Archive
Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo
Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo
- ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, biển đông đã thấm đậm và có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động sản xuất, đời sống và ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Biển đã và đang cung cấp cho nhân loại một khối lượng rất lớn thực phẩm, dược phẩm, nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên. Mà Việt Nam có lợi thế hơn cả bờ biển dài trên 3.260km và không gian biển rộng (diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2) gấp 3 lần diện tích đất liền, với hơn 2.577 hòn đảo lớn, nhỏ, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó, biển đảo cũng là nơi có nhiều nguy cơ gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền và lợi ích quốc gia. Để có thể làm chủ và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ biển đảo đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc cũng như tham gia rộng rãi của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta. Có thể thấy, góp phần không nhỏ vào công cuộc ấy là các tầng lớp thanh, thiếu niên nhi đồng – các mầm non tương lai tràn trề nhựa sống của đất nước. Bởi không lâu sau, các em sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước, tham gia có hiệu quả vào công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia ngày càng vững mạnh. Nhận thấy được ý nghĩa cần thiết của việc bảo vệ biển đảo cho thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, đảo của nước ta, không có cách nào tốt hơn là đưa chương trình biển, đảo vào giáo dục ở các cấp học. Năm học 2012 – 2013 Bộ giáo dục và đào tạo đã triển khai đề án “Tăng cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo vào chương trình giáo dục các cấp học và các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010-2015. Như vậy, rõ ràng ngành giáo dục đã bắt đầu có chuyển biến tích cực nhằm giúp các em học sinh, sinh viên nâng cao ý thức về biển, đảo quê hương.

Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo
Đối với ngành học mầm non giáo dục tình yêu với biển, đảo là điều cần thiết, cần tiến hành theo lộ trình nhất định, qua từng lứa tuổi cần tăng dần khối kiến thức. Ngoài ra giáo viên cần hiểu rõ về căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền biển đảo và hơn nữa phải mở rộng, gợi mở những giá trị to lớn của biển, hải đảo, những hành động, biện pháp khai thác tài năng thế mạnh và bảo vệ biển, đảo một cách hiệu quả. Qua đó các em biết được nước ta không chỉ có đất liền mà còn có biển đảo bao la, giàu tài nguyên thiên nhiên với những đặc sản vô cùng phong phú như tỏi Lý Sơn, nước mắm Phú Quốc, trái bàng vuông. Các em cũng sẽ hình dung được một phần cuộc sống của nhân dân trên đảo, con người và cảnh vật nơi đây, chứa chan trong đó là tình yêu dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước và những tình cảm sâu sắc với bộ đội ngoài hải đảo xa xôi.
Đối với trẻ mầm non, hình ảnh biển đảo là những gì xa xôi, trẻ chưa từng được tiếp xúc, chưa từng có cảm giác thân thiện hay yêu mến. Bởi những gì gắn bó, gần gũi với trẻ là tình yêu thương gia đình, bạn bè, làng xóm, những gì thân thuộc xung quanh trẻ. Hơn ai hết, cha mẹ, thầy cô là những người trực tiếp giáo dục các em. Vậy nên chúng ta không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn phải truyền lại cho thế hệ mai sau tình yêu sâu sắc đối với biển đảo đối với vùng lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc thân yêu.
Thực tế với trẻ mầm non đây là năm học đầu tiên triển khai nội dung giáo dục biển, đảo vào dạy trẻ nên bản thân tôi chưa có kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm để dạy trẻ và đặc điểm tâm sinh lý trẻ dễ nhớ mau quên, trẻ chưa thể hình dung ra được những khái niệm đảo là như thế nào? Tại sao gọi là đảo? Trên đảo có những gì? Và làm thế nào để có thể sống được trên đảo? Tại sao phải yêu mến biển đảo? Những câu hỏi đặt ra trong tôi như thôi thúc tôi làm sao để giúp trẻ hiểu và làm cách nào để trẻ biết, hiểu lợi ích từ biển, đảo mang lại. từ đó hình thành ở trẻ ý thức biết bảo vệ, giữ gìn biển, đảo và tình cảm yêu mến thiên nhiên biển đảo, lòng tự hào dân tộc, lớn hơn nữa là tình yêu quê hương đất nước sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Mà ở trẻ mầm non xúc cảm thẩm mỹ phát triển mạnh, tâm hồn nhạy cảm. Trẻ nhìn thế giới xung quanh bằng cặp mắt trong sáng, dễ xúc động. Trẻ nhận ra vẻ đẹp xung quanh, biết cảm thụ cái đẹp thông qua được khám phá những cái mới lạ. Chính vì lí do đó nên việc giáo dục tình yêu biển, đảo cho trẻ mẫu giáo và cũng vì đó là nhiệm vụ của bất cứ người giáo viên nào trong thời kỳ hiện nay nên tôi trăn trở và quyết định thực hiện đề tài “ Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Quỳnh”.
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lí luận.
Khi nhắc đến diện tích quốc gia, nhiều người vẫn đơn giản nghĩ tới vùng đất liền chứ ít chú ý tới vùng biển. Nguyên nhân của sự thiếu sót trong nhận thức này một phần bắt nguồn từ việc những nội dung về biển, đảo ít được đề cập một cách bài bản, nghiêm túc trong chương trình giáo dục ở tất cả các cấp. Thực tế hiện nay là, khi hỏi các bạn trẻ về biển, đảo của nước ta, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, ai cũng có thể trả lời đó là “một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc”. Nhưng để lý giải nguồn gốc của nó như thế nào, có tiềm năng, thế mạnh, nguồn lợi kinh tế ra sao, thì không phải ai cũng trả lời được. Nhìn chung, kiến thức về biển, đảo của phần lớn người dân và các em học sinh, sinh viên hiện nay còn rất hạn chế. bởi suốt khoảng thời gian dài trước đây, nội dung về biển, đảo không được đưa vào chương trình giáo dục các cấp. Gần đây, khi những vấn đề về năng lượng, tài nguyên, tranh chấp chủ quyền biển, đảo trở thành vấn đề nổi cộm thì việc giáo dục kiến thức biển, đảo trong nhà trường mới được chú ý tới.
Trường Sa, Hoàng Sa đã và đang là những vùng đất thiêng liêng mà bất cứ con người Việt Nam nào khi nghe thấy đều bồi hồi xúc động. Với mục đích giáo dục tình yêu biển, hải đảo quê hương cho trẻ ngay từ tuổi mầm non để thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, hải đảo của nước ta thì ngành giáo dục mầm non phải đưa ra được nội dung giáo dục biển đảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý trẻ, không làm nặng chương trình, phù hợp với tình hình địa phương, giúp trẻ dễ nhớ, dễ tiếp thu mà lưu giữ lại được ấn tượng tốt về biển đảo.
Cụ thể với trẻ mầm non có thể duy trì cách thức tuyên truyền giáo dục như lồng ghép thông qua hình thức kể chuyện lịch sử, vẽ tranh, dã ngoại, xem phim ảnh…Thông qua những tiết học đó những kiến thức về biển đảo mà cô truyền đạt cho trẻ hàng ngày với những cái tên như Trường sa, Hoàng Sa, Phú Quốc sẽ không còn gợi lên sự xa xôi với các bé. Những mầm non tương lai của đất nước sẽ hiểu hơn về đảo và hải đảo qua những giờ học bổ ích, lý thú, những trò chơi, những bức tranh, câu chuyện hấp dẫn. Bên cạnh những nét vẽ hồn nhiên về sóng vỗ rì rào, những hòn đảo, những con tàu ngược xuôi…đó là hình ảnh chú bộ đội hiên ngang ôm sung đứng gác ở cột mốc chủ quyền của tổ quốc, là bước chân dũng cảm tuần tra suốt ngày đêm để trẻ em tung tăng mỗi buổi đến trường và nuôi dưỡng những ước mơ trở thành lính đảo trong tương lai.
Nguồn: thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giaoducbienhaidaochotremamnon
Mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020
Mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020
Mục tiêu giáo dục của mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất mục tiêu giáo dục mầm non mới mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020 giáo dục mầm non lấy trẻ làm trung tâm giáo dục mầm non là gì quản lý giáo dục mầm non là gì giáo dục mầm non tiếng anh là gì vai trò của giáo dục mầm non chương trình giáo dục mầm non mới
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu giáo dục của mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi. Khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người làm nhiệm vụ giáo dục cần chú trọng đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ.

Mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020
Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống sau này.
Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường “Sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ.
Đối với giáo viên đa số đã nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng đắn trong giáo dục tính tự lập cho trẻ lên ba. Song về hướng dẫn trẻ hoạt động để hình thành tính tự lập cho trẻ lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn quá nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là cô giáo ngại khó, sợ tốn thời gian (Vì trẻ thực hiện chậm chạp, long ngóng vụng về..) và có tư tưởng “Thà làm quách cho xong”.
Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự lập cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo bé nói riêng giáo viên mầm non phối kết hợp với cha mẹ trẻ có những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Đó cũng là lí do mà tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở trường mầm non xã Yên Mỹ”.
*Mục đích của đề tài:
Thực trạng việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi ở lớp C1 trường mầm non Yên Mỹ.
Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi ở lớp C1 trường mầm non Yên Mỹ.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé.
* Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp nghiên cứu sư phạm.
+ Phương pháp sử dụng phiếu điều tra an ket.
+ Phương pháp dùng lời nói.
+ Phương pháp sử dụng toán thống kê.
* Phạm vi áp dụng:
Trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi, lớp C1 mẫu giáo bé trường mầm non Yên Mỹ trong năm học 2012 – 2013.
* Kế hoạch nghiên cứu:
Từ tháng 7 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Yếu tố tạo nên tính tự lập ở mỗi cá nhân là khả năng tin tưởng vào những đánh giá của bản thân, cũng như là tự vạch ra con đường đi cho mình mà không cần lúc nào cũng nhờ đến sự chỉ bảo, hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Có được khả năng này là một điều tuyệt với, bởi nó sẽ giúp trẻ hạnh phúc hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó khuyến khích trẻ tạo ra những cơ hội để trẻ thể hiển mình. Những đứa trẻ được giáo dục tính tự lập từ nhỏ thì nhanh nhẹ và hoạt bát, nổi trội hơn hẳn so với những trẻ khác.
Còn đối với trẻ mầm non rất nhiều trẻ xuất hiện tình trạng dựa dẫm, ỷ lại, được nuông chiều một cách thái quá dẫn đến không biết làm một số việc đơn giản như không biết mặc quần áo, không biết tự đi giày, dép, không thích tự đi mà thích được người lớn bế ẵm….Trẻ không biết cách chăm sóc bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh, lười nhác không biết hỗ trợ người khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó thiếu tính tự lập là một nguyên nhân trọng tâm nhất. Như chúng ta đã biết, trẻ em là một đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ em được tiếp xúc với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại nếu trẻ em tiếp xúc với nền giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn đến các hậu quả tiêu cực. Do đó việc giáo dục tính tự lập cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt, và là phương pháp rất quan trọng và cần thiết.
