giao thông. Và khẩu hiệu này lại càng cú ý nghĩa hơn bao giờ hết trong thời đại hiện nay – thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đất nước Việt nam ta đang trên đường phát triển và đổi mới về mọi mặt như kinh tế, chính trị đặc biệt là gia nhập WTO. Cùng với sự phát triển đó đời sống nhân dân cũng được cải thiện, các phương tiện phục vụ nhu cầu đi lại cũng phát triển. Nước ta phát triển như vậy nhưng bên cạnh đó còn một số vấn đề làm cho chúng ta cần phải suy nghĩ đó là an toàn giao thông.
Có thể nói tai nạn giao thông không chỉ gây đau thương mất mát tiền của cho mọi người mà còn ảnh hưởng nghiệm trọng đến sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Nhận thức được vấn đề trên Chính phủ ta đã có rất nhiều nỗ lực để đẩy mạnh giáo dục an toàn giao thông. Theo nghị định của Chính phủ từ ngày 15/12/2007 tất cả mọi người đều phải đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy nhưng do ý thức của người tham gia giao thông chưa cao nên các vụ tai nạn giao thông vẫn xảy ra ở mức báo động. Đặc biệt số nạn nhõn là trẻ em chiếm một con số khụng nhỏ. Trong đó cũng có nguyên nhân khách quan nhưng cũng có nguyên nhân chủ quan do chính các em. Điều đó là do ý thức coi thường pháp luật của người lớn và do trẻ không nắm được luật an toàn giao thông.
Trên thực tế người đi đường thường giật mình khi thấy phụ huynh trở trẻ em bằng xe máy, hầu hết không đảm bảo an toàn. Thường là phụ huynh cho trẻ ngồi lên trên ghế sắt lắp thêm ở phía trước hoặc ngồi lên trên yên xe phía sau, không đội mũ bảo hiểm, và cũng chẳng có đai an toàn. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của người cầm lái, tai nạn đáng tiếc cho trẻ có thể xảy ra. Trẻ em là tương lai của đất nước, giáo dục cho trẻ có kiến thức về văn hóa, pháp luật nói chung và giáo dục luật lệ an toàn giao thông là bài học không thể thiếu ở các trường mầm non. Ngay từ khi cũn nhỏ, cần cung cấp cho trẻ những kiến thức đơn giản nhất trong ứng xử, hành vi của mình để các em hình thành thúi quen có trách nhiệm với hành vi của mình, với cộng đồng và xó hội, để đến khi trưởng thành chính các em sẽ là những tuyên truyền viên tích cực trong việc chấp hành pháp luật về an toàn giao thông và hình thành “Văn hóa giao thông”.
Xuất phát từ thực tế trên và từ sự nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mầm non, bản thân tụi là một giáo viên mầm non, tôi đó mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giáo dục luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi tại trường mầm non xó Yờn Mỹ”.
* Mục đích nghiờn cứu:
– Thực trạng việc chấp hành luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giỏo nhỡ
4 – 5 tuổi ở trường mầm non xó Yờn Mỹ.
– Một số biện phỏp giỏo dục chấp hành luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giỏo nhỡ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non xó Yờn Mỹ.
* Đối tượng nghiên cứu:
– Biện phỏp giỏo dục luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giỏo nhỡ 4 – 5 tuổi.
* Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp dùng lời.
Phương pháp dùng trũ chơi.
* Phạm vi nghiờn cứu:
– Trẻ mẫu giỏo nhỡ 4 – 5 tuổi, lớp B3, trường mầm non xó Yờn Mỹ, Huyện Thanh Trỡ. Năm học 2012 – 2013.
* Kế hoạch nghiờn cứu:
Thời gian 8 tháng ( Bắt đầu từ tháng 9/2012 đến tháng 4/2013
Giao thông vận tải là vấn đề huyết mạch của nền kinh tế, là điều kiện quan trọng để giao lưu từ nơi này qua nơi khác. Hũa chung với cỏc nước tiên tiến trên thế giới, trẻ em được giáo dục an toàn giao thụng ngay từ nhỏ “mưa dầm thấm lâu”. Một khi việc tụn trọng phỏp luật và chấp hành nghiờm chỉnh chấp hành luật giao thụng trở thành một thúi quen tốt của mọi cụng dõn thỡ vấn đề tai nạn giao thụng khụng cũn là nỗi lo của toàn xó hội. Cựng với việc giảng dạy cỏc hoạt động chung, hoạt động góc các hoạt động diễn ra trong ngảy ở trường mầm non và trọng điểm là phương pháp giáo dục an toàn giao thông cho trẻ mầm non là một trong những yêu cầu cơ bản của chương trỡnh giỏo dục mầm non mới.
Trẻ mầm non là lứa tuổi dễ dàng tiếp thu hỡnh thành thúi quen tốt giỳp trẻ sau này trở thành một cụng dõn tốt, chấp hành luật lệ giao thụng. Trước mắt giao dục cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về luật an toàn giao thông. Có những thói quen ban đầu biết chấp hành luật giao thông, biết được hậu quả tai hại của tai nạn giao thông làm cho nhiều người bị chết nhiều người bị thương. Nhiều trẻ em phải mồ cụi cha mẹ khi cũn quỏ nhỏ do tai nạn giao thông. Từ đó giúp trẻ có ý thức tốt trong việc chấp hành luật lệ an toàn giao thông và có hành động đúng khi tham gia giao thông
Trường mầm non xó Yờn Mỹ thuộc xó Yờn Mỹ – Huyện Thanh Trỡ nằm trên địa bàn ngoài đê. Trường đạt trường chuẩn quốc gia mức độ I, đó đạt danh hiệu “Trường tiên tiến xuất sắc cấp thành phố”. Năm học 2012-2013 này nhà trường phấn đấu giữ vững danh hiệu “Trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố”. Nhà trường tiếp tục xây sửa quy mô hơn, khang trang rộng rói hơn. Khung cảnh sư phạm của trường đẹp và luôn giữ vững danh hiệu “Trường học thân thiện – Học sinh tớch cực”.
Năm học 2012 – 2013 nhà trường phân cụng cho tụi và cụ Nguyễn Thị Minh Thoa phụ trỏch lớp mẫu giỏo nhỡ B3. Giỏo viờn cú trỡnh độ chuyên môn chuẩn:
Tôi đó cú bằng trung cấp Sư phạm và đang học lớp Đại học Sư phạm mầm non.
Cụ Nguyễn Thị Minh Thoa: trỡnh độ Trung cấp Sư phạm mẫu giáo nhà trẻ Hà Nội.
Lớp B3 được hai cô luôn trang trớ lớp phự hợp với chủ đề, đẹp, gần gũi, hấp dẫn trẻ với sĩ số là 39 cháu trong đó có 25 chỏu nam và 14 chỏu nữ.
Với đặc điểm tỡnh hỡnh như vậy, khi được nhà trường phân công tôi rất băn khoăn lo lắng bởi một số khó khăn và thuận lợi sau:
– Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất về chuyên môn và nhân lực để giáo viên có thể triển khai các biện pháp giáo dục an toàn giao thông cho trẻ tại lớp.
– Hai cụ giỏo phối hợp nhịp nhàng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
– Bản thõn là giỏo viờn yêu nghề mến trẻ, có trách nhiệm cao trong việc thực hiện nhiệm vụ nhà trường giao cho.
– Trẻ đi học đều, đúng giờ nên lớp luôn đạt tỉ lệ chuyên cần cao.
– Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình hưởng ứng và tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên thực hiện các biện pháp giáo dục luật lệ và an toàn giao thông cho trẻ, phối kết hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
– Đồ dùng, đồ chơi mầm non về giao thông chưa phong phú về chủng loại.
– Các bậc phụ huynh hầu hết là người dân địa phương, đó quen với giao thụng tự do trong làng xúm nờn chưa hiểu hết vai trũ và tầm quan trọng của giỏo dục an toàn giao thụng.
– Đa số cỏc bậc phụ huynh chưa quan tầm và dành thời gian dạy trẻ luật lệ và an toàn giao thông.
– Trong quá trình tham gia giao thông trẻ luôn chứng kiến những cảnh giao thông lộn xộn gây ảnh hưởng đến ý thức của trẻ.
– Một số trẻ nhỳt nhỏt chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động của lớp.
Xuất phát từ những khó khăn và thuận lợi trên nên tôi đó nghiờn cứu và đó sử dụng một số biện pháp sau:
Link tải tài liệu: https://tinyurl.com/pt5mzha
Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ 5 – 6 tuổi
Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ 5 – 6 tuổi
– Trẻ lớp tôi có sự chuyển biến rõ nét về các hành vi văn minh của mình. Điều này chứng minh rằng qua các câu chuyện cùng với các phương thức sử dụng đa dạng,
linh hoạt đã giúp trẻ tiếp nhận kiến thức một cách hiệu quả. Quan trọng hơn là trẻ đã biết chuyển hóa từ kiến thức thành nhận thức, từ nhận thức thành hành động cụ thể.
– Khi thực hiện giáo dục hành vi văn minh cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua truyện kể lớp tôi được Ban giám hiệu đánh giá rất cao, lớp tôi được chọn làm điểm của trường về “Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ mầm non”.
– Các câu chuyện do tôi sáng tác nhằm giáo dục cho trẻ về hành vi văn minh cho trẻ mầm non được phổ biến rộng rãi trong trưởng.
– Những câu chuyện này khi được cung cấp cho phụ huynh, các bậc phụ huynh rất quan tâm, có sự trao đổi – phản hồi tích cực ngược trở lại với giáo viên tại lớp.
– Bản thân tôi đã đóng một số biện pháp trong việc giáo dục về hành vi văn minh cho kho tư liệu giảng dạy của Nhà trường.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Kết luận:
– Việc rèn luyện hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo là một trong những nhiệm vụ giáo dục toàn diện. Nó hình thành cho trẻ có những hành vi văn minh đối với người xung quanh. Đức tính này được hình thành vững chắc từ lứa tuổi mẫu giáo là lứa tuổi trẻ rất dễ nhạy cảm và nhanh chóng tiếp thu những điều học được ở trường và hình thành dấu ấn lâu dài. Góp phần xây dựng nền tảng ban đầu của nhân cách con người ở trường mầm non. Nhưng công việc thật không đơn giản. Trình độ nhận thức tiếp thu của mỗi cháu khác nhau, điều kiện hoàn cảnh sống từng gia đình mỗi cháu không đồng đều vì vậy qua quá trình thực hiện tôi nhân thấy muốn thực hiện tốt việc này, bản thân mỗi giáo viên cần phải có được.
– Văn học vốn là phương tiện hữu hiệu nhất, quen thuộc nhất đối với trẻ. Ngay từ khi còn rất nhỏ những câu chuyện dân cổ tích, vần thơ đã đem đến cho trẻ biết bao điều mới lạ. Văn học vì vậy mà cũng trở thành công cụ hữu hiệu của các nhà giáo dục để truyền tải kiến thức cho trẻ. Những kiến thức khô khan đôi khi có phần xa lạ đối với trẻ bỗng trở nên gần gũi, quen thuộc.
- Bài học kinh nghiệm:
– Thơ – truyện đã giúp trẻ thu thập được những kiến thức, những hiểu biết về các hành vi văn minh.
– Khi giáo viên khuyến khích động viện trẻ, biết khơi gợi ở trẻ sự tò mò trẻ sẽ rất thích thú tham gia hoạt động.
– Nếu giáo viên tạo điều kiện cho trẻ hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, nêu ra ý tưởng của mình đồng thời người giáo viên có phương pháp tốt để gợi ý giúp trẻ phát triển những ý tưởng để trẻ cùng với cô có thể sáng tác ra nhiều truyện. Qua đó, trẻ sẽ nhận ra những giá trị của bản thân, tự tin khi nhận các nhiệm vụ được giao. Mặt khác, các kiến thức đó cung cấp cho trẻ càng được khắc sâu, nhận thức của trẻ được nâng lên thành ý thức.
– Khi giáo viên có sự trao đổi tích cực với phụ huynh thông qua giao tiếp hàng ngày, bảng tuyên truyền và thông qua các tài liệu trực quan sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục. Phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo, đồng thời cô giáo đã góp phần tuyên truyền phổ biến kiến thức cho cộng đồng, vận động cộng đồng cùng chung tay hành động.
- Đề xuất – Khuyến nghị:
– Các cấp lãnh đạo tạo điều kiện tổ chức các lớp tập huấn về phương pháp giáo dục hành vi văn minh cho trẻ.
– Phòng giáo dục, nhà trường tổ chức kiến tập theo chuyên đề “Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ”.
Trên đây là một số biện pháp của tôi đã triển khai thực hiện. Tôi đã áp dụng thành công ở lớp A1 – trường Mầm non B thị trấn Văn Điển và thu được kết quả tốt. Rất mong nhận được sự góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để đề tài này ngày một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giaoductrevanmimh
Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo
Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh thời, Bác Hồ kính yêu vẫn luôn nhắc nhở đồng bào phải: “Cần, kiệm, liêm, chính”. Trong bốn đức tính đó, đức tính kiệm tức là tiết kiệm chiếm phần khá là quan trọng. Điển hình là phong trào tiết kiệm toàn dân mỗi ngày một năm gạo. Một nắm gạo tưởng chừng nhỏ nhoi nhưng khi được sự đồng lòng của cả dân tộc ấy lại cực kỳ quan trọng. Nắm gạo nuôi những anh bộ độ anh hùng, nuôi kháng chiến lâu dài và đặc biệt là nuôi niềm tin chiến thắng của cả dân tộc
Đến thời nay, tiết kiệm cũng vẫn luôn được coi là chủ chương hàng đầu trong toàn Đảng, toàn dân tộc. Tiết kiệm điện, nước, nguyên liệu, chất đốt, tiền bạc….không chỉ là tiết kiệm cho bản thân mình, vì quyền lợi của mình mà còn là làm lợi cho xã hội, cho đất nước. Như phong trào tiết kiệm hưởng ứng giờ trái đất, tiết kiệm toàn dân….
Thực tế đối với bậc học mầm non, tiết kiệm cũng đã, đang và luôn là vẫn đề cấp thiết. Không chỉ đối với giáo viên, nhân viên mà đối với trẻ mầm non cũng cần phải hiểu rõ và nâng cao ý thức tiết kiệm. Điều này vô cùng quan trọng trong đời sống của trẻ. Bởi khi đứa trẻ có ý thức tiết kiệm trong mọi hành động, thì ý thức đó sẽ khắc sâu vào cuộc sống của trẻ. Qua đó tạo nền tảng hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Thế nhưng để dạy một đứa trẻ nhỏ nhất là lại đang ở lứa tuổi mầm non, khi mà khả năng chú ý còn hạn chế, hay nhớ hay quên thì là là một vấn đề không nhỏ. Bởi đối với trẻ mầm non, tiết kiệm còn là một phạm trù “mới ”. Đa số trẻ được sống trong tình thương yêu của gia đình, được đáp ứng đầy đủ thậm chí là dư thừa về vật chất và tình cảm. Vì thế tiết kiệm với trẻ mầm non còn mông lung và chưa sát thực. Cho nên còn nhiều tình trạng trẻ mầm non chưa có ý thức và hành động đối với vấn đề tiết kiệm .