Tạo tính tự lập cho trẻ không phải chỉ có hướng dẫn cho trẻ tự lo cho bản thân mà còn giúp trẻ tự quyết định các vấn đề của mình. Đó cũng là cách giúp trẻ vận động suy nghĩ, sáng tạo và tự tin.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Đặc điểm tình hình chung
Trường mầm non Yên Mỹ nằm trên địa bàn xã Yên Mỹ một xã ngoại thành Hà Nội. Nhiều năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp Huyện và một năm đạt trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành Phố. Năm học này trường phấn đấu giữ vững danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố. Trong đợt kiểm định chất lượng giáo dục 5 năm trường đạt loại tốt. Trường có khung cảnh sư phạm đẹp và luôn giữ vững danh hiệu “Trường học thân thiện – Học sinh tích cực” cấp thành phố.
Năm 2012 – 2013 tôi được ban giám hiệu phân công phụ trách lớp C1 mẫu giáo bé (3- 4 tuổi) cùng cô Hoàng Thị Ngọc Ánh. Bản thân có trình độ cao đẳng, còn cô Ánh có trình độ trung cấp sư phạm.
Một số trẻ được bố mẹ quá nuông chiều, một số trẻ lại quá hiếu động nhưng không biết tự phục vụ bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh cơ thể mà thường phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
Với đặc điểm tình hình như vậy, khi được nhà trường phân công tôi rất băn khoăn lo lắng bởi một số khó khắn và thuận lợi sau:
2. Thuận lợi
Bản thân là giáo viên lâu năm lại nhiệt tình, yêu nghề tâm huyết với nghề, có trách nhiệm, có tinh thần học hỏi ở bạn bè, đồng nghiệp, có năng lực sư phạm.
Trẻ đi học chuyên cần cao nên đảm bảo quá trình dạy và học của cô và trò không bị gián đoạn.
Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ và cùng phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
3. Khó khăn
Một số trẻ chưa học qua độ tuổi nhà trẻ nên các kỹ năng tự phục vụ của trẻ hầu như không có mà hoàn toàn phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
Do bố mẹ trẻ luôn coi trẻ còn rất nhỏ và non nớt nên quá nuông chiều mà không để trẻ tự làm lấy một việc gì dù là nhỏ nhất.
Xuất phát từ nhưng khó khăn và thuận lợi trên nên tôi đã nghiên cứu và thấy mình phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ để trẻ luôn chủ động, linh hoạt, tự tin trong cuộc sống. Để thực hiện được điều đó tôi đã nghiên cứu một số biện pháp sau:
III. Những biện pháp
1. Đặt mục tiêu rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Người lớn thường không muốn trẻ phải gánh nhiều trách nhiệm khi chưa thực sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít nhận ra rằng con trẻ đã đủ khéo léo, có các kỹ năng phù hợp và đủ tự tin bắt tay vào một công việc nào đó. Để hình thành tính tự lập, người lớn cần tin tưởng trẻ, động viên và khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người kiểm soát trẻ quá chặt để trẻ phụ thuộc quá lâu thì trẻ sẽ bát riết lấy cha mẹ, cô giáo, chúng có thể trở thành những đứa trẻ lưới biếng và mọi việc đối với trẻ đều trở nên khó khăn. Chắc hẳn ai cũng đã được nghe câu nói “Nếu bắt cho con một con cá, con sẽ có cá ăn một ngày. Nhưng nếu dạy con bắt cá, con sẽ có cá ăn suốt đời”. Xuất phát từ tư duy này cô giáo và cha mẹ nên dạy con tính tự lập, sống bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau để đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về tính tự lập theo lời Bác dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã đặt ra các mục tiêu để rèn luyện các kỹ năng cho trẻ lớp mình như sau:
– Kỹ năng phục vụ bản thân: Tự nhặt đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, tự đi dép, tự cất dép, lấy đồ dùng cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang, tự lấy và cất gối.
– Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Tự thay quần áo khi thấy bẩn, tự xúc miệng nước muối sau khi ăn, lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn, xả nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi qui định, rửa tay bằng xa phòng khi tay bẩn, nhặt rác, bỏ rác vào đúng nơi qui định, tự rửa tay, chân khi thấy bẩn, biết tự đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu.
– Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây…..
Việc xác định được những kỹ năng như trên đã giúp tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc thực hiện đề tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ xác định được những kỹ năng đó mà tôi đã rèn trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. Tôi đã giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của hành động, của công việc đó như thế nào, biết được việc nào nên làm và việc nào không nên làm, việc đó có ích lợi gì để từ đó giúp trẻ dần dần trở thành ý thức cần có trong cuộc sống hàng ngày.
2. Khảo sát khả năng tự lập của trẻ
Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc nghiên cứu này. Và để gặt hái được nhiều kết quả tốt trong quá trình thực hiện nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ theo những kỹ năng cấn thiết để giáo dục tính tự lập cho trẻ mà tôi đã xác định ở trên.
Nguồn: Thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giaoducmamnon2020
Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ
Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ
Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ cách chế biến món ăn ngon cách chế biến món ăn ngon mùa hè cách chế biến món ăn ngon từ thịt lợn cách chế biến món ăn ngon hàng ngày chế biến các món ăn ngon cách chế biến các món ăn ngon từ cá chế biến món ăn từ rau chùm ngây chế biến món ăn từ vịt
Mỗi lần đi thăm nhà trẻ, gặp gỡ các cô nuôi dạy trẻ Bác thường nhắc nhở “ Phải giữ vệ sinh cho các cháu, các cô phải học hành tốt, nuôi dạy các cháu ngoan và khỏe”. Bác đã chỉ thị cho ngành giáo dục Mầm non “ Muốn cho người mẹ sản xuất tốt, cần tổ chức tốt những nơi giữ trẻ”. Trường Mầm non là nơi Chăm sóc – Nuôi dưỡng – Giáo dục trẻ ngay từ 18 tháng đến 72 tháng. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu phát triển toàn diện thì phải kết hợp hài hòa giữa nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Trong đó, nuôi dưỡng là nhiệm vụ quan trọng của quá trình chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Nuôi dưỡng đảm bảo chất lượng có tác dụng tăng cường và bảo vệ sức khỏe cho trẻ, giúp trẻ phát triển tốt tạo điều kiện để thực hiện nội dung giáo dục toàn diện.
Muốn có chất lượng nuôi dưỡng tốt, trước hết là cô nuôi cần phải làm tốt việc chế biến món ăn cho trẻ, thực hiện tốt quy chế nuôi dạy trẻ, đặc biệt phải luôn tìm tòi cách chế biến món ăn ngon, sáng tạo để nâng cao chất lượng chế biến món ăn cho trẻ.
Bởi thực tế, trẻ 24 – 36 tháng đã ăn được cơm nát và ăn nhiều loại thức ăn hơn nhưng trẻ rất dễ bị chớ, nôn và khó ăn vì vậy cần có cách chế biến riêng: Chú ý tới thức ăn mềm, nghiền nát, nấu nhừ xay nhỏ. Trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi), trẻ có nhu cầu ăn ngon hơn và tiêu hóa được nhiều loại thức ăn hơn, thích lựa chọn các món ăn hấp dẫn với trẻ. Mặt khác, trẻ lại mau chán ăn và ít tập trung vào bữa ăn.
Hiện nay ở một số trường mầm non chưa thực sự chú ý đến chế biến món ăn cho trẻ nhà trẻ (thường cho trẻ ăn như trẻ mẫu giáo) và việc cách chế biến món ăn ngon hàng ngày cho trẻ ít thay đổi, cải tiến, chưa quan tâm đến kỹ thuật chế biến chủ yếu nấu đủ lượng vừa ăn.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi đã đầu tư suy nghĩ, phối hợp trong tổ nuôi nghiên cứu tìm cách chế biến món ăn ngon, lạ miệng đối với trẻ vì vậy tôi đã chọn và viết đề tài “Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ tại trường mầm non”.
PHẦN II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khát vọng lớn nhất của các bậc cha mẹ là nhìn thấy con mình khôn lớn, khỏe mạnh từng ngày. Ngay từ khi mới sinh, cha mẹ đã dành sự chăm sóc tốt nhất cho con, điều lo lắng của tất cả các ông bố bà mẹ là mình đã chăm con theo phương pháp tốt nhất chưa? Và quan trọng hơn là họ luôn mong muốn con mình khi trưởng thành sẽ được phát triển cơ thể cân đối, cao lớn như các bạn cùng trang lứa.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non còn rất non nớt, cơ thể đang phát triển mạnh về thể lực và trí tuệ do vậy khi gửi con đến trường mầm non cha mẹ trẻ luôn muốn con mình được các cô giáo chăm sóc dậy dỗ chu đáo, cho con mình được ăn no, ăn ngon, ăn đủ chất. Với kinh nghiệm chế biến các món ăn ngon ba năm công tác ở tổ nuôi, công việc chính là chế biến thức ăn cho trẻ. Tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để chế biến các món ăn ngon nhất, đủ chất, đủ lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm đáp ứng sự tin tưởng của phụ huynh khi gửi con đến trường chúng tôi.
- CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trường mầm non B xã Vạn Phúc nằm ở cuối huyện Thanh Trì, trường được xây dựng khang trang, có 1 khu, đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 và nhiều năm liền đạt danh hiệu “Trường tiên tiến” cấp huyện.
Năm học 2011 – 2012 tổng số trẻ toàn trường là 320 trẻ nhưng đến năm học 2012 – 2013 tổng số trẻ toàn trường là 435 trẻ.
Trong đó có 10 lớp 2 lớp nhà trẻ ( 24 – 36 tháng) với số cháu là 90 cháu và 8 lớp mẫu giáo: 345 cháu.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên: 44 đồng chí.
- Trong đó: Ban giám hiệu 3, giáo viên 29, cô nuôi 7, nhân viên 6.
- 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
- Thuận lợi
Trường mầm non B xã Vạn Phúc đạt chuẩn Quốc Gia mức độ 1 và luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và đào tạo, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì.
Trường rộng rãi, khang trang, có đồ dùng phục vụ công tác chăm só nuôi dưỡng trẻ, bếp ăn được xây dựng một chiều, đảm bảo vệ sinh (100% đồ dùng ăn uống cho trẻ được trang bị bằng inox).
7/ 7 cô nuôi có bằng kỹ thuật nấu ăn.
Học sinh đi học đều, chuyên cần đúng giờ.
Nhà trường ký hợp đồng thực phẩm với các chủ hàng là phụ huynh, các công ty cung cấp thực phẩm có đủ tư cách pháp nhân: Yêu cầu các chủ hàng có đầy đủ cam kết an toàn vệ sinh thực phẩm và đưa đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, giá cả hợp lý (thấp hơn giá thị trường 1- 2 giá).
- Khó khăn
Hiện nay giá cả các mặt hàng thực phẩm tăng nhanh, nên số tiền ăn của trẻ (15.000 đồng/ ngày) chưa đủ đáp ứng nhu cầu ăn uống cho trẻ.
Thời tiết thay đổi dẫn đến nhiều dịch bệnh xảy ra như: dịch bệnh tiêu chảy, thủy đậu, cúm H9N7, lở mồm long móng, lợn tai xanh…xảy ra thường xuyên.
Phụ huynh đa số làm nghề nông và buôn bán nên họ vẫn chưa có nhiều thời gian quan tâm đến việc chăn sóc và giáo dục trẻ ở nhà cũng như ở trường.
Thời tiết thay đổi bất thường, giá cả thực phẩm biến động theo ngày, do đó việc thay đổi thực đơn cân đối khẩu phần và chế biến món ăn cho trẻ gặp nhiều khó khăn.
Nhiều trẻ lớp bé kén ăn, ăn chậm, nhiều trẻ được gia đình quá nuông chiều thường xúc cho trẻ ăn, cho trẻ ăn dong…..
III. CÁC HÌNH THỨC VÀ BIỆN PHÁP
Biện pháp 1: Tham mưu, phối hợp với Ban giám hiệu, kế toán xây dựng thực đơn phong phú, tìm món ăn mới
Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn cho trẻ là một việc làm quan trọng mang tính khoa học, nhằm mục đích sử dụng tiền ăn đạt hiệu quả cao. Trước đây trường tôi thường ít thay đổi thực đơn cho trẻ, hoặc chỉ thay đổi một số loại thực phẩm thông thường và tỷ lệ calo, các chất chưa cân đối, chưa chú trọng trong việc chế biến món ăn cho trẻ. Năm học 2012 – 2013 được sự quan tâm chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Trì đã tổ chức cho cô nuôi được tham gia các buổi học tập xây dựng thực đơn và kiến tập nuôi dưỡng tại các trường trong huyện. Qua đó, tôi cùng với tổ nuôi đã tham mưu với hiệu phó nuôi, kế toán xây dựng thực đơn theo mùa, theo tuần và thường xuyên thay đổi cách chế biến, tìm các món ăn lạ miệng, hấp dẫn đảm bảo tỷ lệ calo, cân đối các chất cho trẻ như: Tôm thịt sốt chua ngọt, trứng đúc tôm thịt nấm hương, cháo lươn, cháo gà, cháo tôm, tôm thịt sốt cà chua, gà xào ngũ sắc, thịt bò hầm khoai tây cà rốt…
Sau khi thực đơn mới được áp dụng tại trường, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu thực đơn đã có trước đây, tham khảo các món trên sách báo, trên mạng iternet và trực tiếp theo dõi đánh giá khẩu vị của trẻ: Trẻ thích (không thích) ăn món gì? Mùa hè, mùa đông món ăn nào trẻ thích ăn? Vì sao trẻ thích hoặc không thích ăn món đó? Do hợp khẩu vị, do chế biến ngon, chưa hấp dẫn hoặc món ăn đó mới lạ miệng với trẻ…
Các món ăn cách chế biến món ăn ngon từ thịt lợn, khi chế biến tôi thường phối hợp với các loại rau củ quả có màu sắc đẹp để thu hút, lôi cuốn tạo cảm giác hứng thú thích ăn cho trẻ.
Chúng tôi đã lựa chọn những lương thực, thực phẩm giàu Protein như tôm đồng, cá, gà, cua, lạc, đậu đỗ và các loại rau sẵn có theo mùa tại địa phương hoặc nguồn rau sạch trồng được tại trường để xây dựng vào các món ăn trong thực đơn của trẻ.
Để trẻ ăn ngon, hết suất, thức ăn phải có mùi vị thơm ngon hấp dẫn tôi đã phối hợp trong tổ nuôi để thường xuyên thay đổi cách chế biến trong quá trình nấu nướng biết cách phối hợp từng món ăn để tạo nên mùi vị đặc trưng hơn và trẻ ăn rất ngon miệng.
Kết Quả
Cùng với sự tham mưu của tổ nuôi chúng tôi, nhà trường đã xây dựng được thực đơn theo mùa hè, mùa đông, theo tuần chẵn, tuần lẻ đa dạng, phong phú, phù hợp với khả năng ăn của trẻ, trẻ rất thích ăn và ngon miệng. Khẩu phần ăn của trẻ cân đối luôn đảm bảo tỷ lệ các chất theo yêu cầu như: P: 14 – 16%, L: 24-26, G: 60 – 62%, canxi: 250 – 300mg, B1: 0.3 mg, đảm bảo phân phối tiền ăn hợp lý giữa các món ăn
Biện pháp 2: Thực hiện tốt công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm.
Món ăn ngon là món ăn có giá trị dinh dưỡng cao khi món ăn đó được làm từ những thực phẩm tươi, ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó hàng ngày tôi và các cô nuôi luôn nghiêm túc thực hiện đúng lịch phân công giao nhận thực phẩm Ban giám hiệu đã xây dựng. Trường chúng tôi đã ký kết hợp đồng với các chủ hàng là các công ty, phụ huynh… những nơi có đầy đủ giấy phép kinh doanh, thực phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm do trung tâm tế huyện cấp.
Khi tiếp nhận thực phẩm hàng ngày chúng tôi luôn nghiêm túc ghi chép vào sổ giao nhận thực phẩm đầy đủ số lượng và tình trạng thực phẩm, các thực phẩm không đảm bảo không tiếp nhận. Khi giao nhận thực phẩm cô nuôi và chủ hàng phải ký nhận thực phẩm cùng chứng kiến của Ban giám hiệu nhà trường và đại diện giáo viên. Khâu bảo quản tại kho của nhà bếp phải đảm bảo vệ sinh, không để thực phẩm quá hạn, ẩm mốc, kém chất lượng.
Ví dụ: Rau xanh khi nhận vào phải tươi ngon, không dập nát, héo úa và kiểm tra kỹ tránh các loại rau có dư lượng thuốc trừ sâu.
Các loại thịt gia súc, thịt, cách chế biến các món ăn ngon từ cá trứng gia cầm khi nhập chúng tôi kiểm tra kỹ bề mặt thực phẩm bằng mắt và dùng tay ấn thử vào thịt nếu thịt có độ dàn hồi tốt (khi buông ra không để lại vết lại vết lõm tay), thịt có màu hồng sáng, thớ thịt săn, ráo mùi vị bình thường. Với cá, tôm nhận loại tươi sống, vẩy sáng trong, mang cá màu đỏ tươi….để đánh giá chất lượng thực phẩm. Nếu thực phẩm tươi, ngon mới tiến hành cân, nhận số lượng. Nếu thực phẩm có dấu hiệu lạ, không an toàn chúng tôi báo cáo ngay với ban giám hiệu không sử dụng và đổi lấy thực phẩm ngon, sạch. Kiên quyết không nhận thực phẩm không đảm bảo chất lượng vào bếp ăn.
Chúng tôi luôn tận dụng các loại quả sẵn có của địa phương tại các trang trại xung quanh để lấy các loại quả như: Bưởi ngọt, chuối tiêu, đu đủ, hồng xiêm, xoài…để cho trẻ ăn. Đây là nguồn thực phẩm đáng tin cậy và đảm bảo tươi, ngon, vệ sinh để chế biến các món ăn ngon.
Nếu thực phẩm có dấu hiệu lạ, không an toàn chúng tôi báo cáo ngay với ban giám hiệu không sử dụng và đổi lấy thực phẩm ngon, sạch.
Đọc thêm: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/monanngonchotre
Một số biện pháp làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo
Một số biện pháp làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo
Đồ dùng đồ chơi tự tạo làm, đồ chơi từ ống hút, đồ dùng đồ chơi tự tạo chủ đề gia đình, đồ dùng đồ chơi sáng tạo, đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ mầm non, đồ dùng đồ chơi tự tạo chủ đề trường mầm non, đồ dùng đồ chơi tự tạo chủ đề nghề nghiệp, cach lam đồ dùng đồ chơi tự tạo mầm non, làm đồ dùng đồ chơi tự tạo mầm non
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ:
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, chịu trách nhiệm chăm sóc – giáo dục trẻ từ 0 – 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt nền móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không làm tốt việc chăm sóc – giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục lại hết sức khó khăn, phức tạp. Vì vậy, Nghị quyết TW2, khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam về “Định hướng chiến lược giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đề ra mục tiêu giáo dục Mầm non phải trang bị cho trẻ những gì tốt nhất kể cả về mặt vật chất và tinh thần một cách toàn diện.
Đất nước chúng ta đang không ngừng lớn mạnh và phát triển. Trên mọi mặt của đời sống đã có sự thay đổi rõ nét. Cuộc sống của con người ngày càng văn minh hơn, hiện đại hơn. Để bắt nhịp cùng cuộc sống hiện đại đòi hỏi con người cần tư duy, năng động sáng tạo và linh hoạt.
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ em chính là hoạt động vui chơi. Trẻ em không chỉ cần được chăm sóc sức khoẻ, được học tập, mà quan trọng nhất trẻ cần phải được thoả mãn nhu cầu vui chơi. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ em và nhu cầu hưởng thụ hoạt động này, tôi thấy việc tổ chức cho trẻ chơi hoạt động góc là một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa.
Nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Nó làm cho thế giới xung quanh các em đẹp hơn và rộng mở; tuổi thơ của các em sẽ trở thành những kỉ niệm quý báu theo suốt cuộc đời; làm giàu nguồn tình cảm và trí tuệ cho các em. Chính vì vậy, hoạt động góc rất cần thiết được lựa chọn, chơi trong nhà trường tuỳ theo lứa tuổi của trẻ. Chơi không chỉ chắp cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo, mà còn giúp các em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Ngày nay, các em ở một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng thời gian chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và chơi những trò chơi. Vì thế, giúp các em hiểu và thích thú với hoạt động góc là một việc làm cần thiết.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Thông qua hoạt động vui chơi, trẻ phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm quan hệ xã hội, qua đó nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy, giáo viên cần tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi nói chung và hoạt động góc nói riêng. Nhưng làm thế nào để tổ chức được hoạt động góc thực sự có hiệu quả, lôi cuốn và hấp dẫn được trẻ là một bài toán khó với các giáo viên, đặc biệt là các giáo viên mầm non. (Vì khả năng chú ý có chủ định của trẻ mầm non còn kém. Trẻ dễ dàng tham gia vào trò chơi nhưng cũng nhanh chán, nhanh bỏ cuộc).
Mọi người đều công nhận rằng đồ chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu đối với cuộc sống của trẻ. Tuy nhiên, không phải ai cũng có tiền để mua hoặc mua được hết đồ chơi cho trẻ. Để thoả mãn hoạt động vui chơi của trẻ chúng ta có thể tự làm lấy đồ chơi cho trẻ. Ở trường mầm non muốn trẻ phát triển tốt thì cô giáo phải là người thể hiện tốt nhiệm vụ giáo dục của mình luôn linh động sáng tạo giúp trẻ thông qua chơi mà học, bằng cách thông qua “hoạt động góc”.Trong quá trình giáo dục trẻ nói chung, tổ chức cho trẻ chơi nói riêng. Giáo viên cần phải biết dạy cho trẻ chơi cái gì? Chơi như thế nào? Để đem lại kiến thức phục vụ cho hoạt động học, phục vụ cho sự phát triển tư duy của trẻ. Vì vậy đồ chơi càng phong phú bao nhiêu thì càng kích thích sự hứng thú và tạo sự ham muốn được khám phá mở mang kiến thức về thế giới xung quanh ở trẻ bấy nhiêu. Từ những thực tế mà tôi đã thể hiện ở lớp, việc cho trẻ hoạt động góc từ các đồ dùng, đồ chơi tôi đã nhận thấy được rằng việc thực hiện hoạt động góc không phải để cho trẻ chơi không mà còn giúp trẻ phát triển toàn diện trong các lĩnh vực ngôn ngữ, thẩm mỹ, thể chất, nhận thức và tình cảm xã hội, hay nói một cách khác đây là mắc xích gắn kết hỗ trợ lẫn nhau.