Tại trường mầm non B thị trấn Văn Điển, toàn thể nhà trường luôn nâng cao ý thức và trách nhiệm trong mọi vấn đề về tiết kiệm điện nước, năng lượng…Nhưng thực tế tôi nhận thấy con nhiều tình trạng trẻ còn chưa hiểu, chưa ý thức được nên không thể có những hành động phù hợp. Từ thực trạng trên , tôi đã trăn trở làm thế nào để dạy trẻ mầm non đức tính tiết kiệm nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách trẻ. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non” làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này.
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/Cơ sở lí luận.
Tiết kiệm có thể hiểu: Tiết là giảm bớt, hạn chế , kiệm là dành dụm không lãng phí xa hoa.
Tiết kiệm đối với trẻ mầm non cũng tương tự như vậy, nhưng nó đơn giản hơn và gắn liền với những hành động như: biết sử dụng đúng các đồ dùng, đồ chơi, giữ gìn đồ dùng, đồ chơi chung ở lớp, ở nhà, khi ăn phải ăn hết xuất, khi rửa tay chăn mặt mũi thì phải vặn nước sao cho vừa phải tránh gây lãng phí…vv
Sự phát triển về nhân cách của trẻ nói chung trong đó có yếu tố tính cách như tính tiết kiệm nói riêng là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của trẻ
Với trẻ 4-5 tuổi mọi suy nghĩ và hành động chịu ảnh hưởng lớn từ người lớn, nhất là những người gần gũi hằng ngày với trẻ như bố mẹ và cô giáo. Khi người lớn định hướng, dạy trẻ ngay từ tấm bé, tạo cho trẻ cảm giác thoải mái tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên nhất thì đứa trẻ đó chắc chắn sẽ được phát triển tốt. Bên cạnh đó, khi dạy trẻ đức tính tiết kiệm, người lớn cần cũng cần dạy cho trẻ hiểu rõ bản chất của việc tiết kiệm: tiết kiệm với trẻ là gì? Tiết kiệm để làm gì? Và Tiết kiệm như thế nào? Khi trẻ hiểu được bản chất của sự việc thì lúc đó ý thức tiết kiệm của trẻ bắt đầu hình thành và phát triển.
Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tinh thần và ý thức tiết kiệm không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần, hình thành thói quen tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi. Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi dạy trẻ phải có phương pháp, thời gian và luôn là tấm gương đối với trẻ
Yêu cầu này cũng đòi hỏi trẻ phải có kiến thức, hiểu rõ được bản chất của việc tiết kiệm dần hình thành thói quen trong mọi sinh hoạt. Điều này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ thống do được củng cố thường xuyên hàng ngày. Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non B thị trấn Văn Điển”
II/Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Năm học 2012 – 2013 tôi được phân công phụ trách lớp mẫu giáo nhỡ B3. trong quá trình thực hiện dạy trẻ tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau
1/ Thuận lợi:
– 4/4 giáo viên phụ trách lớp có trình độ chuyên môn trên chuẩn, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Có lòng say mê với nghề, luôn tự tìm tòi, học hỏi, phấn đấu để tìm ra những phương pháp, hình thức dạy phù hợp, sáng tạo và hấp dẫn trẻ nhằm kích thích trẻ tự trải nghiệm, học hỏi từ đó lĩnh hội tri thức một cách nhanh chóng và sâu sắc
– Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, đầu tư tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất
– Trẻ đi học tương đối đều, được làm quen và củng cố thường xuyên nên đã thành hệ thống, dần hình thành thói quen tiết kiệm tài sản của công, của cá nhân mọi lúc, mọi nơi
– Phụ huynh luôn tin tưởng và ủng hộ trong các hoạt động.
2/ Khó khăn:
– Số trẻ trong lớp quá đông, trong đó có một số trẻ mới đi học chưa có nề nếp học tập cũng như kiến thức của trẻ còn hạn chế, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động đưa trẻ vào nề nếp cũng như dạy trẻ hiểu rõ và hình thành thói quen tiết kiệm cho trẻ.
– 100% trẻ trong lớp đều là con gia đình có một đến hai con, được đáp ứng đầy đủ về vật chất và tinh thần, thậm chí có trẻ còn luôn được đáp ứng tới mức dư thừa. Nên trẻ chưa có khái niệm cũng như thói quen tiết kiệm kể cả của riêng hay của chung
– Để khắc phục và giải quyết thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp như sau
III/ Những biện pháp thực hiện:
- Dạy trẻ nhận biết giá trị của hiện vật, giá trị của việc tiết kiệm
Mỗi một đồ vật hay sự vật đều có giá trị về mặt vật chất hay tinh thần. Khi trẻ hiểu và coi trọng giá trị đó thì trẻ mới có ý thức giữ gìn và tiết kiệm khi sử dụng đồ vật đó.
Mục đích của biện pháp này nhằm giúp trẻ hiểu, nhận biết được giá trị của các đồ vật mà mình đang sử dụng, hay nhận biết được giá trị của việc khi trẻ có ý thức và hành động tiết kiệm cụ thể thì sẽ mang lại những ích lợi như thế nào đối với bản thân và tập thể
Cách thực hiện: Tôi luôn chú ý dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi và thích hợp để trẻ hiểu đước giá trị của mọi đồ vật xung quanh trẻ ở trường, lớp, gia đình… Từ đó hình thành ý thức bản ngã đối với trẻ. Tinh thần tiết kiệm trở thành thói quen trong mọi hoạt động thường ngày.
Ví dụ: Trong giờ chơi, tôi trò chuyện với trẻ về những đồ chơi mà trẻ sẽ chọn: Vì sao mà con lại chọn đồ chơi đó? Đồ chơi ngoài trời mầm non đó do đâu mà có? Nếu không giữ gìn thì điều gì sẽ xảy ra?….Qua những buổi nói chuyện như vậy trẻ sẽ hiểu ý thức giữ gìn, tiết kiệm những đồ chơi ở lớp, ở nhà. Không chỉ để lần sau có để chính bản thân trẻ chơi tiếp mà còn giúp cho người lớn không phải bỏ tiền mua đồ chơi khác để thay thế.
Hay qua các giờ thể dục sáng: Tôi trò chuyện để trẻ hiểu và có ý thức giữ gìn nơ thể thể dục sao cho không bị hỏng. Bởi mỗi một chiếc nơ không chỉ là nhà trường phải bỏ tiền mua ruy băng mà con là công sức các cô khâu nên để cho các con có dụng cụ để tập thể dục giúp các con khỏe mạnh mỗi ngày. Vì thế các con phải có ý thức giữ gìn, không là mất mát, hay hỏng hóc… Như thế chính là hành động tiết kiệm thiết thực cho tập thể lớp B3 chúng mình.
Hay thông qua các hoạt động học: Tôi chú ý trò chuyện và giáo dục trẻ giữ gìn đồ dùng học tập như sách vở, bút sáp, lô tô học tập, giấy A4 tận dụng sử dụng cả hai mặt… Bởi khi trẻ có ý thức giữ gìn đồ dùng học tập thì đó là trẻ đang góp phần tiết kiệm cho chính bản thân trẻ và cho tập thể lớp.
Hay trong các giờ ăn: Giáo dục trẻ ăn hết suất cũng là một hình thức dạy trẻ đức tính tiết kiệm. Thông qua đó trẻ hiểu nếu trẻ ăn hết suất không chỉ chống lãng phí về vật chất mà còn không làm lãng phí công sức các cô nuôi vất vả nấu những bữa ăn ngon cho trẻ…
Giáo dục trẻ ăn hết suất cũng là một hình thức tiết kiệm
Có thể nói, biện pháp này tuy đơn giản nhưng lại rất có hiệu quả trên trẻ. Giúp trẻ hiểu rõ bản chất của vấn đề, từ đó dần hình thành thói quen, ý thức và trách nhiệm tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi.
Kết quả: sau khi thực hiện biện pháp này tôi thấy kết quả đạt được trên trẻ như sau:
– Trẻ nhận biết được giá trị của các đồ dùng, đồ chơi, các hiện vật xung quanh trẻ.
– Trẻ nhận thức được giá trị của việc tiết kiệm qua đó thể hiện bằng những hành động cụ thể như: Sử dụng giữ gìn đồ dùng, đồ chơi, tận dụng những phế liệu như giấy một mặt…
- Đặt ra mục tiêu tiết kiệm, nêu gương và hưởng ứng các phong trào tiết kiệm
Một nguyên tắc mang tính quyết định chính là đặt ra mục tiêu tiết kiệm. Không có nó sẽ dẫn đến trẻ không hiểu tiết kiệm để làm gì? Bên cạnh đó việc nêu gương các cá nhân hay tập thể sẽ kích thích trẻ tạo cho trẻ không khí thi đua, tích cực hưởng ứng các phong trào.
Mục đích của biện pháp này là nhằm giúp trẻ hiểu rõ: Tiết kiệm để làm gì? Qua đó trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động cá nhân hay phong trào của tập thể… từ đó khắc sâu hơn ý nghĩa của việc tiết kiệm đối với trẻ. Góp phần hình thành và phát triển nhân cách đúng đắn của trẻ
Cách làm: Ngay từ đầu năm học, tôi luôn chú ý dạy trẻ ý nghĩa của những hành động tiết kiệm và trò chuyện cùng trẻ, gợi ý và cùng phối hợp với trẻ đặt ra những mục tiêu tiết kiệm đối với trẻ, đối với lớp.
Đối với cá nhân trẻ: là luôn giữ gìn đồ dùng cá nhân như quần áo, vở, bút, không là hỏng vở, rách vở, gãy bút sáp…
Đối với lớp: Giữ gìn đồ dùng đồ chơi chung, không ném, không làm hỏng, dùng nước tiết kiệm, tắt thiết bị điện khi không cần thiết (đối với cô giáo), nhắc nhở bạn bè và người thân về ý thức tiết kiệm…
Bên cạnh đó việc nêu gương cũng vô cùng quan trọng. Tùy mức độ và thời điểm tôi chọn hình thức khen ngợi động viên trẻ ngay sau kết quả đạt được hay vào cuối ngày, cuối tuần.
Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo
Tôi cũng luôn chú trọng trong việc khích lệ, cổ vũ trẻ cùng tham gia hưởng ứng các phong trào tiết kiệm không chỉ phạm vi trường lớp mà còn mở rộng phạm vi xã hội
– Ví dụ: với phong trào tiết kiệm giờ trái đất ngày 23/3/2013, ngoài việc chuẩn bị tâm lý háo hức hưởng ứng cho trẻ như: trò chuyện từ trước về ý nghĩa của việc tham gia hưởng ứng. Giờ trái đất là một sự kiện hàng năm về việc tiết kiệm năng lượng. Vào ngày này mọi công dân trên thế giới đề hưởng ứng bằng những hành động cụ thể như: tắt đèn, thiết bị điện trong một khoảng thời gian nhất định, hay đi xe đạp để tiết kiệm nhiên liệu… với mục đích tiết kiệm vì môi trường, xã hội. Qua ngày có phong trào này tôi còn trò chuyện hỏi trẻ: Con đã làm gì? Gia đình con có tham gia không? Tham gia như thế nào?Vì sao phải tham gia?…
Kết quả: Thông qua biện pháp này, tôi nhận thấy:
Trẻ tiếp thu và khắc sâu ý nghĩa và mục đích của các hành động tiết kiệm, từ đó trẻ tích cực tham gia vào các phong trào mang ý nghĩa tiết kiệm.
Trẻ có ý thức trong việc tiết kiệm như: Biết giữ gìn tài sản cá nhân và của lớp: như đồ dùng, đồ chơi của lớp, biết chú ý dùng cẩn thận các trang thiết bị trong lớp như: Vòi nước, đóng mở cửa nhẹ nhàng…
Tiết kiệm đã trở thành thói quen trong tính cách của trẻ.
- Sử dụng các tình huống
Các tình huống bao giờ cũng gây được cho trẻ ấn tượng và hấp dẫn đối với trẻ. Qua đó kiến thức trẻ tiếp thu được một cách nhẹ nhàng và bền lâu
Mục đích: Tạo ấn tượng với trẻ giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gò bó. Từ đó củng cố thêm chuẩn mực về tiết kiệm. Hình thành ở trẻ ý thức tiết kiệm theo hướng tích cực
Cách làm: Tôi tổ chức cho trẻ được tham gia và trải nghiệm vào các tình huống thật (do cô giáo hoặc trẻ đóng). Hoặc các tình huống thông qua tranh ảnh để trẻ tự mình phát hiện ra trong các tình huống đó có hành động nào phù hợp hay không phù hợp. Hoặc kết hợp các tình huống thông qua hoạt động học, hoạt động chơi.
Ví dụ:
– Cho trẻ quan sát các tình huống thật có sự tham gia của cô hoặc trẻ:
- Trong giờ học:
Trẻ A- Chăm chỉ tô tranh trong vở tập vẽ | Trẻ BLàm vở nhàu nhĩ, xé vở để lấy giấy gấp đồ chơi, bẻ màu sáp |
- Trong giờ chơi:
Trẻ A- Chơi cẩn thận, không tranh giành | Trẻ B- Ném đồ chơi, làm hỏng đồ chơi |
- Trong giờ rửa tay
Trẻ A- Vặn vòi nước quá to, nghịch nước, té nước, làm ướt xung quanhd. Trong giờ ngủ | Trẻ B- Vặn vòi nước vừa phải, rửa tay đúng cách |
Trẻ A- Ngủ ngoan | Trẻ B- Khó ngủ, nghịch dứt dây chiếu khiến chiếu bị rách |
Qua quan sát trẻ sẽ phát hiện nhanh các hành động đúng và hành động sai.Vì sao đúng? Vì sao sai? Lợi ích mang lại của các hành vi đúng. Qua đó giáo dục trẻ nhận thức được các hành vi đúng không những giúp trẻ tiết kiệm cho bản thân, tập thể mà còn giúp trẻ tự nhận ra trách nhiệm của bản thân về tinh thần tiết kiệm
Hay tôi tổ chức các trò chơi có sử dụng các tình huống thật hoặc tranh ảnh có các tình huống
Ví dụ: Trò chơi: Thi xem đội nào nhanh
Chuẩn bị: Lô tô, tranh ảnh có các hành vi đúng, hoặc sai về tiết kiệm
Cách chơi: Trò chơi bắt đầu và kết thúc bằng một bản nhạc, thi theo hình thức tiếp sức. khi bản nhạc bắt đầu bạn đầu hàng sẽ lên lấy một tranh chưa hành động đúng (hoặc theo yêu cầu) gắn lên bảng, rồi về đập tay bạn tiếp theo, bạn tiếp theo sẽ lên tiếp. Cứ thế cho đến khi kết thúc bản nhạc thì trò chơi kết thúc.