Chính vì tầm quan trọng muốn giúp cho sự hứng thú chơi trong trẻ ngày càng nhiều hơn, mở mang kiến thức sâu rộng hơn nên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ hoạt động góc tại lớp mẫu giáo nhỡ trường mầm non”

Một số biện pháp làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo
*Mục đích của đề tài này:
Đánh giá thực chất, chất lượng việc cho trẻ hoạt động góc ở trường Mầm non A Ngọc Hồi nói chung lớp mẫu giáo nhỡ B1 nói riêng.
Tìm ra nhiều biện pháp sáng tạo trong việc giúp trẻ chơi tốt hoạt động góc nhằm phát triển toàn diện cho trẻ.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là:
Các biện pháp giúp cho sự hứng thú chơi trong trẻ ngày càng nhiều hơn, mở mang kiến thức sâu rộng, hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ, nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ ở trường mầm non.
* Phạm vi áp dụng:
Lớp B1 mẫu giáo nhỡ trường mầm non A Ngọc Hồi trong năm học 2013- 2014.
* Kế hoạch nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu 9 tháng (bắt đầu từ tháng 9/2013 đến cuối tháng 4/2014)
* Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lý luận
– Phương pháp điều tra thực trạng
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
– Phương pháp quan sát
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- C¥ Së Lý LUËN
Theo điều 23 luật Giáo dục mầm non 2005 ban hành số 38/2005 QH11 ngày 14/6/2005 yêu cầu về nội dung và phương pháp Giáo dục mầm non đã ghi: Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện.
Theo chương trình Giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số: 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) cũng đã nêu rõ: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Vì vậy: Giáo dục mầm non hiện nay đã và đang tiếp tục tìm ra những phương pháp mới để giảng dạy trong đó có nhu cầu về vui chơi hay còn gọi là hoạt động góc cũng rất quan trọng và được phân bổ như một hoạt động chính trong ngày, thông qua giờ hoạt động góc giúp trẻ rèn luyện trí nhớ, tính quan sát, kỹ năng phân biệt, so sánh… nhằm giúp trẻ khắc sâu kiến thức, trẻ hiểu thêm về nội dung bài học, phát triển trí tuệ ở trẻ một cách toàn diện. Thông qua đồ chơi tự tạo ở hoạt động góc còn giúp trẻ hiểu được nội dung của công việc thật mà trẻ chưa hề thực hiện được. Như trong chơi góc gia đình “ Nấu ăn” trẻ phải học cách nấu ăn.
Ngày nay khi kinh tế phát triển, trong xã hội đã xuất hiện nhiều tệ nạn, tiêu cực mà nó sẽ làm ảnh hưởng xấu đến suy nghĩ của trẻ. Vì vậy tạo môi trường thân thiện thông qua việc làm đồ chơi tự tạo trong hoạt động góc chính là chúng ta đã tạo ra cho trẻ có suy nghĩ việc làm tốt đẹp hơn. Nhưng trên thực tế cho thấy việc tổ chức hoạt động góc chưa được thường xuyên. Đặc biệt là việc tạo môi trường thân thiện thông qua việc làm đồ chơi tự tạo trong hoạt động góc chưa được để cao và thiếu sự đầu tư.
Việc sử dụng đồ chơi ở hoạt động góc thông qua các trò chơi giúp trẻ phát triển sự giao lưu qua lời nói, làm giàu vốn từ cho trẻ, giúp trẻ thể hiện tình cảm, giáo dục nhân cách cho trẻ, tình cảm của trẻ được hình thành qua mối quan hệ tốt giữa người với người, mối quan hệ giữa con người và lao động, giữa trẻ và gia đình, tình cảm đó được thể hiện một cánh chân thành qua các trò chơi như: Gia đình, Bán hàng, Xây dựng…
Chơi với đồ chơi trong hoạt động góc còn giúp trẻ phát triển tình cảm tập thể, là trung tâm tập hợp trẻ cùng chơi với nhau theo nhóm, thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong các nhóm chơi của trẻ. Bên cạnh đó giúp trẻ có lòng dũng cảm, cương quyết, có tính phấn khởi, vui mừng. Khi chơi xong trẻ tích cực học tập mang lại những giá trị tinh thần tốt cho sức khoẻ. Khi chơi trẻ được thực hiện những động tác tự nhiên với đồ dùng, đồ chơi và có ý thức giữ gìn đồ chơi, phát triển óc thầm mỹ, khuyến khích trẻ sáng tạo ra nhiều cái đẹp.
Mục đích của việc tạo môi trường học thân thiện thông qua việc làm đồ chơi tự tạo trong hoạt động góc giúp trẻ hình thành và phát triển tư duy, là phương tiện hình thành nhân cách cho trẻ.
- c¬ së thùc tiÔn:
- Đặc điểm tình hình chung:
Trường mầm non A Ngọc Hồi nằm trên địa bàn xã Ngọc Hồi – Thanh Trì – Hà Nội, trường đã có thành tích đạt trường tiên tiến cấp huyện, đang phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1.
Với qui mô toàn trường có 09 lớp học: 2 lớp MG lớn, 2 lớp MG nhỡ, 3 lớp MG bé, 2 lớp nhà trẻ. Toàn trường có tổng số 36 đồng chí CB- GV- NV và 320 cháu ở các độ tuổi.
Năm học 2012- 2013 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp Mẫu giáo nhỡ B1 với số trẻ là 60 cháu, trong đó có 25 cháu nam và 35 cháu nữ
Lớp có 04 cô phụ trách: 04 cô có trình độ chuẩn.
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
- Thuận lợi:
Bộ giáo dục và đào tạo cũng không ngừng đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức, đổi mới chương trình để cố gắng phát huy hết tính tích cực, chủ động, sáng tạo, thích tìm tòi khám phá cái mới, khai thác hết tiềm năng, năng lực vốn có trong mỗi cá thể.
Các cấp lãnh đạo Sở GD-ĐT và Phòng GD-ĐT cũng quan tâm, nhằm năng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, thực hiện các mục tiêu của nghành.
Trường chúng tôi là trường trọng điểm của xã, được sự quan tâm của Đảng ủy, chính quyền địa phương, xây dựng cơ sở vật chất khang trang và đầy đủ.
Việc tổ chức “Hội thi làm đồ dùng đồ chơi tự tạo” bằng nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu cho toàn thể giáo viên trong trường, là cơ hội để tôi tích cực đi sâu nghiên cứu, học hỏi cách làm, nâng cao khả năng vận dụng sáng tạo để làm đồ dùng đồ chơi, đồng thời học tập được nhiều kinh nghiệm, nảy sinh ra nhiều ý tưởng và sáng kiến hay khi làm do dung do choi sang tao.
Đặc biệt là sự ủng hộ quan tâm của đại đa số phụ huynh trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ đã đóng góp về cơ sở vật chất cũng như tinh thần.
Đa số giáo viên đều thấy được vai trò chủ đạo của việc làm đồ dùng đồ chơi tự tạo rất cần thiết cho trẻ.
Trẻ đi học tương đối đều, được chơi thường xuyên nên đã có nề nếp và kỹ năng.
Cô giáo có trình độ chuyên môn vững, khéo tay, yêu nghề mến trẻ, chịu khó. Tích cực học hỏi và trao đổi cùng đồng nghiệp về chuyên môn nghiên cứu, sưu tầm các loại sách báo nên tích lũy được một số kinh nghiệm làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo.
Qua 04 năm trực tiếp đứng lớp chăm sóc và giáo dục trẻ nên có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và đã đạt danh hiệu giáo viên giỏi, chiến sĩ thi đua cấp
huyện.
Được đi kiến tập học hỏi đồng nghiệp trường bạn. Bản thân đang đi học lớp đại học sư phạm mầm non để nâng cao trình độ, chuyên môn.
Các cháu rất hiếu động, thích tìm tòi khám phá, rất thích chơi với nhiều đồ chơi mới lạ…
Đa số phụ huynh nhiệt tình có nhận thức về việc học tập của mình, sẵn sàng hỗ trợ và tìm kiếm nguyên vật liệu cho việc làm đồ dùng đồ chơi càng thêm phong phú và đa dạng.
Bản thân tôi cũng có nhiều cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn làm đồ chơi phục vụ cho các góc.
- Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên tôi gặp không ít những khó khăn sau:
Trường mầm non A Ngọc Hồi là trường mầm non nông thôn đa số phụ huynh làm nghề nông nghiệp nên chưa thực sự quan tâm đến con, kinh tế còn khó khăn nên phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập vui chơi của trẻ, họ đưa con em họ đến lớp với mục đích là nhờ cô giáo chông, vì vậy việc học tập vui chơi của trẻ chưa đạt kết quả
Lớp đông có nhiều cháu mới đi học chưa qua lớp nhà mẫu giáo bé, một số trẻ là từ nơi khác đến tạm trú nên trình độ tiếp thu không đồng đều, rất nhiều trẻ nói ngọng, nói không rõ tiếng. Bởi vậy trẻ chưa có kỹ năng và nề nếp trong mọi hoạt động, do đó ảnh hưởng rất nhiều đến việc tổ chức các hoạt động cho trẻ mà đặc biệt là hoạt động góc.
Cơ sở vật chất: Đồ dùng trang thiết bị hiện đại tuy đã được bổ xung nhưng còn thiếu.
Đồ dùng đồ chơi, đã qua nhiều năm sử dụng nên đã cũ và hỏng rất nhiều. Lớp đông cháu, đồ chơi một số góc còn ít không hấp dẫn trẻ. Thao tác chơi của trẻ với đồ chơi còn ít, đơn giản. Đầu năm một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động chưa mạnh dạn tiếp xúc với đồ chơi, chưa tự giác chơi, đa số trẻ còn lẫn lộn giữa góc chơi này với góc chơi kia dẫn tới trẻ không hứng thú, một số trẻ chưa biết sử dụng đồ chơi đúng mục đích dẫn đến giờ hoạt động góc đạt tỷ lệ thấp.
Xuất phát từ đặc điểm chung của trường của lớp, từ nhu cầu thực tế của trẻ và tầm quan trọng của việc giúp trẻ chơi tốt hoạt động góc nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ và đáp ứng được nhiệm vụ trọng tâm của năm học, đã thôi thúc tôi đưa ra một số biện pháp làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ hoạt động góc tại lớp mẫu giáo nhỡ trường mầm non A Ngọc Hồi góp phần vào việc phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
III: MéT Sè BIÖN PH¸P
1.Biện pháp 1: Điều tra thực tiển:
Việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp cho giáo viên nhìn nhận chính xác được về tình trạng thực tiễn của lớp mình từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ bởi vì mỗi trẻ có khả năng sử dụng đồ dùng đồ dùng đồ chơi tự tạo chủ đề trường mầm non, đồ chơi một cách khác nhau. Có trẻ vào nhóm chơi đồ chơi nhưng rất nhanh lại chán không tập trung ở góc mình chơi, chơi với đồ chơi mình đã chọn mà hay đi đến nhiều góc chơi khác.
Tôi thường xuyên tổ chức hoạt động vui chơi để theo dõi trẻ và nắm bắt được những tâm tư suy nghĩ của trẻ.