Luật chơi: mỗi lượt bạn lên chơi chỉ được lấy một tranh. Đội nào có nhiều kết quả đúng đội đó giành chiến thắng
Thông qua trò chơi kết hợp với các tình huống trẻ hứng thú tiếp thu kiến thức. Từ đó củng cố thêm, trẻ tự ý thức được trách nhiệm trong hành vi của mình hướng đến những hành vi đúng mang tính tiết kiệm, có lợi cho tập thể và cá nhân…
- Dạy trẻ đức tính tiết kiệm thông qua hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là hoạt động nằm ngoài chương trình học chính khóa. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung các kĩ năng và kinh nghiệm sống cho trẻ, góp phần giúp trẻ phát triển nhân cách, dần trở thành một con người toàn diện hơn.
Mục đích: Giúp trẻ được trải nghiệm qua các hoạt động ngoại khóa. Từ đó trẻ ghi nhớ lâu hơn. Thông qua hoạt động ngoại khóa sẽ kéo từ lý luận đến thực tiễn. Từ những lý thuyết cô cung cấp, trẻ được thực hành, được tự mình trải nghiệm, qua đó trẻ sẽ nhớ lâu, nhớ sâu.
Cách làm: Trong các hoạt động ngoại khóa, tôi luôn chú ý lồng ghép, dạy trẻ tinh thần tiết kiệm, ý thức trong mọi hành động.
Ví dụ: Trong hoạt động cùng trẻ phân loại rác, sưu tầm và thực hiện làm đồ chơi trong lớp mầm non từ phế liệu:
Khi tổ chức hoạt động này tôi cùng trẻ trò chuyện từ trước về nguồn gốc của các loại phế liệu, cách xử lý sao cho phù hợp mà vẫn đảm bảo tính tiết kiệm và bảo vệ môi trường không bị ảnh hưởng. Trong đó cách xử lý tận dụng tái chế phế liệu được xem là tốt nhất, những loại phế liệu nào có thể tái chế… Qua những buổi trò chuyện như vậy tôi tổ chức một buổi phân loại rác nhỏ tại sân trường ( Rác do cô đã chuẩn bị từ trước). Kết hợp cùng trẻ sưu tầm những phế liệu, đồ cũ… từ đó tập trung lại. Từ những phế liệu như vỏ hộp, vỏ trai, ngao… tôi cùng trẻ làm ra những đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho nhu cầu của lớp, của bản thân trẻ
Cô cùng trẻ làm đồ dùng, đồ chơi từ phế liệu
Ở hoạt động này, trẻ không chỉ hứng thú, kích thích óc sáng tạo vì được tự mình là ra những đồ dùng, đồ chơi có ích và hấp dẫn đối với trẻ mà qua đó ý thức tiết kiệm và bảo vệ môi trường được củng cố
- Cô giáo luôn là tấm gương đối với trẻ
Đối với trẻ 4 – 5 tuổi, suy nghĩ và hành động đa số ảnh hưởng từ người lớn. Một ngày trẻ ở trường 8 – 10 tiếng với cô giáo. Được cô chăm sóc từ bữa ăn, giấc ngủ đến các hoạt động học tập và vui chơi nên cô giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ. Biện pháp này tuy đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả, bởi với trẻ mầm non luôn coi cô giáo là chuẩn mực trong mọi việc
Mục đích của biện pháp này là giúp trẻ củng cố thêm về chuẩn mực hành động tiết kiệm đồng thời kích thích trẻ tự đặt ra mục tiêu hành động theo chuẩn mực đó. Từ đó dần hình thành thói quen tiết kiêm
Cách làm: Tôi luôn chú ý cố găng là tấm gương tiết kiệm trong mọi hoạt động để trẻ noi theo. Bởi tôi nhận thức rằng khi cô giáo luôn ý thức tiết kiệm trong mọi hoạt động trước trẻ thì đương nhiên trẻ thấy rằng tiết kiệm là việc đúng đắn và trẻ luôn cố gắng làm giống cô giáo. Lâu dần sẽ hình thành thói quen tiết kiệm đối với trẻ
Ví dụ: Trong hoạt động khâu lại những mép chiếu đã bị rách (bởi những trẻ khó ngủ, ngủ muộn rất thích nghịch như việc dứt dây chiếu, nan chiếu), bên cạnh việc cho trẻ chứng kiến, quan sát, tôi trò chuyện để trẻ thấy rằng việc khâu lại vừa giúp nhà trường không phải đầu tư mua thay thế vừa để chiếu không bị rách thêm. Tuy nhiên các con phải chú ý không nghịch dứt dây chiếu dẫn đến hỏng chiếu thì sẽ không có chiếu để ngủ mà còn gây lãng phí tiền bạc của nhà trường và lãng phí công sức của các cô. Qua đó trẻ sẽ hiểu và ý thức không đùa nghịch, dứt chiếu trong giờ ngủ.
Cô và trẻ cùng khâu lại mép chiếu bị rách
Hay trong việc tiết kiệm năng lượng điện, nước… Tôi luôn chú ý dạy trẻ và làm gương trong những hành động tiết kiệm như phải biết vặn vòi nước vừa phải khi rửa tay chân, rót nước uống vừa đủ lượng mình uống để tránh gây lãng phí, tắt điện khi không cần thiết …
Trẻ có ý thức sử dụng tiết kiệm nước sinh hoạt
Kết quả: – 100% trẻ hiểu và ý thức được chuẩn mực hành động tiết kiệm
– Trong lớp không còn tình trạng trẻ nghịch phá đồ dùng đồ chơi: như dứt dây chiếu trong giờ ngủ, ném đồ dùng, đồ chơi
– 100% trẻ có thói quen tiết kiệm trong các hoạt động ví dụ như: sử dụng giấy tận dụng cả hai mặt, giữ gìn đồ dùng của chung…
- Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Biên pháp này là biện pháp thường nhật chúng ta hay sử dụng nhưng lại mang lại kết quả cao.
Mục đích: Thông qua trao đổi với phụ huynh, cô giáo có thể nắm bắt được tình hình của trẻ qua đó đánh giá một cách khách quan về trẻ từ đó có những biện pháp thích hợp với mỗi cá nhân trẻ
Cách thực hiện: Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực dạy trẻ đức tính tiết kiệm, đặc biệt là thông qua các hoạt động tiết kiệm dần hình thành tính cách tự giác nơi trẻ góp phần phát triển nhân cách trẻ ngày càng hoàn thiện.
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng, qua các buổi trò chuyện trực tiếp. Qua đó phụ huynh thấy được tinh thần tiết kiệm của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích tính tự giác trong các hành động tiết kiệm của trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Huy động phụ huynh cùng sưu tầm các vật liệu, phế liệu hoặc thu nhập những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như: vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút xốp…kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh
Tuyên truyền với phụ huynh thông qua giờ đón trả trẻ
Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng trong việc dạy trẻ đức tính tiết kiệm để trẻ phát triển ngày càng toàn diện hơn
- KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Kết quả:
Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Về bản thân:
-Tôi thấy mình đã nâng cao được tinh thần tiết kiệm cho bản thân, cho tập thể cũng như trong việc dạy trẻ đức tính tiết kiệm
-Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ đức tính tiết kiệm, tạo tiền đề cho một thế hệ trẻ mầm xanh của tổ quốc, không chỉ trong phạm vi gia đình, nhà trường mà còn vì cả cộng đồng chung
- Về trẻ:
Nội dung | Trước khi thực hiện | Sau khi thực hiện |
Nhận thức được ý nghĩa và vai trò của việc tiết kiệm | 25% | 95% (Tăng 70%) |
Nhận thức được mục đích của việc tiết kiệm | 25% | 95% (Tăng 70%) |
Có hành động cụ thể trong việc tiết kiệm | 20% | 90% (Tăng 70%) |
Tích cực, hứng thú tham gia các phong trào tiết kiệm | 15% | 80 (Tăng 65%) |
- Về phụ huynh:
– Nhận thức ra được tầm quan trọng của việc dạy trẻ tiết kiệm thông qua các hoạt động
– Cùng phối hợp với giáo viên trong mọi hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển ngày một hoàn thiện
- Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên tôi đã rút ra nhưng bài học kinh nghiệm sau:
– Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường tốt cho trẻ hoạt động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm xúc cho trẻ khi dạy trẻ đức tính tiết kiệm
– Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ tinh thần tự giác trong các hoạt động.
– Khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động tiết kiệm mang tính tập thể nhằm giúp trẻ hình thành tính cộng đồng.
– Cho trẻ quan sát sự kiện, truyền thông nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ; kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của đức tính tiết kiệm và nói lên nhận xét của mình
- Kết luận
Dạy trẻ mầm non đức tính tiết kiệm là một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đáp ứng nhu cầu về thực trạng xã hội, đòi hỏi cô giáo phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm “Một số biện pháp dạy trẻ đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non” tôi xin giới thiệu để chị em đồng nghiệp cùng`tham khảo và đóng góp thêm ý kiến để giúp tôi có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy
Nguồn: Thiết bị giáo dục hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/daytretietkiemtien
Xin chân thành cảm ơn!
Hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi
Hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi
PHẤN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
(Sáng kiến kinh nghiệm mầm non)Vâng! Lời nói đó và khẩu hiệu đó luôn được đề cao và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của đất nước ta. Trẻ khỏe mạnh và thông minh là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là niềm mơ ước và hy vọng lớn khi hướng vào tương lai. Chính vì thế muốn xây dựng một đất nước phồn vinh gia đình hạnh phúc không thể không nói đến việc xây dựng tính cách con người mới xã hội chủ nghĩa có đầy đủ phẩm chất tư cách đạo đức tốt nhất và đặc biệt có một sức khỏe để phục vụ cho đất nước phục vụ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển, công cuộc xây dựng quê hương đổi mới từng ngày, vì vậy tri thức giảng dạy ở trong nhà trường phải là những kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn, dùng làm chìa khóa để mở cánh cửa khoa học, là cái vốn mà thế hệ trẻ có thể vận dụng vào cuộc sống tiếp tục học lên, tự bồi dưỡng và tiếp thu các quá trình đào tạo tiếp theo trong suốt cuôc đời. Vậy việc trang bị những kiến thức phổ thông cho các cháu là một việc làm vô cùng quan trọng nhằm góp phần xây dựng đất nước.…………….
Giáo dục thể chất là một trong những nội dung quan trọng của nhà trường nhằm đào tạo thế hệ trẻ Việt nam phát triển phong phú về tinh thần, sáng về trí tuệ.
Giáo dục thể chất trong trường mầm non là bảo vệ và tăng cường sức khỏe đồng thời cung cấp những kiến thức giáo dục nhằm phát triển một cơ thể cân đối hài hòa và phát triển toàn diện về nhân cách trẻ. Việc tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục phát triển thể chất rất quan trọng giúp cho hệ thần kinh và các giác quan của trẻ nhanh nhạy hơn và có tác dụng tốt để nâng cao năng lực nhận thức của trẻ. Trên thực tế hoạt động này thường khô khan, cứng nhắc nên trẻ dễ chán dẫn đến mệt mỏi không hứng thú hoạt động.
Trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, các nhiệm vụ giáo dục thể chất được hoàn thành bằng các hình thức khác nhau. Hình thức giáo dục thể chất ở trường mầm non là sự tổng hợp giáo dục về những hoạt động vận động nhiều dạng của trẻ, mà cơ bản là tính tích cực vận động của chúng. Sự tổng hợp những hình thức đó tạo nên một chế độ vận động nhất định, cần thiết cho sự phát triển đầy đủ về thể chất và củng cố sức khỏe cho trẻ. Ở trường mầm non sử dụng hình thức giáo dục thể chất qua các tiết học thể dục và các trò chơi vận động.
Với trẻ mẫu giáo nhỡ tư duy trực quan hình tượng chiếm vị trí cũng khá quan trọng, cơ thể trẻ đang đà phát triển nếu không có biện pháp giáo dục, chọn nội dung phù hợp và tạo cơ hội cho trẻ tham gia rèn luyện, trẻ kém vận động dẫn đến thể lực phát triển không đồng đều. Giáo dục thể chất là nhiệm vụ trọng tâm làm cơ sở cho trẻ phát triển toàn diện, đủ năng lực, đủ đức, đủ tài trở thành những con người mới trong cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Qua thực tế công tác tôi đã đúc rút được: “Một số biện pháp gây hứng thú trong hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi tại lớp B2 trường mầm non A Ngọc Hồi”.
Trên cơ sở và thực trạng mục đích của đề tài tìm ra những biện pháp để gây hứng thú trong hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi tại lớp B2 trường mầm non A xã Ngọc Hồi nói riêng và các cháu 4 – 5 tuổi của trường mầm non A xã Ngọc Hồi nói chung.
Với các cháu 4 -5 tuổi thì các hoạt động như: Đi, chạy, nhảy, bò, trườn, trèo, tung, ném, bắt…rất phù hợp với trẻ vì trẻ đang ở lứa tuổi thích khám phá thảo mãn tính tò mò. Nếu giáo viên biết tổ chức gây hứng thú sẽ tạo được động lực giúp trẻ hàm thụ các vận động đó một cách dễ dàng. Trẻ sẽ tích cực và hứng thú tham gia.
Các biện pháp giúp cho trẻ có ý thức tập luyện, hình thành nhân cách ban đầu ở trẻ, nâng cao sự hứng thú trong giáo dục thể chất cho trẻ ở trường mầm non. Ở độ tuổi này các cháu rất hiếu động và tò mò trong các hoạt động, các cháu rất thích tham gia vào các hoạt động như: Đi, chạy, nhảy, bò, trườn, trèo, tung, ném, bắt…nên bản thân tôi luôn muốn học sinh của mình vận động một cách thành thạo và thích thú, tham gia tích cực trong các hoạt động cũng như các vận động để cơ thể khỏe mạnh. Vì vậy các phương pháp gây hứng thú giáo dục thể chất cho trẻ 4-5 tuổi là rất cần thiết.
Trong thời gian 9 tháng (bắt đầu từ tháng 9/2013 đến cuối tháng 4/2014) tại. Bằng các phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp điều tra thực trạng,
phương pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp quan sát. Áp dụng với các cháu tại lớp B2 mẫu giáo nhỡ trường mầm non A xã Ngọc Hồi. Tôi đã gặp nhiều thuận lợi xong cũng không ít khó khăn. Dựa vào kinh nghiệm bản thân và sự giúp đỡ của đồng nghiệp tôi đã tìm ra những biện pháp sau.
PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khi nói đến thể chất chúng ta có thể nghĩ ngay rằng đó là chất lượng của cơ thể con người có thể sử dụng vào thực tiễn một việc nào đó trong học tập, lao động, thể thao… phạm trù phát triển thể chất bao gồm các mặt sau.