Việc sắp xếp, phân bố góc chơi, đồ dùng, đồ chơi ở các góc chưa tách bạch rõ ràng, chưa sắp xếp đồ chơi khoa học, trang trí đẹp làm bắt mắt trẻ .
Nội dung chơi còn chung chung nên dẫn đến sử dụng đồ dùng đồ chơi trong các vai chơi của trẻ không thể hiện, rất ít có mối quan hệ với nhau, làm nội dung chơi bị hạn chế. Việc quan sát trẻ sử dụng đồ chơi được theo dõi thường xuyên vào các giờ hoạt động góc để ghi lại thật cụ thể những trẻ nào thích chơi ở những góc nào, với đồ chơi gì, trẻ nào không thích chơi, nguyên nhân vì sao?
Mặt khác, việc tuyên truyền với các bậc phụ huynh học sinh chưa sâu sát, chặt chẽ từ đó dẫn đến tình trạng phụ huynh chưa quan tâm đồng đều, còn lại một số phụ huynh chưa hiểu hết ý nghĩa quan trọng của việc trẻ sử dụng đồ chơi nên không ủng hộ chưa nhiệt tình cho giáo viên việc hỗ trợ nguyên vật liệu sẵn có.
Số lượng đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ mầm non của các nhóm lớp trong toàn trường còn hạn chế về số lượng, trong đó nhiều đồ dùng đồ chơi mua sẵn trên thị trường và ít đồ dùng đồ chơi tự làm, chưa phong phú, đa dạng. Nhìn chung môi trường lớp học của lớp trang trí đẹp, nhưng đồ dùng đồ chơi chưa phong phú.
Kết quả khảo sát đánh giá trẻ đầu năm cụ thể như sau:
Link tải tài liệu: http://preview.tinyurl.com/dodungdochoimammnon
Tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi
Tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi
MỞ ĐẦU
Hoạt động ngoài trời là một trong những hoạt động vui chơi mà trẻ hứng thú nhất, mang lại cho trẻ nhiều niềm vui và kiến thức cần thiết về thế giới xung quanh trẻ. Trẻ nhận thức được thế giới xung quanh bằng cách tiếp xúc, tìm hiểu, khám phá và quan tâm đến những gì xảy ra ở cuộc sống xung quanh mình. Qua hoạt động ngoài trời trẻ thỏa mãn nhu cầu hoạt động, nhu cầu tìm hiểu, khám phá của bản thân. Hoạt động vui chơi ngoài trời tạo cho trẻ sự nhanh nhẹn và hứng thú với môi trường tự nhiên đồng thời trẻ tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống.
Trẻ mầm non “Học mà chơi – chơi mà học”. Vui chơi là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mầm non, mà trong đó vui chơi ngoài trời là một hoạt động không thể thiếu được với trẻ. Tham gia hoạt động ngoài trời, trẻ sẽ được hít thở không khí trong lành, được quan sát thế giới xung quanh, được khám phá những điều mới lạ từ thiên nhiên, được tự do hoạt động theo ý thích, tích lũy kiến thức, rèn luyện các kỹ năng và tăng thêm vốn kinh nghiệm sống cho bản thân.
Môi trường cho trẻ hoạt động ngoài trời là một môi trường hấp dẫn và lôi cuốn trẻ nếu chúng ta biết nắm bắt và tận dụng tất cả những yếu tố có sẵn trong thiên nhiên, tác động vào chúng qua các trò chơi, quan sát, tìm hiểu sự vật xung quanh trẻ trong các tình huống. Những câu hỏi như: Vì sao? Làm thế nào?… và sự tò mò ham hiểu biết của trẻ, sẽ giúp giáo viên hình thành hành vi đẹp, thói quen tốt cho trẻ.
Thực tế trong nhiều năm qua, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Trì đã hết sức quan tâm đến việc tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ: Đã tổ chức các lớp tập huấn, kiến tập cho giáo viên mầm non. Ủy ban nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân xã đã quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất; quy hoạch sân trường; trang bị đồ chơi ngoài trời mầm non; xây dựng vườn cổ tích. Bên cạnh đó, Ban giám hiệu nhà trường đã trang bị nhiều cuốn sách, nhiều tài liệu liên quan đến việc tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ, đã đầu tư các đồ dùng đồ chơi, nguyên vật liệu cần thiết và triển khai bồi dưỡng cho giáo viên về cách thức tổ chức hiệu quả hoạt động ngoài trời. Tuy nhiên, nhận thức của một số phụ huynh còn chưa tích cực với việc tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ như: Sợ nắng, sợ gió, sợ con mệt … Nhiều giáo viên còn ngần ngại chưa chú ý đến chất lượng tổ chức hoạt động ngoài trời, nhiều giáo viên khi tổ chức còn mang tính chất hình thức đại khái, qua loa. Nếu thực tế này kéo dài sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.
Là một giáo viên trẻ, được đào tạo chính quy, rất tâm huyết với nghề, hiểu được tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động ngoài trời đối với trẻ, tôi luôn băn khoăn, trăn trở “Làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động cho trẻ hoạt động ngoài trời?”. Sau một năm nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng một số biện pháp, tôi thấy trẻ lớp tôi tích cực hơn, mạnh dạn hơn trong các giờ hoạt động ngoài trời. Hơn thế nữa nhận thức của các cháu về thế giới xung quanh cũng phát triển rõ rệt, các cháu chủ động hơn, tích cực hơn, quan sát đối tượng kỹ … Vì vậy tôi xin phép được trao đổi với chị em đồng nghiệp:
“Kinh nghiệm tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi, lớp C1 trường mầm non A”.
* Mục đích nghiên cứu:
– Đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động ngoài trời của trẻ 3 – 4 tuổi, lớp C1 trường mầm non A Tứ Hiệp.
– Tìm ra hệ thống các biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi, lớp C1 trường Mầm non A Tứ Hiệp.
* Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi, lớp C1 trường Mầm non A Tứ Hiệp.
* Phạm vi nghiên cứu: Trẻ 3 – 4 tuổi lớp C1 trường Mầm non A, năm học 2012 – 2013.
NỘI DUNG
- CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Việc giáo dục trẻ nhỏ về những giá trị của môi trường sống, giúp trẻ được gần gũi với thiên nhiên, tìm hiểu và học cách hòa nhập với môi trường xung quanh là vô cùng cần thiết. Quá trình giáo dục này có thể tiến hành thông qua nhiều hoạt động khác nhau nhưng hoạt động ngoài trời vẫn được coi là hoạt động có nhiều ưu thế. Rất nhiều nhà khoa học đã chứng minh rằng: “Sau các hoạt động giáo dục có chủ đích, giáo viên cho trẻ tham gia vào các hoạt động ngoài trời, có khi chỉ cần đi dạo quanh sân trường cũng đủ giúp trẻ vận động thân thể và hít thở không khí trong lành, giúp đầu óc trẻ thoải mái, sảng khoái hơn. Ngoài ra, khi luyện tập và tham gia các trò chơi vận động ngoài trời thường xuyên với thời gian thích hợp sẽ giúp cho cơ thể trẻ tự tổng hợp Vitamin D (Vitamin D được tổng hợp từ chất 7 – Dehydrocholesterol ở dưới da dưới tác dụng bức xạ của tia cực tím trong ánh sáng mặt trời thành cholecalciferol – Vitamin D3) góp phần giúp cho hệ xương phát triển. Đặc biệt, ở lứa tuổi đang lớn này, xương hấp thụ nhiều canxi hơn nên tham gia các hoạt động ngoài trời giúp cho các tế bào tạo xương xây đắp cho xương đặc hơn, rắn chắc hơn, dẻo dai hơn. Trẻ sẽ phát triển tối đa về chiều cao, về trọng lượng, về sự rắn chắc của thể hình”. Nhiều nghiên cứu khoa học cũng đã chứng minh: “Không gì khiến trẻ thấy thoải mái, tự tin và vui vẻ hơn khi trẻ được chạm tay vào mọi thứ xung quanh và tự khám phá sự việc bằng các giác quan, cảm xúc của mình”.
Trong tài liệu hướng dẫn, tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non – Mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi, xuất bản tháng 9 năm 2009 có đoạn viết hướng dẫn giáo viên lưu ý đến mục đích của việc tổ chức hoạt động ngoài trời: “Với trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi, giáo viên tổ chức cho trẻ chơi và tham gia các hoạt động ngoài phạm vi lớp học với mục đích: Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với không khí trong lành của thiên nhiên, rèn luyện sức khỏe, thiết lập mối quan hệ giữa trẻ với môi trường xung quanh, góp phần mở rộng vốn hiểu biết của trẻ về môi trường tự nhiên, xã hội; thỏa mãn nhu cầu chơi và hoạt động theo ý thích của trẻ”.
- CƠ SỞ THỰC TIỄN:
- Mô tả thực trạng
– Trường mầm non A Tứ Hiệp là một trong hai trường mầm non đầu tiên của huyện Thanh Trì được công nhận là trường chuẩn quốc gia cấp độ 1 (vào tháng 2 năm 2009) nên có đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho học tập và vui chơi.
– Năm học 2012 – 2013, tôi được Ban giám hiệu phân công phụ trách lớp mẫu giáo bé 3- 4 tuổi ở tại khu Cương Ngô I, lớp có 3 cô.
– Trình độ: + 1 cô Đại học
+ 2 cô Trung cấp Sư phạm (hiện 1 cô đang theo học lớp Đại học Sư phạm khoa Giáo dục Mầm non )
– Lớp có 46 cháu và 100% các cháu ăn bán trú tại trường nên rất thuận tiện cho việc chăm sóc giáo dục trẻ.
– Khuôn viên trường lớp rộng, thoáng mát, đẹp phù hợp với trẻ mầm non.
Với tình hình thực trạng như trên trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
- Điều kiện thuận lợi :
– Đối với cô: Các cô trong nhóm lớp nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ và có khả năng sư phạm vững vàng.
– Đối với trẻ: 100% trẻ cùng độ tuổi nên thuận lợi trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Trẻ đi học tương đối đều nên tỉ lệ chuyên cần cao. Trẻ tích cực tham gia hoạt động chơi
– Cơ sở vật chất: Nhà trường đã đầu tư và được đầu tư mua đồ dùng đồ chơi hoạt động ngoài trời đẹp, hiện đại.
+ Trường có khu vườn cổ tích, sân trường có nhiều cây xanh, vườn rau, vườn hoa, nhiều cây ăn quả.
– Đối với phụ huynh: Các bậc phụ huynh rất nhiệt tình ủng hộ các nguyên vật liệu phế thải để giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
- Điều kiện khó khăn:
– Sân trường đã có vườn hoa tuy nhiên vẫn chưa phong phú về các loại hoa.
– Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động ngoài trời đã có song chưa phong phú về chủng loại.
– Giáo viên còn ngần ngại chưa chú ý đến chất lượng tổ chức hoạt động ngoài trời: Chưa linh hoạt tận dụng những điều kiện tự nhiên để cho trẻ được tìm tòi, khám phá; hệ thống câu hỏi đặt ra còn chưa phát huy được tính tích cực của trẻ…
– Kỹ năng quan sát, phán đoán, suy luận của trẻ còn hạn chế. Do nhiều lớp hoạt động ngoài trời cùng thời gian nên làm phân tán sự chú ý của trẻ.
– Đa số phụ huynh làm nông nghiệp, buôn bán nhỏ nên chưa nhận thức đúng đắn vai trò của hoạt động ngoài trời đối với trẻ, chưa tận dụng điều kiện tự nhiên xung quanh để giáo dục trẻ.
Căn cứ vào đặc điểm tình hình và các điều kiện thuận lợi khó khăn như trên, tôi đã áp dụng hệ thống các biện pháp sau để nâng cao chất lượng hoạt động ngoài trời cho trẻ:
III. CÁC BIỆN PHÁP:
1, Biện pháp 1: Khảo sát – đánh giá.
Để xây dựng được các biện pháp đạt kết quả tốt, trước hết tôi dùng biện pháp khảo sát – đánh giá. Tôi đã khảo sát: Kỹ năng quan sát, kỹ năng phán đoán suy luận, khả năng chú ý, khả năng phối hợp tập thể, mức độ hứng thú của trẻ tham gia vào hoạt động ngoài trời và số lượng đồ dùng đồ chơi sử dụng trong hoạt động ngoài trời. Có khảo sát – đánh giá mới nắm được mức độ nhận thức, các kỹ năng khi tham gia hoạt động ngoài trời của trẻ và lượng đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động để từ đó thực hiện các biện pháp tiếp theo. Tôi đã tiến hành khảo sát như sau:
1.1. Khảo sát trẻ:
Để đánh giá được chính xác thực trạng sự phát triển của trẻ về nhận thức, kỹ năng rồi từ đó mới có các biện pháp phù hợp. Do vậy tôi tiến hành khảo sát trẻ qua việc theo dõi các hoạt động trong ngày của trẻ cùng với việc tổ chức cho trẻ tham gia 1 số hoạt động trải nghiệm, giao lưu, tham quan…và đến khi đánh giá trẻ đầu năm tôi thu được kết quả như sau:
Theo: sang kien kinh nghiem mam non
Link tài liệu: http://tinyurl.com/sangkinkinhnghiemdochoingoaitr
Xây dựng vườn rau, quả tại trường mầm non
Xây dựng vườn rau, quả tại trường mầm non
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận
(sang kien kinh nghiem mam non) Trường mầm non – cái nôi đầu đời của trẻ! Trẻ đến trường được chăm sóc giáo dục để phát triển một cách toàn diện. Nhiệm vụ và mục tiêu của giáo dục mầm non là chăm sóc giáo dục trẻ, nhiệm vụ chăm sóc trẻ được đưa lên hàng đầu. Để chăm sóc trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa cân đối thì dinh dưỡng cần cho trẻ không phải chỉ đủ về số lượng và chất lượng mà còn rất cần sự an toàn trong khâu lựa chọn, chế biến thực phẩm sạch và an toàn. Ngày nay cùng với sự phát triển chung của toàn xã hội, mỗi gia đình đều có cuộc sống sung túc hơn. Chính vì vậy, trẻ em được hưởng sự chăm sóc đặc biệt từ gia đình và toàn xã hội, tuy vậy vẫn có những ông bố, bà mẹ phàn nàn: “Tôi cho con ăn đủ mọi thứ của ngon vật lạ mà trẻ vẫn gầy yếu và biếng ăn” vậy vấn đề đặt ra là gì? Phải chăng chế độ dinh dưỡng của trẻ chưa hợp lý, chưa khoa học? Thực phẩm dùng cho trẻ hàng ngày như thế nào là sạch và an toàn? Có lẽ đó chính là câu hỏi của nhiều phụ huynh và nhiều bậc làm cha mẹ quan tâm. Trường mầm non là nơi khởi đầu cho sự nghiệp trồng người, đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Để giải quyết những khúc mắc trên tôi đã tìm ra cơ sở thực tiễn về vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm như sau:

Xây dựng vườn rau, quả tại trường mầm non
- Cơ sở thực tiễn
“Trẻ em như búp trên cành” những “búp trên cành” ấy còn rất non nớt trước những tác nhân không tốt bên ngoài môi trường như: Ô nhiễm khói bụi, hóa chất độc hại trong không khí, trong nguồn nước và trong thực phẩm. Nguồn thực phẩm sạch, an toàn là vô cùng cần thiết cho trẻ được nhà trường chúng tôi đưa lên hàng đầu. Trên thực tế thị trường rau, củ, quả hiện nay không đảm bảo an toàn vì có quá nhiều dư lượng thuốc bảo quản và hóa chất độc hại dùng trong bảo quản thực phẩm và kích thích tăng trưởng.
Đứng trước tình hình đó được sự chỉ đạo của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Thanh Trì, trường mầm non B xã Đông Mỹ vẫn luôn làm tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là công tác chăm sóc nuôi dưỡng tạo nguồn thực phẩm sạch cho trẻ tại trường. Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương và của nhà trường tôi đã suy nghĩ “Mình có đất, có nhân công tại sao không cải tạo đất để trồng rau sạch, cây ăn quả sạch phục vụ cho cô và trẻ trong trường?”. Qua 4 năm chỉ đạo công tác cải tạo đất làm vườn trường tôi đã đạt được những thành công đáng khích lệ và cá nhân tôi đã tích lũy được. “Kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng vườn trường nhằm cung cấp rau quả sạch, an toàn. Hỗ trợ giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong trường Mầm non” tôi chia xẻ để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
- Đặc điểm tình hình nhà trường
– Trường mầm non B xã Đông Mỹ nằm ở phía Nam huyện Thanh Trì (Giáp huyện Thường Tín)
– Tổng số dân > 7000 dân.
– 40 % số dân toàn xã sống bằng nghề nông nghiệp. Tiền ăn do cha mẹ trẻ đóng góp thấp: 17.000đồng/ngày/trẻ (Kể cả chất đốt)
– Tổng số trẻ từ 0 đến 6 tuổi trên địa bàn trường quản lý: 344 cháu:
+ Số trẻ mẫu giáo: 208 cháu.
+ Số trẻ nhà trẻ: 136 cháu.
+ Trẻ khuyết tật trong độ tuổi nhà trẻ mẫu giáo 05 cháu đã ra lớp 05 cháu đạt 100%.
Tổng số |
Cán bộ quản lý | Giáo viên | Nhân viên | |||||||
Số lượng
|
Trình độ | Số lượng | Trình độ | Số lượng | Trình độ | |||||
Chuẩn | Trên chuẩn | Chuẩn | Trên chuẩn | Chuẩn | Trên chuẩn | Khác | ||||
31 | 02 | 01 | 01 | 20 | 15 | 5 | 09 | 06 | 01 | 02 |
* Đội ngũ: Tổng số toàn trường có 31 cán bộ – giáo viên – nhân viên. 6 lớp mẫu giáo và 01 nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi.
- Những thuận lợi và khó khăn:
1.1. Thuận lợi:
– Trường được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo từ Huyện đến địa phương. Năm 2010 trường được công nhận trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia. Năm học 2010 – 2011 trường được Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội chọn làm điểm về công tác chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng đổi mới. Năm học 2012 – 2013 Trường được Sở giáo dục và Đào tạo Hà Nội tặng giấy khen có thành tích Xuất sắc trong việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới.
– Diện tích sân vườn rộng, trường có tổng diện tích 6021m2. Trong đó diện tích sân vườn: 4200m2.
– Trường được sự ủng hộ của phụ huynh trong xã.
– Trường có đủ đội ngũ cán bộ quản lý. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ. Số cô đủ định biên so với trẻ theo Nghị định 71 và Điều lệ trường mầm non.
1.2. Khó khăn.
– Đất vườn trường đổ là san nền, bạc màu, vườn trường chưa được quy hoạch.
– Đời sống của số đông giáo viên chưa được hưởng biên chế, tăng lương theo định kỳ nên đời sống của giáo viên còn khó khăn (Nhất là cô nuôi và bảo vệ.)
– Đa số giáo viên trẻ, không biết cách làm vườn, trồng rau.
Từ những khó khăn thuận lợi trên qua nhiều ngày trăn trở tôi đã tìm ra các giải pháp sau:
- Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng vườn trường nhằm cung cấp rau quả sạch, an toàn. Hỗ trợ giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong trường Mầm non”
2.1. Lập kế hoạch:
Hàng ngày đến trường nhìn vườn trường rộng, ngổn ngang phế liệu, đất san nền, sân bê tông nóng rát tôi đã trăn trở nhiều ngày và quyết định đưa ý định cải tạo đất vườn trồng cây ăn quả và rau sạch ra bàn trong hội nghị Cán bộ – giáo viên – nhân viên đầu năm học.
Vấn đề được đặt ra có nhiều tranh luận, đa số giáo viên trẻ không quen với công việc làm vườn nên ngại không thành công. Tôi đã thuyết phục chị em cán bộ – giáo viên – nhân viên bằng cách tự đứng ra làm và chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhà trường về công tác phân công, tổ chức và thực hiện.
2.2. Cải tạo đất vườn:
Việc cải tạo đất vườn là công việc khó khăn và nặng nề nhất. Khi chúng tôi chuyển về trường, vườn trường là nhũng ụ đất san nền cứng ngắc, bạc màu, thiếu độ tơi xốp. Tôi đã tham mưu với các đồng chí lãnh đạo địa phương xin sự giúp đỡ của đoàn thanh niên xã và liên hệ với trung tâm giáo dục thường xuyên Đông Mỹ xin 96 em giáo sinh về giúp đỡ nhà trường. Ngoài ra còn xin sự trợ giúp công sức của các đức ông chồng cán bộ, giáo viên, nhân viên và các bậc phụ huynh, đóng góp công sức lao động vào các buổi chiều và ngày thứ bảy.
Bản thân xuất phát từ nhà nông nên tôi rất am hiểu về chất đất và các loại cây trồng. Tôi đã chỉ đạo và cùng các thành viên trong nhà trường cuốc đất, làm luống, mua vỏ trấu, lân vi sinh, tro bếp trộn vào đất sau đó phân khu vực trồng rau củ, quả theo đặc điểm trường và chất đất sao cho phù hợp với từng loại cây theo mùa.
2.3. Phân lô trồng cây:
Sau khi cải tạo đất vườn tôi tiến hành phân lô trồng cây theo từng loại. Khu vườn phía trước cổng trường chúng tôi trồng các loại cây thuốc Nam như Hẹ, Tía Tô, Ngải Cứu, Bạc Hà, Rải Quạt… Khu vườn dọc hai bên trường chúng tôi trồng các loại cây rau ngắn ngày theo mùa vụ như: Rau Cải, rau Muống, rau Rền, rau Ngót, rau Đay, Mồng Tơi, Su Hào, Cải Bắp…. Khu vườn góc bên phải chúng tôi tận dụng các cây gỗ, dây thép làm giàn trồng các loại: Mướp, Su Su, Bầu, Bí, Gấc… Khu vườn phía sau chúng tôi trồng các loại cây ăn quả như: Đu Đủ, Xoài, Nhãn, Hồng Xiêm, Na, Mít…
Khu đất trũng hơn chúng tôi trồng khoai lang, sau 2 lần thất bại khoai củ rất lớn nhưng chất lượng không đảm bảo, khoai bị hà vì ngập nước. Tôi đã chỉ đạo chị em trồng chuối Tây và chuối Tiêu đến nay chuối đã có buồng.