Tầm vóc cơ thể là trạng thái phát triển và hình thái, cấu trúc cơ thể bao gồm sự sinh trưởng hình thể và tư thế thân người của một cơ thể.
Năng lực tham gia vận động thể lực của một cơ thể, đây là một nhân tố hết sức quan trọng nó thúc đẩy và giúp cho các chức năng sinh lý của cơ thể một cách nhịp nhàng. Trạng thái tâm lý là tình cảm, ý chí, cá tính của con người, nếu một con người có trạng thái tâm lý tốt thì cơ thể sẽ phát triển khỏe mạnh.
Hoạt động phát triển thể chất là hoạt động nhằm nâng cao thể lực sức khoẻ của trẻ: giúp trẻ phát triển các kĩ năng vận động đồng thời giúp trẻ có một sức khoẻ tốt, cơ thể phát triển cân đối, hài hoà, không những thế còn giúp phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức.
Trong quá trình tham gia các hoạt động thể chất trẻ còn được phát triển thêm cả về mặt tình cảm – xã hội cũng như thẩm mĩ. Hoạt động thể chất làm thoả mãn nhu cầu vận động của trẻ tạo cho tinh thần trẻ được sảng khoái, vui vẻ, giúp phát triển mối quan hệ giữa cô và trẻ cũng như phát triển tốt mối quan hệ bạn bè trong phối hợp vận động cùng các bạn. Cơ thể khoẻ mạnh, phát triển cân đối, hài hoà là một biểu hiện của nét đẹp về hình thể, những bài tập vận động có nhịp điệu kết hợp với âm nhạc mầm non giúp trẻ cảm nhận được sâu sắc về nhịp điệu, thể hiện tốt hơn, đẹp hơn các động tác và nhất là các hoạt động phát triển các cử động bàn tay, ngón tay giúp phát triển các vận động tinh tế khéo léo đặc biệt là hoạt động tạo hình giúp trẻ trí tưởng tượng sáng tạo. Nhưng trên thực tế trong trường mầm non nói chung và lớp mẫu giáo nhỡ nói riêng việc cho trẻ hoạt động phát triển thể chất chưa làm được điều đó, chưa tích cực linh hoạt sáng tạo vẫn còn mang tính chất đơn điệu, cứng nhắc, gò bò vì ở lứa tuổi này trẻ “ Học bằng chơi – chơi mà học”, hình thức tổ chức chưa sáng tạo hấp dẫn, dẫn đến hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, trẻ chưa hứng thú tham gia vào các hoạt động. Qua nhiều năm giảng dạy, qua nhiều ngày trăn trở tôi đã rút ra một số biện pháp để gây hứng thú qua hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi được tốt hơn.
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/chatchotre4-5tuoi-doc
Giúp trẻ 24 – 36 tháng hứng thú trong giờ kể chuyện
Giúp trẻ 24 – 36 tháng hứng thú trong giờ kể chuyện
MỞ ĐẦU
Văn học giữ vai trũ to lớn trong việc hình thành và phỏt triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non.
Sự tiếp xúc đầu tiên của trẻ lứa tuổi nhà trẻ 24 – 36 tháng với tác phẩm văn học được chọn lọc, nhất là những câu chuyện kể sẽ kích thích ở sự nhạy cảm thẩm mỹ, sự phát triển ngôn ngữ, trí tuệ. Văn học góp phần hỡnh thành tỡnh cảm đạo đức cho trẻ.
Trờn thực tế đặc điểm tâm sinh lí nhận thức của trẻ ở độ tuổi này cũn rất nhiều hạn chế do cỏc cơ quan và bộ máy phát âm của trẻ chưa được hoàn thiện . Trẻ mới học nói, nói ngọng, nói chưa đúng, chưa đủ câu nên khả năng diễn đạt ngôn ngữ,câu chưa được rừ ràng, mạch lạc. Trẻ hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa nghịch, núi tự do khụng tập trung chỳ ý nghe cụ kể chuyện.
Là một giáo viên đó cú nhiều năm giảng dạy trẻ ở lứa tuổi từ 24-36 tháng, tôi luôn đặt ra mục tiêu cho mỡnh là cần phải làm thế nào để giúp trẻ dễ dàng tiếp xúc và yêu thích văn học; làm thế nào để truyền tải tác phẩm văn học tới trẻ một cách có hiệu quả… Việc thường xuyên tiếp xúc với tác phẩm văn học chọn lọc sẽ kích thích sự nhạy cảm thẩm mỹ, đồng thời phát triển thái độ sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật cũng như hội họa ở trẻ, góp phần vào việc phỏt triển trớ tuệ, hỡnh thành những phẩm chất nhõn cỏch đầu tiên cho trẻ. Việc kể chuyện cho trẻ nghe cũn giỳp trẻ tớch luỹ và mở rộng vốn từ ngữ phong phỳ đa dạng, giúp trẻ nói sừi, núi chuẩn tiếng Việt, khả năng nói sừi, diễn đạt ngôn ngữ được mạch lạc rừ ràng hơn.
Chớnh vỡ vậy, việc tổ chức gây hứng thú thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện ngay từ ban đầu là rất quan trọng và góp phần nâng cao chất lượng kể chuyện cho trẻ nghe. Chớnh vỡ lý do trên mà tôi quyết định chọn đề tài “ Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe ở trường mầm non”.
– Mục đích nghiờn cứu của SKKN:
+ Đánh giá thực trạng sự phát triển của trẻ giúp trẻ hứng thú trong giờ kể chuyện góp phần nâng cao chất lượng chuyên đề cho trẻ làm quen văn học.
+ Tỡm ra cỏc biện phỏp giỳp trẻ 24 – 36 thỏng hứng thỳ trong giờ kể chuyện
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Cỏc biện phỏp giỳp trẻ 24 – 36 thỏng hứng thỳ trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe.
– Đối tượng khảo sát và thực nghiệm:
+ Lớp nhà trẻ D2 trường mầm non B xó Tứ Hiệp – Thanh Trỡ – Hà Nội, năm học 2013-2014.
– Kế hoạch nghiờn cứu:
+ Nghiên cứu và chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm : thỏng 9/2013
+ Xây dựng đề cương sáng kiến kinh nghiệm : thỏng 10, 11 /2013.
+ Nộp đề cương sáng kiến kinh nghiệm về văn phũng BGH để sửa : thỏng 12 / 2013.
+ Viết cỏc biện phỏp sỏng kiến kinh nghiệm : thỏng 1,2,3 /2014.
+ Sửa sỏng kiến kinh nghiệm : thỏng 4/2014.
+ Hoàn thiện và nộp về văn phũng BGH chấm sỏng kiến kinh nghiệm : thỏng 5/ 2014.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
- CƠ SỞ Lí LUẬN:
Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có phẩm chất đạo đức trong sáng; có trí thức, cú khoa học, cú tỡnh yờu nhõn loại, yờu thiờn nhiờn, yờu tổ quốc, mà cũn tạo nờn những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo. Tất cả những phẩm chất ấy cần được bắt đầu hỡnh thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Vỡ vậy, việc cho trẻ sớm làm quen với văn học là một trong những nội dung cần thiết và bổ ích trong chương trỡnh giỏo dục mầm non, trong đó yếu tố gây nên sự thích thú cho trẻ mỗi khi nghe cô giáo kể chuyện là rất quan trọng, vỡ khi tiếp xỳc qua những nhõn vật, sự vật trong cõu chuyện kể, hiện tượng gần gũi sẽ giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận và nhận biết thế giới vạn vật xung quanh; giúp phát triển óc tư duy sáng tạo, trí tũ mũ, luụn thớch khỏm phỏ từ đó cũng được nảy sinh hơn trong trẻ.
Để nâng cao chất lượng giúp trẻ cảm thụ và học tốt môn kể chuyện thỡ mỗi giỏo viờn ngoài việc nắm chắc phương pháp giảng dạy của từng loại tiết cần phải linh hoạt sáng tạo .Trong khi tổ chức hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe, để hoạt động kể chuyện ở nhúm lớp mỡnh đạt được kết quả cao, tôi đó tỡm ra một số biện phỏp, hỡnh thức để giúp trẻ hứng thú nghe cô kể chuyện một cách tích cực
- II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
- Đặc điểm tỡnh hỡnh chung
– Trường mầm non B xó Tứ Hiệp nằm trờn địa bàn thụn Đồng Trỡ xó Tứ Hiệp huyện Thanh Trỡ ngoại thành Hà Nội. Trường có 3 điểm trường ở 3 thôn: Cổ Điển B, Cổ Điển A, Đồng Trỡ. 3/3 điểm trường đều có lớp mẫu giáo lớn.
– Là ngôi trường có khung cảnh sư phạm đẹp, sân chơi rộng rói, sạch sẽ. Trường mới được xõy 2 tầng, phũng lớp rộng rói, được đầu tư nhiều đồ dùng, đồ chơi, các trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, được đầu tư tương đối đầy đủ.
– Trường cú 4 năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp huyện.
– Năm học 2013-2014 tôi được Ban giám hiệu trường mầm non B xó Tứ Hiệp phõn cụng phụ trách lớp nhà trẻ D2 tại khu Đồng Trỡ với tổng số học sinh là 23 chỏu, trong đó :
+ 13 chỏu gỏi
+ 10 chỏu trai.
– Lớp cú 2 giỏo viờn; 100% giỏo viờn cú trỡnh độ chuẩn, trong đó: 50% đạt trỡnh độ trên chuẩn, 50% đạt trỡnh độ chuẩn..
– Lớp được sự quan tâm của BGH đó đầu tư đầy đủ những trang thiết bị cần thiết phục vụ cho các hoạt động trong trường mầm non.
– Phụ huynh của trẻ rất nhiệt tỡnh.
Với tỡnh hỡnh thực trạng như trên trong quá trỡnh thực hiện đề tài, tôi đó gặp một số thuận lợi và khú khăn như sau:
2.Thuận lợi :
– Được sự quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của Ban giám hiệu nhà trường đầu tư về cơ sở vật chất, cũng như bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
– Bản thân tôi, là một giáo viên đã nhiều năm kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, luôn tâm huyết với nghề, có lòng nhiệt tình, ham học hỏi, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
– 100% giáo viên tại lớp biết đánh máy tính thành thạo.
– Trường tôi có nhiều phòng học sân chơi rộng rãi thoáng mát có nhiều đồ dùng đồ chơi thuận lợi cho cô và cho trẻ hoạt động với môn văn học.
– Phụ huynh quan tâm hoạt động cho trẻ làm quen với văn học trong trường mầm non.
3.Khú khăn:
– Mặc dù ở cùng độ tuổi nhưng khả năng nhận thức và sự tập trung chú ý của mỗi trẻ không đồng đều.
– Một số trẻ phát âm còn ngọng chưa đủ từ, đủ câu, còn lúng túng khi giao tiếp. Những khó khăn này làm cho trẻ thiếu tự tin trong giao tiếp nên trẻ ngày càng ít có cơ hội phát triển ngôn ngữ.
– Thời gian cho việc tạo môi trường hoạt động, tìm tòi và khám phá câu chuyện ngoài chương trình còn hạn chế, kĩ thuật sử dụng vi tính còn gặp khó khăn.
– Trong quá trình hoạt động nhiều lúc cô chưa phát huy hết tính sáng tạo của trẻ, chưa tạo cho trẻ tự rèn luyện và phát triển ngôn ngữ qua việc cho trẻ thể hiện giọng nhân vật, tự kể lại chuyện và kể chuyện sáng tạo.
– Đôi khi cô còn lúng túng trong khi sử dụng đồ dùng nhất là những lúc các nhân vật xuất hiện cùng một lúc trong đoạn chuyện vì vậy mà chưa diễn tả hết tình huống xảy ra trong đoạn chuyện, gây khó khăn cho việc giúp trẻ hiểu nội dung chuyện.
Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP:
- Tự nghiên cứu, bồi dưỡng về nghệ thuật đọc kể diễn cảm:
Nghệ thuật đọc và kể diễn cảm một tác phẩm văn học là vấn đề rất quan trọng đối với giáo viên mầm non trong việc gây hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng trong giờ kể chuyện cho trẻ nge. Bởi ngôn ngữ nghệ thuật được trẻ cảm thụ trong lúc nghe cô giáo đọc và kể, vì thế cách trình bày diễn cảm và xúc động thông qua tác phẩm văn học có tầm quan trọng đặc biệt. Nhờ có cách trình bày tác phẩm văn học một cách nghệ thuật, cô giáo giúp các bé dễ dàng hiểu được nội dung, dễ đi vào tưởng tượng nghệ thuật, nhìn thấy được các hình tượng, các khung cảnh và các tình tiết và biết đánh giá chúng một cách đúng đắn.
Trước đây, khi tôi chuẩn bị một giờ kể chuyện cho trẻ nghe tôi chỉ hướng vào việc chuẩn bị đồ dùng tranh ảnh câu chuyện đó để kể cho trẻ, còn việc chú ý đến việc đọc, kể diễn cảm thì quả thật tôi còn chưa chú ý đến, tôi chỉ nghĩ thuộc truyện để truyền tải tới trẻ nội dung câu chuyện, trẻ hiểu được nội dung câu chuyện thế là đủ. Chính vì vậy, trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe, trẻ chưa hứng thú nghe tôi kể chuyện, chưa thu hút trẻ vào nội dung câu chuyện của tôi nên kết quả sau mỗi giờ kể chuyện còn chưa cao.
Trong năm học 2013 – 2014, bản thõn tụi khụng ngừng tỡm tũi học hỏi, tự nghiờn cứu, rốn luyện cỏch thể hiện ngụn ngữ nghệ thuật để thu hút trẻ vào cõu truyện kể của mỡnh, được thể hiện:
+ Tôi học tập bằng cách tham khảo sách vở, tài liệu liên quan, dự giờ dạy của đồng nghiệp…, nhằm rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Để tạo sự thu hút, khi kể chuyện cho trẻ nghe thỡ đũi hỏi rất nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật kể chuyện là rất quan trọng. Bởi vỡ trẻ ở lứa tuổi này cảm thụ ngụn ngữ nghệ thuật thụng qua hỡnh thức nghe là chớnh.
+ Lời kể của cô chính là thước đo chuẩn mực cho trẻ học tập. Biết được điều đó tôi tìm hiểu tác phẩm sau đó xác định giọng kể cho phù hợp. Tôi thường căn cứ diễn biến tâm trạng , hành động của nhân vật, bối cảnh xẩy ra, tình tiết thể hiện ngữ điệu.Cùng một nhân vật bối cảnh khác nhau thì sắc thái ngữ điệu cũng khác nhau.