Để tận dụng các khoảng trống dưới gốc cây ăn quả. Chúng tôi đã trồng củ Xả vừa tránh Muỗi, Rắn vừa đỡ cỏ lại tăng thu nhập.
Nhà trường gắn biển phân rõ vườn rau cho các tổ văn phòng, tổ bếp, các lớp để cô và trò cùng chăm sóc cây và học bộ môn khám phá ngay trên khu vườn của lớp mình phụ trách.
Xem thêm: giáo án điện tử mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/hotrosuydinhduong
Nâng cao chất lượng hoạt động góc trẻ mầm non
Nâng cao chất lượng hoạt động góc trẻ mầm non
Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng hoạt động góc cho trẻ ở trường mầm non
PHẦN I- ĐẶT VẤN ĐỀ
( giáo án mầm non) Hoạt động ở các góc là hình thức tổ chức quan trọng để thực hiện mục tiêu và nội dung giáo dục mầm non. Hoạt động góc tạo điều kiện cho trẻ được cung cấp, củng cố những khái niệm và kỹ năng đã học; đặc biệt, trẻ được luyện tập một số thói quen, kỹ năng của chương trình giáo dục vệ sinh – lao động, rèn luyện thể lực phù hợp với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi, qua đó giúp trẻ được khám phá tích cực và có những kinh nghiệm phong phú.
Bản chất của hoạt động góc chính là hoạt động vui chơi được tổ chức trong các góc hoạt động. Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, là hoạt động chủ yếu của trẻ nhà trẻ. Vì vây, tác dụng của hoạt động góc chính là tác dụng của hoạt động vui chơi, là phương tiện để giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
Ở trường Mầm non, hoạt động góc chiếm thời gian phần lớn trong thời gian biểu của trẻ. Nó được thiết kế và tổ chức theo các chủ đề phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ: Trẻ có nhu cầu chơi vì luôn mong muốn hiểu biết về cuốc sống xung quanh. Hơn nữa, ở trường mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ nhà trẻ là “Hoạt động với đồ vật”. Với trẻ mẫu giáo mức độ cao hơn, trẻ mẫu giáo thích bắt chước người lớn, thích được hoạt động tích cực với bạn bè cùng lứa tuổi. Khi tham gia vào các hoạt động khác nhau sẽ giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh, lĩnh hội những kỹ năng sống cần thiết, phát triển tính chủ động sáng tạo, khả năng giao tiếp, khơi gợi hứng thú cảm xúc của trẻ. Hoạt động góc như một xã hội thu nhỏ, hết sức quan trọng đối với trẻ.Thực tiễn giáo dục đã khẳng định: Với sự hướng dẫn hợp lý, hoạt động chơi của trẻ sẽ được hình thành và phát triển một cách có hiệu quả trên những nấc thang phát triển ngày càng cao do người lớn xây dựng. Và chỉ có như vậy hoạt động chơi mới có vai trò là phương tiện giáo dục hàng đầu của trẻ mầm non.
Thực tế trong nhiều năm qua, hoạt động góc cũng đã được các cấp lãnh đạo nhìn nhận và đánh giá rất quan trọng đối với trẻ. Bộ giáo dục, Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội cũng đã tổ chức các buổi tập huấn, phát hành nhiều cuốn tài liệu, nhiều bài viết liên quan đến việc tổ chức hoạt động góc. Tổ giáo vụ Mầm non – Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Thanh Trì cũng đã tổ chức cho giáo viên các trường mầm non được kiến tập hoạt động góc ở một số trường điểm trong huyện. Tuy nhiên, ở trường tôi năm học 2012-2013 số giáo viên trẻ mới vào nghề rất đông ( chiếm khoảng 60% tổng số giáo viên toàn trường) nên kiến thức, kỹ năng thiết kế nội dung chơi trong các góc của giáo viên còn hạn chế. Bên cạnh đó, để tổ chức tốt hoạt động góc cho trẻ đòi hỏi người giáo viên cần phải tâm huyết, phải có kế hoạch xây dựng, tổ chức, nắm bắt thực tế, đánh giá, điều chỉnh những nội dung chơi, kỹ năng chơi…cho trẻ phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Vì vậy có nhiều giáo viên còn ngần ngại chưa chú ý đến chất lượng tổ chức hoạt động, nhiều giáo viên khi tổ chức còn mang tính chất hình thức, đại khái, qua loa. Nếu thực tế này kéo dài thì đối với giáo viên sẽ mai một dần các kiến thức tổ chức hoạt động góc cho trẻ, đối với trẻ sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển toàn diện nhân cách.
Là một người hiệu phó phụ trách chuyên môn có lòng say mê, nhiệt huyết với nghề, tôi đã nhận thức được sâu sắc tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động góc đối với trẻ, góp phần hình thành nhân cách cho trẻ. Trong năm học qua, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm về vấn đề này. Thêm vào đó, tôi đã nắm bắt được một số giáo viên có tâm huyết, tích cực tìm tòi nâng cao chất lượng hoạt động góc cho trẻ ở lớp. Vì vậy, với mong muốn: “Việc nâng cao chất lượng hoạt động góc cho trẻ trở thành một phong trào phát triển mạnh mẽ trong trường mình”, tôi đã băn khoăn, trăn trở tìm ra các biện pháp thực hiện hiệu quả. Qua một năm tích cực nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng một số biện pháp hữu hiệu, tôi thấy chất lượng tổ chức hoạt động góc tại các lớp đã được nâng cao rõ rệt. Trẻ chơi với nội dung phong phú hơn, kỹ năng chơi thuần thục hơn, giống thật hơn. Giờ chơi tại các lớp mẫu giáo trong trường thực sự giống 1 xã hội thu nhỏ. Do đó, tôi xin mạnh dạn trao đổi cùng với chị em đồng nghiệp dưới dạng đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng hoạt động góc cho trẻ ở trường mầm non B xã Ngọc Hồi”
– Mục đích của đề tài này là:
+ Đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động góc cho trẻ của giáo viên ở trường mầm non B xã Ngọc Hồi.
+ Tìm ra hệ thống các biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động góc cho trẻ ở trường mầm non B xã Ngọc Hồi.
– Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các biện pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động góc cho trẻ .
– Phạm vi áp dụng: Giáo viên trường mầm non B xã Ngọc Hồi năm học 2012 – 2013.
PHẦN II- NỘI DUNG
1- CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Khi tham gia chơi trong các góc, trẻ không phải là thật mà là giả vờ nhưng cái giả vờ ấy của trẻ lại mang tính chất thật. Chẳng hạn trẻ giả vờ làm: “mẹ chăm con”: mẹ lo lắng khi con ốm, nói năng âu yếm.
Chơi góc là một hoạt động không nhằm tạo ra sản phẩm mà chỉ để thỏa mãn nhu cầu được chơi của trẻ. Trẻ chơi trong hoạt động góc là một hoạt động độc lập tự do và tự nguyện của trẻ: Trẻ tự nghĩ ra dự định và cũng tự mình tiến hành điều khiển trò chơi. Nội dung chơi của trẻ phản ánh cuộc sống hiện thực xung quanh. Bên cạnh đó, mặc dù chơi góc là hoạt động của trẻ nhưng vẫn cần có sự tổ chức, hướng dẫn của cô giáo.
Quyết định số lượng góc hoạt động và đó là những góc nào? Nói chung từ 5 – 6 góc đối với trẻ khối mẫu giáo, từ 3-4 góc đối với trẻ khối nhà trẻ là đủ. Những góc phổ biến nhất thường được coi là góc chính và được xếp cố định; đó là góc xây dựng – lắp ghép, góc học tập, sách truyện góc tạo hình. Những góc hay thay đổi là góc đóng vai theo chủ đề. Trẻ cần nhận ra từng góc hoạt động là gì và giới hạn của mỗi góc.
Số trẻ chơi ở mỗi góc căn cứ vào số lượng đồ chơi, không gian chơi và vật chất của từng góc cụ thể. Cần quan sát hoạt động của trẻ để biết loại đồ chơi nào trẻ thích chơi, trẻ vận dụng những kiến thức kỹ năng đã học tham gia vào trò chơi, thái độ trong khi chơi của trẻ.
Hằng ngày, cô nên tạo điều kiện cho trẻ được tự do lựa chọn các nhóm chơi và tham gia vào các trò chơi theo ý thích. Theo tài liệu hướng dẫn, tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục Mầm non – Mẫu giáo Bé ( 3-4 tuổi), Mẫu giáo Nhỡ ( 4-5 tuổi), Mẫu giáo Lớn ( 5-6 tuổi) và Nhà trẻ ( 3-36 tháng) cùng xuất bản tháng 10 năm 2009 có hướng dẫn chung về hoạt động vui chơi: “Nên khuyến khích trẻ được luân phiên tham gia vào các hoạt động vui chơi, nhóm chơi khác nhau, không nên để trẻ chơi một vai, chơi một mình hoặc hoạt động ở một nhóm nào đó quá lâu trong một tuần.”
- CƠ SỞ THỰC TIỄN:
– Trường mầm non B xã Ngọc Hồi nằm trên địa bàn xã Ngọc Hồi – Huyện Thanh Trì – Hà Nội. Ngọc Hồi là một xã đang trong thời kỳ đô thị hóa nên có nhiều biến động lớn, trẻ em được quan tâm nhiều hơn.
– Trường mầm non B xã Ngọc Hồi được tách ra trên cơ sở trường mầm non xã Ngọc Hồi. Trường được đầu tư kinh phí xây dựng một cơ sở khang trang, sạch đẹp và bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/09/2012. Đến tháng tháng 11/2012, trường đã đạt trường Chuẩn Quốc Gia mức độ 1 nên cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ đảm bảo những yêu cầu thiết yếu cho công tác chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ.
– Tổng số giáo viên trong trường là 20 đồng chí. Trong đó có: 04/20= 20% đồng chí có trình độ trên chuẩn, 16/20= 80% đồng chí có trình độ đạt chuẩn, 12/20 = 60% đồng chí đang theo học các lớp Đại học tại chức chuyên ngành Giáo dục mầm non, 04/20 = 20% đồng chí trên 35 tuổi, 16/20 = 80% đồng chí dưới 35 tuổi, 08/20 = 40% đồng chí tích cực tìm tòi nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động góc cho trẻ.
Với tình hình thực trạng như trên trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
2.1. Thuận lợi :
– Trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Huyện, xã, thôn đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng học tập.
– Ban giám hiệu nhà trường đầu tư, mua sắm trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi ngoài trời mầm non phục vụ hoạt động chăm sóc- gíao dục trẻ nói chung cũng như phục vụ hoạt động góc nói riêng ( Theo thông tư 02/2010/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục& Đào tạo về “ Danh mục Đồ dùng – Đồ chơi – Thiết bị dạy học tối thiểu dùng cho GDMN” ) như: Giá đồ chơi và đồ dùng, đồ chơi ở các góc….
– Khuôn viên trường lớp rộng, thoáng mát, đẹp phù hợp với trẻ mầm non.
– Có nhiều giáo viên trẻ yêu nghề, mến trẻ, có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhận thức đúng đắn về việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ.
– Phụ huynh rất quan tâm sưu tầm nguyên vật liệu cho giáo viên làm đồ dùng – đồ chơi tự tạo phục vụ việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ.