+ Muốn tập trung sự chỳ ý của trẻ khi nghe kể truyện, tụi nghĩ cú rất nhiều yếu tố tạo nờn như: cô giáo phải nhập vai, phải ngắt nghỉ giọng, sử dụng ngữ điệu, cường độ giọng điệu, cử chỉ tư thế, nét mặt… sao cho thật phù hợp như:
* Về nhập vai:
Vớ dụ: trong cõu chuyện “Thỏ con khụng võng lời” tụi gợi mở cho trẻ: “Trong khu rừng kia có hai mẹ con nhà thỏ sống với nhau. Một hôm thỏ mẹ có việc phải đi, thỏ mẹ gọi thỏ con lại và dặn…” tụi ngừng lời và hỏi trẻ: “ Thỏ mẹ dặn thỏ con thế nào?” Khi đó tôi sẽ thể hiện giọng của thỏ mẹ một cách nhẹ nhàng âu yếm… để giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện.
* Về thể hiện ngắt nghỉ giọng:
Việc ngắt giọng trong lỳc kể chuyện cũng chiếm một vị trớ quan trọng. Do vậy việc ngắt giọng sao cho cú tớnh chất hoàn toàn tự nhiờn.
Vớ dụ: Trong cõu chuyện “Đuổi cáo” có đoạn kể: “Bỗng đâu có một con Cáo xông ra đuổi bắt gà con” thỡ quóng ngắt giọng giữa cõu trước cụm từ “con Cỏo” sẽ làm cho trẻ hồi hộp, kích thích trí tưởng tượng của trẻ, làm cho trẻ cố gắng hỡnh dung xem con Cỏo sẽ làm gỡ tiếp sau đó.
* Về thể hiện cường độ giọng điệu:
Nếu kể chuyện mà nhịp điệu cứ đều đều thỡ cõu chuyện sẽ khụng cú sức sống, khụng gõy được hứng thú cho trẻ. Vỡ vậy bản thõn tụi phải xỏc định cho từng nội dung truyện, đoạn truyện, tỡnh huống truyện để rèn nhịp điệu.
Vớ dụ: Trong chuyện “Thỏ con khụng võng lời” khi thể hiện lời rủ rê của bạn Bươm Bướm, tôi sử dụng giọng điệu vui tươi nhẹ nhàng để thuyết phục.
* Về thể hiện cử chỉ nột mặt:
Những cử chỉ, nột mặt của cụ giỏo khi kể chuyện cần phải kết hợp hài hoà sự diễn cảm và ngữ điệu giọng nói cho phù hợp, thể hiện được những cảm xỳc vui, buồn, ngạc nhiờn, lo õu, phấn khởi… nhằm gúp phần vào sự thành cụng cho tiết dạy.
Kết quả: Qua việc nghiên cứu các loại sách vở, học hỏi chị em đồng nghiệp nên tôi đã nắm vững phương pháp khi lên tiết, sáng tạo trong mỗi câu chuyện. Từ đó tôi cũng thấy trẻ tập trung và hứng thú nghe tôi kể chuyện, thể hiện cụ thể:
+ 100% các tiết dạy được BGH thăm lớp, dự giờ đạt loại tốt.
+ Trên 90% trẻ hứng thú, hiểu được nội dung câu chuyện đạt được mục đích yêu cầu sau mỗi giờ kể chuyện.
- Trang trí lớp học tạo môi trường hoc tập thân thiện với trẻ :
“Trường học thân thiện” là câu khẩu hiệu mà ngành Giáo dục rất quan tâm và hướng đến. Ở trong môi trường đó trẻ không phải tiếp thu những kiến thức, kỹ năng một cách cứng nhắc mà ở đó trẻ tiếp thu tri thức trong một bầu không khí thân thiện, gần gũi như ở gia đỡnh mỡnh, điều đó góp phần giúp trẻ hứng thú hơn trong học tập và đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
“ Môi trường ” cho trẻ hoạt động là một trong những việc cần thiết và không thể thiếu được trong vấn đề đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non hiện nay. Khác với những năm về trước thì giáo viên tìm chọn hình ảnh thật đẹp sống động và trang trí lớp cho đẹp từ đầu năm đến cuối năm. Vì thế mà trẻ nhìn lâu rồi cũng thâý chán và cũng không kích thích phát triển ở trẻ. Nhưng ngày trong năm học này, bằng những việc tìm tòi khám phá tôi đã tạo môi trường cho trẻ hoạt động. Nhờ được hoạt động môi trường theo chủ đề trẻ thích khám phá trải nghiệm trẻ có nhiều kinh nghiệm hơn, thông minh hơn và vận dụng được ngay ngôn ngữ của mình trong khi giao tiếp nhờ đó mà trẻ thấy hứng thú hơn và phát triển ngôn ngữ ở trẻ một cách tự nhiên hơn.
Vớ dụ: Ở “Góc sách truyện” chủ đề: “Những con vật đáng yêu” tôi bố trí môi trường mở có đủ các loại sách tranh, truyện tranh, cho trẻ tự làm các loại rối, đồ chơi mầm non, mà trẻ tự tạo theo chủ đề. Qua đó, trẻ có thể tự hoạt động tranh chuyện, con rối để kể thành câu chuyện theo ý trẻ nhớ mà ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển.
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/trethichngheketruyen
Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kế hoạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kế hoạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non
I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực phẩm là nguồn cung cấp dinh dưỡng hàng ngày cho cơ thể, giúp cơ thể khoẻ mạnh, chống lại các nguy cơ của bệnh tật đang có mặt ở khắp nơi trong môi trường, giúp người ta hoạt động và làm việc. Như vậy, nếu nguồn thực phẩm không hợp vệ sinh, sức khỏe con người sẽ bị đe dọa.
Vệ sinh an toàn thực phẩm là việc bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khoẻ, tính mạng người sử dụng, bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hoá học, sinh học, hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe con người.
Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh thực phẩm và thức ăn ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm. Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các bệnh mãn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Trong thời gian qua, cùng với việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong các trường học bán trú bậc mầm non trên địa bàn huyện Thanh Trì được quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc. Đây là một tiêu chí quan trọng, được đặt lên hàng đầu của hầu hết các trường tổ chức học bán trú.
Đứng trước thực tế trên Bộ y tế đã kêu gọi cộng đồng xã hội cần quan tâm đến đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để đảm bảo sức khoẻ của con người. Ở trường mầm non cần có biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm các khâu từ giao nhận thực phẩm, sơ chế thực phẩm , chế biến thực phẩm và chia ăn cho trẻ. Nhưng nếu lơ là không chú trọng một trong các khâu trên thì các khâu khác có chú trọng đến mấy cũng sẽ không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. Theo tôi vệ sinh an toàn thực phẩm thực phẩm cho trẻ ngay từ khâu giao nhận thực phẩm đầu ngày là rất quan trọng và cần thiết.
Là một cô nuôi – kiêm tổ trưởng tổ nuôi với mong muốn của bản thân và tất cả chị em trong tổ đều có trách nhiêm quan tâm đến vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ho trẻ để chất lượng nuôi dưỡng ngày càng nâng cao. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non”
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
+ Đánh giá thực trạng việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non A xã Tứ Hiệp.
+ Tìm ra hệ thống các biện pháp để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non A xã Tứ Hiệp.
* Đối tượng nghiên cứu:
+ Các biện pháp đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non A xã Tứ Hiệp
* Phạm vi áp dụng:
+ Tại trường mầm non A xã Tứ Hiệp năm học 2013 – 2014
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- 1. Cơ sở lý luận:
Vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí rất quan trọng đối với sức khoẻ con người, vừa kế thừa các tập quán tốt của từng dân tộc, vừa tiếp thu nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao sức lao động và phòng chống bệnh tật. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh thực phẩm những thức ăn làm chất lượng vẫn chiếm tỷ lệ cao ở nhiều nước.
Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới về đánh giá các chương trình hành động đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được một nguyên nhân chính gây tử vong cho trẻ em là các bệnh đường ruột, trong đó phổ biến là bệnh tiêu chảy. §ång thời cũng nhận thấy nguyên nhân gây các bệnh trên là do thực phẩm bị nhiễm khuẩn. Theo thống kê của Bộ y tế nước ta, trong 10 nguyên nhân chủ yếu gây tử vong ở Việt Nam thì nguyên nhân do vi sinh vật gây bệnh đứng hàng thứ hai. Mặt khác tình hình chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong những năm gần đây không ổn định, số các mẫu lương thực, thực phẩm không đạt yêu cầu vệ sinh vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Đối với nước ta cũng như những nước đang phát triển, lương thực, thực phẩm thuộc loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về chính trị, xã hội và đời sống rất quan trọng.
Sự ô nhiễm do các chất độc hại, sự giảm chất lượng của sản phẩm trong quá trình gieo trồng, thu hoạch, dự trữ, bảo quản, chế biến và phân phối lưu thông gây tổn hại rất lớn, có khi lên tới 30 – 50% tổng số lượng thu hoạch.
Ngoài yếu tố chính về sinh vật, lượng lương thực, thực phẩm còn bị ô nhiễm, độc hại ngày càng tăng do sự sử dụng không đúng thuốc trừ sâu, diệt cỏ, phân bón trong nông nghiệp, các loại thuốc tăng trọng trong quá trình chăn nuôi đối với ngô, lạc, gạo, các kim loại nặng như đồng, chì trong quá trình sản xuất đồ hộp, sữa, rau và quả … hoặc sử dụng gian dối các chất phụ gia, phẩm màu trong quá trình chế biến bánh, keo, đồ uống, thực phẩm…
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cho con người nói chung và đặc biệt trong các trường mầm non nói riêng có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non có rất nhiều khâu nhưng trước hết đặc biệt quan trọng ngay từ khâu đầu tiên là giao nhận thực phẩm.
- C¬ së thùc tiÔn:
2.1 Mô tả thực trạng
Tứ Hiệp là một xã ®ang trong thêi k× ®« thÞ ho¸, trường có 3 điểm trường ở 2 thôn, 3/3 điểm trường đều có bếp ăn 1 chiều. Năm học 2013 – 2014 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công đứng bếp ở khu Cương Ngô I. Cùng đứng bếp với tôi là 03 đồng chí ( Đồng chí Vân Ngọc, đồng chí Vũ Lệ, đồng chí Trần Phương) 3/3 đồng chí đã có bằng Trung cấp kỹ thuật nấu ăn, 01 đồng chí có bằng kỹ thuật nấu ăn 3/7. Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi gặp một số những thuận lợi khó khăn sau:
2.2 Thuận lợi:
– 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
– Nhà trường có hợp đồng các loại lương thực, thực phẩm của các nhà hàng tin cậy có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Do chạy theo lợi nhuận nên nhiều loại thực phẩm hiện nay trên thị trường còn nhiễm hóa chất không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều đó đã gặp rất nhiều khó khăn trong khâu kiểm tra thực phẩm
– Khu bếp chính giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm rộng rãi, thoáng mát.
– Nhà trường trang bị đầy đủ đồ dïng, dụng cụ phục vụ công tác nuôi dưỡng. Trang bị đầy đủ trang phục cá nhân cho cô nu«i, quần áo lao động đồng phục, tạp dề, khẩu trang, găng tay, mũ, ủng…
– Khu bếp Cương Ngô I tôi phụ trách rộng, đẹp, cao ráo đựoc sắp xếp theo bếp 1 chiều. Bếp đã được trang bị đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị hiện đại như tủ sấy, tủ cơm ga, tủ lạnh, hệ thống bếp ga và các đồ dùng bằng Inox.
– Bản thân tôi là cô nuôi có bằng trung cấp Kỹ thuật nấu ăn, với tuổi nghề là 05 năm nên đã có kinh nghiệm về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non.
2.3 Khó khăn:
– Nhà trường có 3 khu nên còn gặp nhiều khó khăn trong khâu giao nhận, bảo quản và vận chuyển thực phẩm.
– Chế độ ưu đãi với cô nuôi ở trường mầm non không có, mức lương còn quá thấp so với mặt bằng chung trong xã hội, nên đời sống chị em còn gặp nhiều khó khăn.
– Đứng trước đặc điểm tình hình của trường, thuận lợi và khó khăn nêu trên, trước tình hình thực tế, tình trạng về vệ sinh an toàn thực phẩm tôi đã tìm ra hệ thống các biện pháp để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường và bước đầu cũng mang lại hiệu quả như sau:
- Các biện pháp:
3.1. Biện pháp 1: Giữ vệ sinh cá nhân khi tham gia giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm.
Giữ vệ sinh cá nhân khi làm nhiệm vụ nuôi dưỡng nói chung và khi tham gia giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm nói riêng là một yêu cầu tất yếu của một cô nuôi ở trường mầm non. Vì nếu các cô nuôi không có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân cho mình thì chính các cô lại là nguồn gây bệnh cho trẻ, dẫn đến không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ.
Chính vì vậy tôi đã tạo cho mình một thói quen vệ sinh cá nhân khi làm việc để các chị em trong tổ học tập và làm theo:
+ Móng tay luôn cắt ngắn, sạch sẽ.
+ Rửa tay bằng xà phòng sau khi cầm những vật dụng không đảm bảo vệ sinh và có khăn lau tay riêng.
+ Đầu tóc luôn cặp gọn gàng.
+ Đến trường thay luôn quần áo đồng phục lao động.
+ Đeo khẩu trang, găng tay, tạp dề và đội mũ khi tham gia nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm.
+ Bản thân ý thức cao trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc của Trung tâm y tế hàng năm khám sức khoẻ, tập huấn kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm, xét nghiệm phân đầy đủ để phòng tránh các dịch bệnh lây nhiễm sang trẻ.
Các thói quen trên tuy rất đơn giản nhưng không phải ai cũng duy trì thường xuyên để tạo thành thói quen được vì vậy chúng ta phải luôn ý thức tự giác vệ sinh các nhân mọi lúc, mọi nơi và trong mọi công việc.
* Kết quả:
– Bản thân tôi và tất cả các chị em trong tổ nuôi đã luôn duy trì tốt thói quen giữ vệ sinh cá nhân tốt, đảm bảo các nguyên tắc chung trong khi làm việc tại bếp nói chung và trong khi giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm nói riêng.
– 100% các cô nuôi đã khám sức khoẻ, tập huấn vệ sinh an toàn thực phẩm và xét nghiệm phân đầy đủ 1 năm 1 lần.
– Đã góp phần đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong khâu giao nhận thực phẩm.
Nguồn: Thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/antoanthucphammamnon
Biện pháp chỉ đạo hưởng ứng văn minh đô thị
Biện pháp chỉ đạo hưởng ứng văn minh đô thị
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
văn minh đô thị là gì Hà Nội là thủ đô của cả nước; là đầu não chính trị – hành chính Quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế; là đầu mối giao thương bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường sông tỏa đi các vùng khác trong cả nước và đi quốc tế. Xây dựng nếp sống văn minh đô thị, con người Hà Nội thanh lịch, văn minh là đòi hỏi cấp bách từ thực tế, để Thủ đô thêm sáng, xanh, sạch, đẹp không chỉ về diện mạo bên ngoài, mà cốt yếu là phải tạo ra sự chuyển biến thực chất trong ý thức, trách nhiệm của từng người dân Thủ đô.
Trường mầm non B Liên Ninh nằm trên địa bàn xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì là huyện Trung tâm của Thành phố Hà Nội, có tốc độ đô thị hóa nhanh, ý thức của một bộ phận nhân dân trong việc thực hiện trật tự, văn minh đô thị còn hạn chế, do đó việc tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, giáo viên, nhân viên, trẻ em và phụ huynh về pháp luật, truyền thống đạo đức, truyền thống và văn hoá Người Hà Nội, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, giáo dục trật tự an toàn giao thông càng có ý nghĩa quan trọng.
Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 02/01/2014 của Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội về việc thực hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị 2014”; Kế hoạch số 4150/KH – SGD&ĐT ngày 14/2/2014 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố về tổ chức thực hiện Chỉ thị số 01/CT-UBND về “Năm trật tự và văn minh đô thị 2014”; Kế hoạch số 55/KH – PGD&ĐT của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện với mục đích hưởng ứng “ Năm trật tự và văn minh đô thị 2014” gắn với công tác chăm sóc và giáo dục trẻ nhằm xây dựng các nhà trường và các cơ sở giáo dục có khung cảnh đẹp, đảm bảo sáng, xanh, sạch, đẹp, thông thoáng, an toàn tại các nhà trường, thân thiện với trẻ. Giúp cán bộ, giáo viên, nhân viên, trẻ em và phụ huynh thấy rõ tầm quan trọng trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Trong đó, chú trọng hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, truyền thống lịch sử, văn hóa, lòng tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống trung thực, lành mạnh cho trẻ trong các nhà trường. Nâng cao ý thức tự giác, thực hiện nếp sống văn minh thanh lịch, văn hóa học đường, nét đẹp văn hóa khi tham gia giao thông, góp phần giảm tai nạn thương tích và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Được phân công là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của trường, khi triển khai về tổ chức thực hiện Chỉ thị, tôi nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị” gắn với việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Làm thế nào để giáo viên, phụ huynh, học sinh tích cực tham gia các hoạt động xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh đô thị một cách sâu rộng, toàn diện không chỉ trong nhà trường mà còn tại mỗi gia đình nơi có trẻ sinh hoạt.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo tổ chuyên môn hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị” gắn với việc chăm sóc, giáo dục trẻ em tại Trường mầm non B xã Liên Ninh” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
– văn minh đô thị là gì là toàn bộ những hoạt động về tinh thần và vật chất của một trung tâm lớn về nhiều mặt của một vùng hay một quốc gia, ở một khía cạnh khác nói đến văn minh đô thị là nói đến chuẩn mực văn hóa – các giá trị đã được xác định để trở thành tiêu chí phấn đấu định hướng lâu dài.
– Nội dung giáo dục trật tự và văn minh đô thị trong trường mầm non:
+ Lòng yêu nước, tự hào dân tộc; chủ quyền biển đảo;
+ Giá trị truyền thống và văn hoá Người Hà Nội;
+ Kỹ năng giao tiếp, ứng xử và văn hoá giao thông;
+ Ý thức thực hiện pháp luật; tham gia có hiệu quả các hoạt động: Bảo vệ môi trường; đảm bảo trật tự an toàn giao thông…
Tích hợp có hiệu quả trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp các nội dung giáo dục pháp luật về biển đảo, môi trường, giao thông, chú trọng kết hợp phổ biến giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức; lồng ghép hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật với các cuộc vận động, các phong trào thi đua và các hoạt động kỷ niệm lớn trong năm (60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ; 60 năm giải phóng Thủ đô; 60 năm thành lập ngành GD&ĐT . . .)
Tập trung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu, kỹ năng giao tiếp trong gia đình, nhà trường và nơi công cộng. Chú trọng, nâng cao giáo dục văn hoá giao tiếp, ứng xử với những người xung quanh, với thiên nhiên, môi trường, trong đó những hành vi như biết chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, thực hiện văn hoá giao thông, nói lời cám ơn, xin lỗi, biết thông cảm và sẻ chia… cần được giáo dục thường xuyên, đánh giá cụ thể theo nội quy nhà trường để khen, chê rõ ràng đạt hiệu quả giáo dục cao.
Phối hợp với Hội khuyến học, Ban đại diện phụ huynh thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa 3 yếu tố gia đình – nhà trường – xã hội. Từ đó giáo dục trẻ ý thức xây dựng gia đình hiếu học, gia đình văn hoá, tạo môi trường giáo dục tốt cho trẻ.
– Mục tiêu của giáo dục trật tự và văn minh đô thị trong trường mầm non:
+ Nhằm xây dựng các nhà trường và các cơ sở giáo dục có khung cảnh đẹp, đảm bảo sáng, xanh, sạch, đẹp thông thoáng an toàn tại các nhà trường, thân thiện với học sinh.
+ Giúp cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh và phụ huynh học sinh thấy rõ tầm quan trọng trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Trong đó, chú trọng hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, truyền thống lịch sử, văn hóa, lòng tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống trung thực, lành mạnh cho học sinh trong các nhà trường.
+ Nâng cao ý thức tự giác, thực hiện nếp sống văn minh thanh lịch, văn hóa học đường, nét đẹp văn hóa khi tham gia giao thông, góp phần giảm tai nạn thương tích và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
– Về phương pháp giáo dục:
+ Tổ chức truyền thông, tọa đàm, giao lưu, hội thảo, chuyên đề hoặc các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan, nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt đầu tuần…;
+ Sử dụng hệ thống thông tin đại chúng trong và ngoài nhà trường: Đài phát thanh, tập san, bảng tin…;
+ Tiến hành hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan (băng zôn, cờ phướn, khẩu hiệu…).
+ Tích hợp có hiệu quả trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp các nội dung giáo dục về trật tự và văn minh đô thị.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm tình hình chung:
Trường mầm non B Liên Ninh nằm ở phía Nam của huyện Thanh Trì, tiếp giáp với huyện Thường Tín, có tốc độ đô thị hóa nhanh. Địa bàn phân tuyến tuyển sinh gồm 3 thôn và 2 cụm dân cư. Nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông, công nhân và buôn bán nhỏ. Là nơi nhiều dân các nơi đến ngụ cư thuê nhà nên số trẻ không ổn định. Nhà trường có diện tích 2 khu là 8.666 m2 với 15 lớp học xây dựng đạt chuẩn quốc gia và có 660 học sinh . Trường có hai khu cách xa nhau 3km:
– Khu Nhị Châu có 4 lớp: 01 lớp nhà trẻ; 01 lớp MG bé; 01 lớp MG nhỡ; 01 lớp MG lớn. Tổng số học sinh của khu Nhị Châu là : 120 trẻ.
– Khu Phương Nhị có 11 lớp: 02 lớp nhà trẻ; 03 lớp MG bé; 03 lớp MG nhỡ; 03 lớp MG lớn. Tổng học sinh khu Phương Nhị là: 540 trẻ.
* Số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường : 75 đồng chí trong đó :
+ Biến chế: 38 đồng chí (Chiếm 50,6%)
+ Hợp đồng huyện 32 đồng chí (Chiếm 42,6%)
+ Hợp đồng trường 5 đồng chí (Chiếm 6,8%)
– Tổng số giáo viên toàn trường là 50/ 75 ( Chiếm 66,7 %)
– 100% giáo viên có trình độ chuẩn: Trong đó trên chuẩn 15/50 chiếm 30%.
– Có 30 cô giáo đang theo học đại học sư phạm để nâng cao trình độ trên chuẩn.
- Thuận lợi:
– Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của UBND huyện, Đảng ủy, UBND xã Liên Ninh và sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện;
– Năm 2014 xã Liên Ninh sẽ cơ bản hoàn thành “xây dựng nông thôn mới” đây là việc rất thuận lợi cho công tác tuyên truyền thực hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị” đối với phụ huynh của nhà trường.
– Trường mới được xây dựng khang trang, thoáng mát với 15 phòng học và đầy đủ các phòng chức năng; cơ sở vật chất phục vụ cho chương trình giáo dục trẻ đầy đủ, hiện đại: Máy vi tính, máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, đàn…..
– Đội ngũ giáo viên trẻ, có trình độ chuyên môn chuẩn và trên chuẩn cao, khả năng tiếp cận với định hướng đổi mới của giáo viên tốt, 100% cán bộ quản lý và 98% giáo viên, nhân viên biết ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn bài và giảng dạy.
– Một số giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm và nhiều năm đạt danh hiệu giáo viên giỏi thành phố, cấp huyện như cô giáo: Trần Thị Thái Hà, Phùng Thị Thu, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Hảo, Hoàng Thị Thu Hà… Luôn chịu khó tìm tòi các hình thức lên lớp sáng tạo hiệu quả.
- Khó khăn:
– Nhà trường có 2 khu cách xa nhau nên khó khăn cho việc chỉ đạo, tập huấn, kiến tập chuyên môn.
– Xã Liên Ninh là một xã nằm ở xa trung tâm của huyện Thanh Trì, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, trình độ dân trí không đồng đều, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế.
– Đội ngũ giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong tuyên truyền các phong trào; lồng ghép các chủ đề để tuyên truyền, giáo dục học sinh.
– Học sinh độ tuổi mẫu giáo nên việc lựa chọn nội dung, hình thức giáo dục về trật tự và văn minh đô thị để đưa vào các môn học còn khó khăn.
III. Các biện pháp:
- Xây dựng kế hoạch của tổ chuyên môn hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị ” gắn với hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ.
Kế hoạch là chương trình hành động tổng quát, là lên kế hoạch triển khai và phân bổ các nguồn lực quan trọng để đạt được những mục tiêu cơ bản toàn diện và lâu dài của nhà trường nói chung và tổ chuyên môn nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, khi được triển khai Chỉ thị của thành phố, kế hoạch của Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Trì…. Bám sát vào Chỉ thị cũng như kế hoạch hướng dẫn của Phòng Giáo dục huyện và kế hoạch của nhà trường, dựa trên tình tình thực tế của tổ chuyên môn và học sinh. Tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện của tổ chuyên môn nhằm định hướng, hướng dẫn giáo viên thực hiện một cách cụ thể để việc hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị ” gắn với việc chăm sóc giáo dục trẻ một cách hiệu quả nhất.
Nguồn Thiết bị giáo dục hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/trattuantoanxahoi
Biện pháp giáo dục tài nguyên và môi trường biển trẻ 5 tuổi
Biện pháp giáo dục tài nguyên và môi trường biển trẻ 5 tuổi
Giáo dục biển đảo cho trẻ mầm non giáo dục trẻ mầm non bảo vệ môi trường phương pháp giáo dục trẻ mầm non 100 đề tài sáng kiến kinh nghiệm giáo dục trẻ mầm non chăm sóc giáo dục trẻ mầm non kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ mầm non công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non giáo dục mầm non lấy trẻ làm trung tâm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương pháp giáo dục trẻ mầm non Nước Việt Nam của chúng ta có bờ biển dài 3.620km, có hàng nghìn các đảo lớn, nhỏ và đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trên biển Đông. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, biển, đảo có vai trò, vị trí quan trọng, quyết định sự tăng trưởng kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Bảo vệ tài nguyên môi trường biển, hải đảo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bảo vệ biển đảo và chủ quyền biển đảo là nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam.
Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục của cấp học mầm non là tạo cơ hội cho trẻ được làm quen, nhận biết về biển, đảo Việt Nam. Trên cơ sở đó hình thành thói quen, hành vi bảo vệ tài nguyên môi trường biển, hải đảo. Những thói quen đó, cần phải bắt đầu hình thành ngay từ lứa tuổi mầm non. Bởi giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển lâu dài của trẻ, đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Thực hiện nhiệm vụ năm học và hướng dẫn thực hiện Phương pháp giáo dục trẻ mầm non chuyên môn năm học 2012-2013 của phòng Giáo dục và đào tạo huyện Thanh Trì, chương trình giáo dục cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) có thêm nội dung mới. Đó là tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ. Bản thân tôi nhận thấy nội dung tích hợp này là rất cần thiết trong bối cảnh tài nguyên môi trường biển, đảo ngày càng cạn kiệt và ô nhiễm nghiêm trọng, bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mang tính thời sự cao. Nhưng nội dung giáo dục này đưa vào chương trình giáo dục tài nguyên và môi trường biển trẻ 5 tuổi cần phải đưa như thế nào cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, không quá nặng nề với trẻ. Trong khi đó giáo viên mầm non khi thực hiện các chuyên đề tích hợp thường mắc vào hai nhược điểm sau:
-Thứ nhất: Nội dung tích hợp gượng ép, quá hời hợt không chú tâm đến nội dung tích hợp.
-Thứ hai: Nội dung tích hợp đưa vào lượng kiến thức quá nhiều, quá xa lạ với trẻ vượt quá cả nội dung chính.
Khi triển khai họp chuyên môn đầu năm và thảo luận về nội dung tích hợp về tài nguyên môi trường biển, hải đảo với giáo viên 5 tuổi. Tôi nhận thấy giáo viên rất băn khoăn và lúng túng khi đưa nội dung tích hợp này vào chương trình. Nhiều ý kiến cho rằng khó đưa nội dung này vào chương trình bởi Hà Nội là địa phương không có biển, đảo.
Được phân công là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của trường và được tổ chuyên môn, tổ mầm non phòng Giáo dục và đào tạo cử tham gia lớp tập huấn: “Hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục mẫu giáo 5 tuổi“. Tôi nhận thức được tầm quan trọng của nội dung tích hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi và muốn giúp giáo viên 5 tuổi có kiến thức về tài nguyên môi trường biển hải đảo Việt Nam. Từ đó xây dựng nội dung tích hợp phù hợp với trẻ, giúp trẻ hiểu nội dung một cách nhẹ nhàng, không quá gượng ép. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài :
“Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên, tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi trong trường mầm non. “
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
Trước hết chúng ta có thể hiểu: Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo là quá trình giáo dục nhằm giúp trẻ có những kiến thức cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, đảo Việt Nam. Tạo cho trẻ có ý thức, thái độ đối với tài nguyên và môi trường biển, đảo. Trang bị cho trẻ những kỹ năng thực hành khi được tiếp cận với môi trường biển, đảo. Từ đó, có ý thức, trách nhiệm, hành vi tốt để bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, đảo Việt Nam.
Tích hợp là sự hòa trộn nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo vào với nội dung các môn học, các hoạt động thành một nội dung gắn bó chặt chẽ với nhau:
– Khi tích hợp không làm biến tính đặc trưng của môn học, hoạt động nào đó thành môn học giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo.
– Khai thác nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, đảo cần có chọn lọc, có tính tập trung vào nội dung chính, có mục đích nhất định, không tràn lan, tùy tiện.
Trong khi giáo dục trẻ, các nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, đảo xem xét mức độ tích hợp như thế nào cho phù hợp nội dung, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi như:
– Tích hợp toàn phần: Là mục tiêu, bài dạy trùng hợp phần lớn hay hoàn toàn với nội dung chủ đề giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo.
– Tích hợp bộ phận: Là chỉ có một phần bài dạy có nội dung liên quan đến nôi dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo, hoặc trong nội dung có liên hệ được nội dung giáo dục đó.
Về Phương pháp giáo dục trẻ mầm non: Nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo rất đa dạng, mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên tùy theo đặc trưng của đề tài, môn học có thể lựa chọn phương pháp phù hợp, cũng có thể kết hợp hài hòa giữa các phương pháp để có hiệu quả giáo dục cao nhất. Làm thế nào để giáo viên tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo một cách hiệu quả nhất cho trẻ mầm non 5-6 tuổi. Phù hợp với tâm sinh lý, khả năng nhận thức của trẻ ” học mà chơi, chơi mà học”, trẻ tiếp thu kiến thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Vì vậy tôi đã sử dụng một số biện pháp giúp giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo một cách hiệu quả nhất.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm tình hình chung:
Trường nằm ở vị trí xa trung tâm huyện Thanh Trì, tiếp giáp với huyện Thường Tín. Nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông và buôn bán nhỏ. Là nơi nhiều dân các nơi đến ngụ cư thuê nhà nên số trẻ không ổn định. Nhà trường có diện tích 2 khu là 8.666 m2 với 15 lớp học xây dựng đạt chuẩn quốc gia và có 600 học sinh . Trường có hai khu cách xa nhau 3km:
– Khu Nhị Châu có 4 lớp: 01 lớp nhà trẻ; 01 lớp MG bé; 01 lớp MG nhỡ; 01 lớp MG lớn. Tổng số học sinh của khu Nhị Châu là : 110 trẻ. Trong đó lớp MG lớn 5 tuổi 35 trẻ.
– Khu Phương Nhị có 11 lớp: 02 lớp nhà trẻ; 03 lớp MG bé; 03 lớp MG nhỡ; 03 lớp MG lớn. Tổng học sinh khu Phương Nhị là: 490 trẻ. Trong đó lớp MG lớn 5 tuổi 149 trẻ. Tổng số học sinh 5 tuổi điều tra trên địa bàn 184 trẻ, ra lớp ngày từ đầu năm học 184 trẻ chiếm tỷ lệ 100%.
* Số giáo viên trong trường : 47/70 tổng số CBGVNV.
– Giáo viên mẫu giáo lớn : 11 cô/4 lớp. Chiếm 23,4 % giáo viên toàn trường.
Trình độ chuyên môn khối mẫu giáo lớn:
– ĐHSP : 06/11 cô = 54.5%
– CĐSP : 02 /11cô = 18.2 %
– TCSP : 03/11 cô = 27.3% ( Trong đó 03 cô đang theo học Đại học sư phạm).
- Thuận lợi:
Cơ sở vật chất phục vụ cho chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi đầy đủ, hiện đại: Máy vi tính, máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, đàn…..
Trẻ 5 tuổi ra lớp 100% ngày từ đầu năm học, thuận lợi cho việc phổ cập chương trình giáo dục cho trẻ 5 tuổi.
Đội ngũ giáo viên 5 tuổi trẻ, có trình độ chuyên môn trên chuẩn chiếm 72.7%, khả năng tiếp cận với định hướng đổi mới của giáo viên tốt. Một số giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm dạy trẻ 5 tuổi và nhiều năm đạt danh hiệu giáo viên giỏi thành phố, cấp huyện như cô giáo: Trần Thị Thái Hà, Phùng Thị Thu, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Phạm Thị Bích Nga…
Bản thân tôi được tham gia học tập huấn nội dung tích hợp của Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Thanh Trì.
- Khó khăn:
Nhà trường có 2 khu cách xa nhau nên khó khăn cho việc chỉ đạo, tập huấn, kiến tập chuyên môn.
Là năm đầu tiên thực hiện nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình. Hà Nội là địa phương không có biển nên thực hiện học ngoại khóa, tham quan thực tế gặp khó khăn.
Phụ huynh nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên rất ít trẻ được cha mẹ cho đi thăm quan, nghỉ mát tại các khu du lịch biển, đảo.
III. Các biện pháp:
- Đổi mới cách bồi dưỡng lý thuyết cho giáo viên:
Đổi mới cách bồi dưỡng lý thuyết cho giáo viên ở đây là bồi dưỡng cho giáo viên nắm chắc, hệ thống lại nội dung về tài nguyên môi trường biển, hải đảo Việt Nam. Từ những kiến thức cơ bản đó đưa lồng ghép vào các môn học, các hoạt động một cách hiệu quả.
Bồi dưỡng chuyên môn là một việc thường xuyên và cần thiết phải làm vì giáo viên là lực lượng trực tiếp truyền thụ các kiến thức tới trẻ. Đây lại là một nội dung tích hợp mới .Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng tạo môi trường cho trẻ hoạt động thì trước hết người giáo viên phải nắm chắc được kiến thức cơ bản về tài nguyên môi trường biển, hải đảo Việt Nam, phương pháp tích hợp, quy trình tổ chức các hoạt động. Có như vậy thì mới truyền thụ kiến thức đến với trẻ một cách chính xác và phù hợp với độ tuổi.
*Thực trạng cũ:
Trong những năm học trước, trường chúng tôi cũng có những biện pháp bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên như:
– Mời giảng viên về bồi dưỡng: Tổ Mầm non phòng Giáo dục huyện mời giảng viên và giáo viên đại diện trong toàn huyện tham gia. Tuy nhiên, rất khó mời giảng viên về trường để bồi dưỡng cho giáo viên.
– Giáo viên được cử đi tập huấn các chuyên đề mới, khi đi tập huấn về thường xin bài giảng của giảng viên sau đó phôtô cho các giáo viên không được đi tập huấn. Trong các buổi họp chuyên môn, giáo viên đi tập huấn giảng lại và giải đáp những vấn đề không hiểu của giáo viên.
Hầu hết các giáo viên có đọc nhưng không có thời gian nghiên cứu sâu và không có nhiều vấn đề trao đổi làm rõ. Khi vận dụng vào thực tế giảng dạy thì chỉ một số giáo viên giỏi, nhiều kinh nghiệm đạt được hiệu quả tương đối còn hầu hết giáo viên mới chỉ dừng lại ở mức độ trung bình. Nội dung giáo dục tài và môi trường biển, hải đảo đưa vào cho trẻ cần chính xác và hợp lý. Vì thế, giáo viên phải nắm vững kiến thức cơ bản nếu không sẽ dạy trẻ lạc hướng. Chính vì vậy, trong cách bồi dưỡng lý thuyết năm nay tôi đã có những giải pháp mới sau:
* Đổi mới cách thức bồi dưỡng, giảng viên tập huấn:
– Giáo viên được cử đi tập huấn sẽ chính là giảng viên cho những giáo viên còn lại. Những giáo viên đi tập huấn sẽ nghiên cứu các tài liệu khi đi tập huấn, tìm hiểu trên sách báo những nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo Việt Nam. Xây dựng lại bài giảng làm sao cho ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với kiến thức giáo viên của trường.
Bài giảng điện tử được nhóm xây dựng trên phần mềm PowerPoit với kiến thức ngắn ngọn dễ hiểu, hình ảnh đẹp sống động, lồng ghép một số đoạn phim giáo dục bảo vệ môi trường biển, hải đảo
Bài số 1: Những kiến thức cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo.
Mục đích của bài số 1 là giúp giáo viên hệ thống lại những kiến thức cơ bản về tài nguyên và môi trường biển hải đảo Việt Nam. Giúp cho giáo viên thấy những nét đẹp nổi bật, đặc trưng ở mỗi vùng biển, đảo Việt Nam, khơi dậy lòng yêu biển, yêu những cảnh đẹp nổi tiếng của biển. Thấy được thực trạng của tài nguyên môi trường biển, hải đảo từ đó sẽ thấy được trách nhiệm của chính giáo viên với tài nguyên, môi trường biển, đảo.
Nguồn: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/moitruongtre5tuoi
kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường mầm non
kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường mầm non
kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường mầm non kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường học kế hoạch bảo vệ môi trường 2014 kế hoạch bảo vệ môi trường năm 2012 kế hoạch bảo vệ môi trường năm 2015 kế hoạch bảo vệ môi trường tỉnh bình dương kế hoạch bảo vệ môi trường ngành y tế kế hoạch bảo vệ môi trường trường tiểu học
- ĐẶT VẤN ĐỀ
kế hoạch bảo vệ môi trường là gì Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, xã hội vật chất bao quanh con người, có mối quan hệ mật thiết với nhau ảnh hưởng tới đời sống và sự tồn tại phát triển của con người và thiên nhiên.
Để đảm bảo cho con người được sống trong một môi trường lành mạnh thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được hình thành và rèn luyện thành một thói quen, đặc biệt là lứa tuổi mầm non giúp cho trẻ có khái niệm ban đầu về môi trường sống của bản thân mình nói riêng và con người nói chung là cần thiết. Từ đó biết cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của cơ thể và trí tuệ.
Trong nhà trường, môi trường giáo dục và môi trường sư phạm bao gồm tổng hóa các yếu tố môi trường tự nhiên, không gian (đất đai vị trí địa lý, hệ sinh tự nhiên) môi trường kiến tạo như: các công trình nhà làm việc, bếp ăn, lớp học, sân chơi khu vệ sinh vườn hoa cây cảnh.
Trẻ em ở lứa tuổi mầm non đang hình thành và phát triển, cơ thể trẻ còn non nớt, sự tăng trưởng văn hóa qua giao lưu chịu sự tác động mạnh mẽ, có tính quyết định của môi trường xung quanh, để trẻ có một cơ thể khỏe mạnh và thông minh nhanh nhẹn hình thành nhân cách lành mạnh làm nền tảng cho các giai đoạn phát triển sau này, chúng ta cần phải xây dựng và bảo vệ môi trường sống của trẻ và giáo dục trẻ biết yêu quý bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp.
Sau gia đình môi trường thứ hai chịu trách nhiệm dạy dỗ, chăm sóc và giáo dục trẻ đó là trường mầm non. Đây là khoảng thời gian hoạt động, sinh hoạt ăn ngủ của trẻ hai bữa trong ngày diễn gia nhiều hơn ở nhà, vì vậy giáo viên cần phải rèn cho trẻ thói quen kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử, nề nếp, vệ sinh sạch sẽ gọn gàng ngăn nắp, giúp trẻ có hệ thống kiến thức tốt trong cuộc sống.
Tóm lại gia đình và nhà trường là hai môi trường đầu tiên của trẻ được giáo dục đó là vai trò hết sức quan trọng, giáo dục trẻ không phải là trách nhiệm của gia đình, và giáo viên mà còn là nghĩa vụ đối với xã hội sách hướng dẫn bảo vệ môi trường trong trường mầm non.
Năm 2008 Bộ Giáo Dục & Đào Tạo ra chỉ thị số 40/2008/ QĐ- BGD&ĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo về nhiệm vụ “ Xây dựng môi trường thân thiện, học sinh tích cực” để thực hiện tốt phong trào thi đua này tất cả các trường học cần phải xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp theo đúng nghĩa và phù hợp với tinh thần địa phương, song song với phong trào thi đua này căn cứ công văn 751/ SGD&ĐT- GDTHMN ngày 17/08/2009 về việc thực hiện hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục mầm non 2009 – 2010 trong văn bản chỉ đạo nội dung thực hiện vệ sinh môi trường và nước sạch cho trẻ mầm non.
Từ những nội dung và nhiệm vụ lý do tôi chọn đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên, nhân viên xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp trong trường Mầm Non A Vạn Phúc.
*Mục đích của đề tài :
– Đánh giá thực trạng của công tác bảo vệ môi trường xanh – sạch đẹp ở trường mầm non .
– Tìm ra hệ thống các biện pháp chỉ đạo bảo vệ môi trường cho trẻ ở trường mầm non.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
–Các biện pháp chỉ đạo cán bộ – giáo viên – nhân viên xây dựng và bảo vệ môi trường ở trường mầm non A Vạn Phúc.
* Phạm vi áp dụng :
Tại trường mầm non A Vạn Phúc năm 2012-2013
Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng cao, những trận động đất những con sóng thần ở nước Nhật Bản làm mất mát và thiệt hại về tiền của và con người. Ảnh hưởng đến kinh tế và khả năng hồi phục sau những thiên tai ấy là rất lớn, do đó để bảo vệ môi trường chung của toàn cầu chúng ta phải thực hiện nhiều những biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được xem là quan trọng có hiệu quả nhất ở lứa tuổi mầm non, giáo dục trẻ có ý thức từ nhỏ bảo vệ môi trường tạo thói quen cơ sở cho việc hình thành nhân cách của con người.
Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường tôi xác định là một trong những nhiệm vụ cần thiết được tiến hành có kế hoạch chiến lược cụ thể hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được lồng ghép vào các hoạt động hàng ngày tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm những vốn sống của bản thân.
Đồng hành những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết vấn đề này để mang lại hiệu quả cao nhất là điều mà những người làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công tác này không thể thiếu được sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục gia đình – nhà trường – xã hội.
biện pháp bảo vệ môi trường Trường mầm non toàn trường có 3 khu với 13 lớp học đảm bảo thoáng mát.sạch sẽ,có đầy đủ đồ dùng dạy học,đủ đồ chơi mầm non đáp ứng cho trẻ,có công trình vệ sinh sạch sẽ,đúng quy định,có đủ nước sạch phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ. Toàn trường có 52 đồng chí cán bộ, giáo viên,nhân viên trong đó: Ban giám hiệu 3 đồng chí,giáo viên có 32 đồng chí, 9 nhân viên cô nuôi, 1 nhân viên y tế,1 nhân viên kế toán,1 nhân viên văn thư,5 nhân viên bảo vệ. Số trẻ toàn trường là 440 trẻ/13 lớp trong đó nhà trẻ
2.Thuận lợi: hướng dẫn bảo vệ môi trường trong trường mầm non
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo UBND huyện,phòng giáo dục đào tạo huyện thanh trì,UBND xã Vạn Phúc,xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Đầu tư kinh phí 10 tỉ đồng xây dựng trường mầm non thôn 1 với 6 phòng học và đầy đủ các phòng chức năng, các trang thiết bị hiện đại. Có phòng y tế riêng,trang thiết bị y tế đầy đủ,đã có nhân viên y tế trình độ chuyên môn trung cấp y phụ trách công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình,quan tâm đến trẻ và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc,97% cán bộ giáo viên,nhân viên đều có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên.Phụ huynh học sinh có ý thức phối hợp tốt cùng với nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
3.Khó khăn:
Trường có 3 khu cách xa nhau nên khó khăn cho việc quản lý của cán bộ và chăm sóc sức khỏe trẻ với nhân viên y tế.
Khu 2 phòng học xuống cấp còn phải học nhờ nhà văn hóa thôn,diện tích còn chật hẹp nên ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường hoạt động của trẻ.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: hướng dẫn bảo vệ môi trường trong trường mầm non
Để làm tốt công tác bảo vệ môi trường trong công tác trọng tâm của năm học, trong kế hoạch tôi xây dựng hàng tháng biện pháp cụ thể để thực hiện các biện pháp, các chỉ tiêu đó nhằm hoàn thành công việc đạt hiệu quả cao.
Không thể thiếu công tác tuyên truyền trao đổi thông tin giữa gia đình và nhà trường, tôi đã nhận thấy điểm mạnh và điểm yếu trong vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp. Do vậy, ngay đầu năm tôi đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên, nhân viên nhà trường thực hiện công tác bảo vệ môi trường với mục tiêu như sau.
Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và phụ huynh học sinh từ đó có ý thức bảo vệ môi trường sạch sẽ, văn minh.
Tags: sang kien kinh nghiem mam non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/baovemoitruongmamnon
hướng dẫn bảo vệ môi trường bài tập bảo vệ môi trường bảo vệ môi trường bình dương bảo vệ môi trường 12 bảo vệ môi trường có bạn hướng dẫn kinh phí hoạt động bài viết về bảo vệ môi trường bảo vệ môi trường là gì biện pháp bảo vệ môi trường
Nội dung bồi dưỡng kiến thức về vi chất dinh dưỡng
Nội dung bồi dưỡng kiến thức về vi chất dinh dưỡng
kiến thức về vi chất dinh dưỡng vi chất dinh dưỡng là gì ngày vi chất dinh dưỡng các vi chất dinh dưỡng thiếu vi chất dinh dưỡng các chất dinh dưỡng có trong thức ăn. vai trò của chất bột đường các chất dinh dưỡng có trong thức ăn lớp 4 chất dinh dưỡng trong trứng gà chất dinh dưỡng trong chuối
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO BỔ SUNG NHU CẦU VI CHẤT DINH DƯỠNG TRONG BỮA ĂN CỦA TRẺ TẠI TRƯỜNG MẦM NON
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hàng ngày, cơ thể con người cần rất nhiều vi chất dinh dưỡng để tăng trưởng, phát triển và duy trì các hoạt động như: Học tập, lao động, sáng tạo, vui chơi, giải trí… Tuy nhiên, ở Việt Nam các bệnh do thiếu vi chất dinh dưỡng như: thiếu Vitamin A, vitamin D, thiếu máu do thiếu sắt, thiếu iốt… đều rất phổ biến và được coi là những vấn đề sức khỏe cộng đồng.
Vi chất dinh dưỡng là gì ? Vi chất dinh dưỡng là các chất mà cơ thể con người chỉ cần với một lượng rất nhỏ nhưng nếu thiếu hụt sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng đối với sức khỏe.
Vi chất dinh dưỡng tham gia vào việc xây dựng nên các tế bào, các mô; tham gia vào các hoạt động như hô hấp, chuyển hóa, bài tiết của tế bào; tham gia xây dựng nên hệ thống miễn dịch của cơ thể; tham gia vào nhiều cơ chế hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể, có tác dụng duy trì sự cân bằng của hệ thống nội mô, giúp phục hồi các tế bào, các mô bị tổn thương.
Ngoài ra, vi chất dinh dưỡng còn là thành phần chủ yếu để tạo ra các hoocmon, các dịch tiêu hóa…
Tóm lại các vi chất dinh dưỡng, vi chất dinh dưỡng có nhiều vai trò khác nhau đối với cơ thể, giúp cho cơ thể có thể phát triển trí tuệ, thể chất, giúp cho cơ thể khỏe mạnh chống đỡ bệnh tật. Đặc biệt vi chất dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng về chiều cao và cân nặng.
Tại hội thảo khoa học do Viện Dinh Dưỡng quốc gia tổ chức ở Hà Nội, Phó viện trưởng viện dinh dưỡng quốc gia Lê Bạch Mai cho biết: “Trẻ em Việt Nam thiếu nghiêm trọng vi chất dinh dưỡng, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi đều cao”
Thống kê của Viện dinh dưỡng cho thấy, có tới 38-60% trẻ em dưới 5 tuổi bị chứng biếng ăn. Đây không phải là bệnh, mà nguyên nhân là do thiếu vi chất như thiếu canxi, vitamin D, sắt, kẽm… Hậu quả là trẻ có chiều cao, cân nặng không bằng các bạn cùng tuổi, khả năng miễn dịch kém, thậm chí chỉ số phát triển trí tuệ của trẻ biếng ăn thấp hơn tới 14 điểm so với trẻ bình thường.
Chương trình phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng cho trẻ do Viện dinh dưỡng quốc gia tiến hành đã bổ sung vitamin A cho trẻ dưới 36 tháng tuổi (ở các vùng nghèo bổ sung đến nhóm trẻ dưới 60 tháng tuổi). Việt Nam cũng đã có những quy định chặt chẽ để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng như yêu cầu bột mì nhập khẩu phải được bổ sung vi chất, có những thực phẩm đặc thù như nước mắm bổ xung vi chất, bột canh i ốt, muối trộn i ốt… Tuy nhiên thiếu vi chất dinh dưỡng, theo phó viện trưởng viện dinh dưỡng thì việc đa dạng bữa ăn để lấy được nhiều nguồn vi chất từ các thực phẩm khác nhau vẫn là biện pháp dễ thực hiện, vừa nâng tầm vóc cho trẻ, vừa cải thiện trí tuệ để trẻ đủ sức bền và năng lực tiếp cận với những đổi mới hàng ngày.
Những năm gần đây, hoạt động nuôi dưỡng trong trường mầm non đã nhận được sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn cho trẻ ở các trường mầm non nói chung, đặc biệt là trường mầm non xã Duyên Hà nói riêng, chưa thực sự được quan tâm và còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong năm học 2012-2013 nhà trường đã thực hiện tính lượng Canxi, B1 trong khẩu phần ăn cho trẻ, nhưng để tính lượng bao nhiêu thì đủ hoặc để tìm ra những thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng bổ sung cho bữa ăn của trẻ đối với cán bộ giáo viên, nhân viên trong trường còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là đối với các bậc phụ huynh, đa số làm nông nghiệp, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng ít thì lại càng hạn chế hơn.
Để làm tốt công tác nuôi dưỡng trong trường mầm non thì đòi hỏi mỗi cán bộ giáo viên, nhân viên không chỉ thực hiện tốt quy chế nuôi dạy trẻ, mà còn phải nâng cao sự hiểu biết về tầm quan trọng của việc bổ sung vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ.
Muốn nâng cao được chất lượng nuôi dưỡng trong trường mầm non, đòi hỏi mỗi người cán bộ quản lý công tác nuôi dưỡng phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, biết tiếp cận, vận dụng kịp thời những kiến thức mới, khoa học trong hoạt động nuôi dưỡng trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng của vi chất dinh dưỡng đối với trẻ trong trường mầm non, là phó hiệu trưởng phụ trách công tác chăm sóc nuôi dưỡng, tôi luôn trăn trở làm thế nào để đổi mới quản lý, chỉ đạo tốt việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng cho trẻ vào các bữa ăn, có biện pháp nào để giáo viên, nhân viên nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng cho trẻ, để thông qua việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn, giúp nâng tầm vóc cho trẻ, cải thiện trí tuệ để trẻ đủ sức bền và năng lực tiếp cận với những đổi mới hàng ngày.
Tôi đã áp dụng các biện pháp dưới tên đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ tại trường mầm non Duyên Hà”.
Mục đích của đề tài:
Đối với cán bộ quản lý: Đánh giá được thực trạng của công tác nuôi dưỡng, tìm ra được hệ thống các biện pháp chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong công tác nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non Duyên Hà.
Đối với giáo viên, nhân viên: Nhận thức rõ tầm quan trọng và có ý thức đúng đắn trong việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong trong các bữa ăn của trẻ tại trường mầm non Duyên Hà.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Các biện pháp chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ tại trường mầm non Duyên Hà.
Phạm vi áp dụng:
Tại trường mầm non Duyên Hà năm học 2013-2014.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận
Vi chất dinh dưỡng bao gồm các vitamin tan trong nước (vitamin nhóm B,C), các vitamin tan trong chất béo (vitamin A, D, E, K) và các chất khoáng (sắt, kẽm, iốt, đồng, mangan, magiê). Tuy các vi chất này không cung cấp năng lượng nhưng lại không thể thiếu đối với sự phát triển bình thường của cơ thể.
Vitamin và khoáng chất đặc biệt quan trọng đối với sức khỏe, nhưng cơ thể không tự tổng hợp được. Để không thiếu vi chất ảnh hưởng trực tiếp tới các yếu tố phát triển cả về mặt sức khỏe lẫn trí tuệ. Cần cung cấp đầy đủ và đa dạng từ các nguồn thức ăn.
Trong đó, vitamin A, sắt, i-ốt, kẽm là những vitamin và khoáng chất mà trẻ rất dễ bị thiếu. Ngay cả trẻ không bị suy dinh dưỡng vẫn có thể thiếu do chế độ dinh dưỡng chưa hợp lý.
Biếng ăn, sức đề kháng giảm, dễ nhiễm bệnh là hậu quả của tình trạng thiếu vi chất. Việc thiếu từng chất cụ thể sẽ có những dấu hiệu đặc trưng.
Tuy nhiên việc chế biến, lưu trữ thực phẩm không đúng cách cũng làm mất một lượng lớn vitamin và khoáng chất: rau bị héo, trái cây không còn tươi nên mất nhiều vitamin C, gạo càng trắng càng ít vitamin B1, thức ăn nấu quá chín thì vitamin C sẽ không còn…
Nâng cao chất lượng nuôi dưỡng trẻ trong việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày của trẻ, cũng là một nội dung rất quan trọng của việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI- thời đại của nền văn minh trí tuệ. Để giáo dục mầm non có những chuyển biến mới về chất lượng, đổi mới trong sự đổi mới chung của ngành giáo dục đào tạo.
- Mô tả thực trạng
– Trường mầm non Duyên Hà nằm ở vùng trũng nhất vùng bãi ven Sông Hồng, thường hay chịu ảnh hưởng của lũ lụt.
– Toàn xã có 3 thôn, dân cư không tập chung và rải rác ở nhiều xóm cách xa nhau.
– Trường có 3 cơ sở mầm non: Đại Lan, Tranh Khúc, Xóm Mới với 3 khu bếp phục vụ nấu ăn cho trẻ tại khu.
– Tổng số trẻ trong trường tới thời điểm tháng 4/2014 là 438 trẻ. Với tổng số 53 cán bộ giáo viên nhân viên, trong đó có 33 giáo viên và 09 nhân viên phục vụ công tác nuôi dưỡng tại 3 bếp ăn.
– Đa số phụ huynh trong trường là nghề nông, làm màu trồng rau nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn.
2.1 Thuận lợi
– Trường được trang bị tương đối đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác nuôi dưỡng trẻ.
– Trường có phó hiệu trưởng phụ trách công tác chăm sóc nuôi dưỡng riêng, được trang bị máy tính riêng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng.
– Phó hiệu trưởng phụ trách nuôi dưỡng, được học qua khóa đào tạo tin học chuyên đề Exel kế toán, nên dễ dàng trong việc thiết lập các công thức để tính toán chế độ dinh dưỡng, lượng vi chất dinh dưỡng có trong thực phẩm áp dụng cho bữa ăn hàng ngày của trẻ tại trường.
– Phó hiệu trưởng phụ trách nuôi dưỡng đã nhiều năm quản lý về mảng nuôi dưỡng trẻ nên có kinh nghiệm trong việc quản lý công tác nuôi dưỡng.
– 100% nhân viên nuôi dưỡng có bằng kỹ thuật nấu ăn.
2.2 Khó khăn
-Trường có nhiều điểm lẻ, cách xa nhau, nên theo dõi kiểm tra việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng đối với giáo viên, nhân viên còn gặp nhiều khó khăn.
– Trường nằm ngoài vùng bãi, cách xa khu trung tâm, xa các khu chợ, khu công nghiệp lớn… nên rất khó khăn cho việc ký hợp đồng thực phẩm với các công ty, cơ sở cung cấp thực phẩm sạch, an toàn.
– Trường nằm ngoài vùng bãi, môi trường ẩm thấp hay có mối mọt nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc lữu trữ hàng kho của trẻ đảm bảo an toàn.
– Cơ sở vật chất 2 khu Đại Lan, Công Đoàn còn nghèo nàn, đặc biệt là bếp ăn còn chật hẹp, tạm bợ, chưa đảm bảo bếp 1 chiều nên rất khó khăn trong việc thực hiện công tác nuôi dưỡng tại khu bếp cho trẻ.
– Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường chưa có nhiều kiến thức về vi chất dinh dưỡng, chưa quan tâm tới việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng vào bữa ăn hàng ngày của trẻ .
– Đa số phụ huynh làm nông nghiệp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, chưa có nhiều kiến thức, chưa quan tâm đến việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng cho trẻ nên tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi ở trẻ đầu năm vào tháng 09/2013 còn khá cao:
+ Suy dinh dưỡng: 28/384 trẻ = 7.3%.
+ Thấp còi : 35/384 trẻ = 9.1%.
- Các biện pháp thực hiện
3.1 Xây dựng kế hoạch chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn cho trẻ
Kế hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý.
V.I.Lênin đã từng ví: “Mọi kế hoạch đều là thước đo, tiêu chuẩn, đèn pha và là cái mốc”.
Đối với trường mầm non, chất lượng của kế hoạch và hiệu quả thực hiện kế hoạch nuôi dưỡng quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình nuôi dưỡng trẻ, nên việc xây dựng kế hoạch là rất quan trọng. Nó giúp người quản lý nuôi dưỡng hình dung rõ ràng mọi công việc và chủ động trong công việc.
Nhìn vào thực tế công tác nuôi dưỡng của nhà trường, công tác nuôi dưỡng của các trường bạn trong huyện, cũng như yêu cầu đặt ra trong kế hoạch triển khai nhiệm vụ năm học của Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội, Phòng giáo dục và đào tạo Huyện Thanh Trì đối với công tác nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non, tôi đã nhận định được những điểm mạnh, điểm yếu trong công tác nuôi dưỡng của trường mình. Từ đó, tôi xây dựng lịch trình cả năm học cho công tác nuôi dưỡng như sau:
Theo: sang kien kinh nghiem mam non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/vichatdinhduongmamnon