– Bản thân tôi là một cán bộ quản lý trẻ khoẻ, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm tổ chức hoạt động góc từ nhiều năm qua.
2.2. Khó khăn :
– Trường mới xây dựng, giáo viên phải trang trí môi trường lớp học từ đầu, việc chủ động thiết kế môi trường hoạt động góc cho trẻ của giáo viên còn hạn chế.
– Nhà trường có tham mưu với cấp trên đầu tư mua giá đồ chơi trong lớp mầm non nhưng giá đồ chơi được trang bị theo mức tối thiểu, số lượng ít, đồng loạt một kiểu không thể hiện được đặc thù của góc chơi. Đồ chơi chưa đáp ứng được nhu cầu chơi ở các góc theo chủ đề, lớp còn ít đồ dùng sáng tạo tự làm cho các góc chơi.
– 10/20 giáo viên mới tuyển vào trường chưa có kỹ năng tổ chức hoạt động góc cho trẻ. Giáo viên đôi khi còn ngại tổ chức cho trẻ chơi hoạt động góc.
– Kỹ năng trẻ thể hiện vai chơi chưa sâu, chưa nhập vai tốt.
– 65% phụ huynh làm ruộng nông nghiệp và không có nhiều thời gian nên đôi khi còn chưa chú trọng đến nhu cầu vui chơi, học tập của trẻ.
– Bản thân tôi là một cán bộ quản lý trẻ, kinh nghiệm quản lý còn hạn chế.
Xuất phát từ những cơ sở thực trạng trên của nhà trường, tôi đã trăn trở và tìm ra được hệ thống các biện pháp “Chỉ đạo giáo viên nâng cao chất lượng hoạt động góc cho trẻ ở trường mầm non B xã Ngọc Hồi” như sau:
3 – CÁC BIỆN PHÁP:
3.1 Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên tổ chức hoạt động góc cho trẻ.
Kế hoạch được ví như chiếc chìa khoá mở đường đi đến mục đích. Kế hoạch có tầm quan trọng đặc biệt. Nó như kim chỉ nam, có tác dụng chỉ đạo, chỉ đường cho hoạt động thực hiện theo một con đường đã định sẵn. Nó như ngọn đèn pha dẫn lối cho ta thực hiện công việc một cách khoa học.
Sau khi đã tiến hành điều tra cơ bản và khảo sát, tôi đã nhận định được điểm mạnh, điểm yếu của giáo viên trường mình trong việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ. Ngay từ đầu năm học, căn cứ vào kế hoạch triển khai nhiệm vụ năm học của Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội, Phòng giáo dục và đào tạo Huyện Thanh Trì, tôi đã xây dựng lịch trình trong cả năm học để sắp xếp công việc tuần tự, hợp lý, giúp cho bản thân chủ động trong công việc, đồng thời chỉ đạo thực hiện kế hoạch bồi dưỡng giáo viên, triển khai việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ có hiệu quả. Sau đây là kế hoạch mà tôi đã xây dựng và thực hiện:
Kết quả đạt được: Vì đã áp dụng, thực hiện biện pháp này từ đầu năm và xây dựng kế hoạch sát với tình hình thực tế nên khi thực hiện rất phù hợp, giúp tôi không bị động trong công việc. Với kế hoạch xuyên suốt trong năm học như vậy đã thực hiện trong từng học kỳ, từng tháng, từng tuần. Tôi có kế hoạch rõ ràng đối với từng lớp, từng giáo viên, nhằm đôn đốc thực hiện và kiểm tra, đồng thời là mốc để giáo viên có hướng phấn đấu. Việc xây dựng kế hoạch trong nhà trường đã thực sự là kim chỉ nam để người cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn và giáo viên cùng thực hiện kế hoạch cụ thể, rõ ràng, phù hợp với từng đối tượng giáo viên và khả năng của họ, đồng thời khắc phục dần những hạn chế ở đầu năm.
3.2 Biện pháp 2: Tổ chức bồi dưỡng về nhận thức, kiến thức, kỹ năng cho giáo viên trong việc tổ chức hoạt động góc .
Kế hoạch mặc dù đã xây dựng xong nhưng người trực tiếp làm đồ dùng – đồ chơi không phải là Ban giám hiệu, mà là đội ngũ giáo viên. Dù kế hoạch có hay đến mấy nhưng không tới tay giáo viên thì sẽ không bao giờ đạt kết quả tốt. Để công việc đạt kết quả tốt và diễn ra theo đúng kế hoạch thì việc trang bị nhận thức, kiến thức, kỹ năng thực hành tổ chức hoạt động góc cho trẻ của giáo viên là hết sức cần thiết. Ngay từ đầu năm học, thông qua các buổi học nhiệm vụ năm học, các buổi họp chuyên môn, tôi đã phổ biến cho tất cả giáo viên hiểu sự cần thiết của hoạt động góc trong công tác giáo dục trẻ về lý luận cũng như thực tiễn, từ đó nâng cao nhận thức cho giáo viên.
Khi giáo viên có nhận thức đúng đắn, muốn họ tổ chức hoạt động ở các góc giúp trẻ phát huy tính tích cực, tự lập, có kỹ năng chơi thuàn thục hơn, có khả năng sáng tạo hơn phải phụ thuộc rất lớn vào kiến thức, kỹ năng thực hành sáng tạo của người giáo viên. Vì vậy, tôi đã lựa chọn nội dung, hình thức, cách tiến hành bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng tổ chức hoạt động ở các góc chơi cho trẻ đối với giáo viên như sau:
* Nội dung bồi dưỡng:
– Nguyên tắc sắp xếp góc chơi cho trẻ hoạt động:
+.Chia diện tích phòng thành các góc hoặc các khu vực chơi khác nhau.
+ Bố trí góc chơi tĩnh ( tạo hình, sách…) xa các góc chơi động ( xây dựng, gia đình, bán hàng…)
+ Có góc cố định ( góc tạo hình, gia đình…), có góc di động hoặc thay đổi theo chủ đề trong thời gian đó.
+ Có ranh giới riêng giữa các góc ( sử dụng mảng tường, các giá, tủ để ngăn cách)
+ Có lối đi lại giữa các góc, đủ rộng cho trẻ di chuyển.
+ Bố trí bàn ghế, đệm, gối… phù hợp với từng góc
+ Đồ chơi, học liệu để mở, vừa tầm với của trẻ.
+ Đặt tên góc dễ hiểu đối với trẻ.
+ Sau mỗi chủ đề cần thay đổi cách bố trí và hoạt động ở các góc để tạo cảm giác mới lạ và hấp dẫn đối với trẻ.
+ Cho phép trẻ tham gia tổ chức góc chơi của mình.
– Xây dựng kế hoạch tổ chức góc chơi cho trẻ theo chủ đề, theo lứa tuổi:
Năm học 2012 – 2013, thực hiện theo sự chỉ đạo của Phòng Giáo dục- Đào tạo Huyện Thanh Trì, dựa trên đặc điểm tình hình của nhà trường, Ban giám hiệu và giáo viên đã thống nhất lựa chọn các chủ đề trong năm học cho khối Nhà trẻ 24-36 tháng (10 chủ đề): Bé và các bạn; Đồ dùng, đồ chơi của bé; Các bác, các cô trong nhà trẻ; Cây và những bông hoa đẹp; Những con vật đáng yêu; ngày tết vui vẻ; Mẹ và những người thân yêu của bé; Bé đi khắp nơi bằng PTGT gì; Mùa hè đến rồi; Bé đi mẫu giáo. Và các chủ đề trong năm học cho khối mẫu giáo (9 chủ đề) : Trường mầm non của bé; Bé và gia đình; Nghề nghiệp; Thế giới động vật; Tết và lễ hội mùa xuân; Thế giới thực vật; Phương tiện và quy định giao thông; Nước và các hiện tượng tự nhiên; Quê hương, Bác Hồ kính yêu.
Trong mỗi chủ đề cần lựa chọn 1 – 2 góc trọng tâm để rèn nếp, kỹ năng chơi của góc chơi đó. Khi tổ chức góc chơi cho trẻ, cần phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ ở từng độ tuổi, phù hợp với chủ đề đang thực hiện, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của trường, lớp.
( Kế hoạch hoạt động góc năm học 2012-2013 lớp MGL A1- Phụ lục 1)
– Một số điều kiện cơ sở vật chất để tổ chức hoạt động góc cho trẻ::
+ Giá đồ chơi ở các góc: Giá góc cửa hàng bách hóa, tủ bếp gia đình, tủ bác sỹ, giá góc tạo hình, giá góc sách truyện…
+ Đồ dùng, đồ chơi ở các góc: búp bê, bộ đồ chơi thiết bị bếp, bộ đồ chơi thiết bị bác sỹ….
+ Đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, tự làm: Cây xanh làm từ lõi ống chỉ, các loại PTGT làm bằng vỏ hộp, các con vật bằng vỏ hộp, thìa sữa chua…..
+ Mảng tường mở ở các góc: Góc sách truyện, góc học tập…
– Cách tổ chức hoạt động góc cho trẻ ( quy trình của hoạt động góc) :
+ Thỏa thuận trước khi chơi: Giáo viên chú ý hướng trẻ vào hoạt động vui chơi, đàm thoại rất ngắn gọn chủ yếu là giới thiệu những góc chơi trọng tâm, nhắc lại những ý tưởng của một vài góc chơi cũ.
+ Quá trình chơi: Giáo viên đi quan sát trẻ chơi. Khi nào cần thiết thì mới can thiệp vào trò chơi của trẻ, tránh phá vỡ những ý đồ chơi của trẻ đang được hình thành và phát triển trong tư duy. Giáo viên chỉ can thiệp khi trẻ không tham gia vào trò chơi nào hoặc khi trẻ gặp khó khăn trong thỏa thuận, hợp tác với bạn cùng chơi, khi trò chơi của trẻ trở thành đơn điệu, lặp đi lặp lại và khi trẻ yêu cầu. Lúc đó, giáo viên phải căn cứ vào tình hình cụ thể để giáo viên có thể: Chơi cạnh trẻ, chơi cùng trẻ hoặc dạy trẻ chơi.
+ Kết thúc chơi: Giáo viên đi nhận xét các góc chơi khác về các mặt như: Kỹ năng chơi, ý thức chơi, và nhắc trẻ cất dần đồ chơi và yêu cầu trẻ tập chung về nhóm chơi chính. Giáo viên lựa chọn một nhóm chơi chính trong tuần đó cùng cả lớp nhận xét, giáo viên quan tâm động viên trẻ.
+ Chú ý: Trong quá trình trẻ chơi giáo viên cần quan tâm đến:
> Địa điểm chơi, đồ dùng đồ chơi cho trẻ đầy đủ, phù hợp với các góc, phù hợp với chủ đề.
> Giành thời gian cho trẻ chơi, cân đối hài hòa các hoạt động.
> Tạo điều kiện cho trẻ chơi: Trẻ được tự do lựa chọn góc chơi, trẻ được chơi theo ý thích của trẻ, trẻ tự thể hiện và sáng tạo vai chơi.
> Cần lần lượt thay đổi trẻ chơi ở các nhóm trọng tâm để đến hết một năm học trẻ đều được chơi ở tất cả các góc.
> Chú ý để phát huy tính tích cực, tự lập và óc sáng tạo của trẻ, cần gợi ý, quan tâm đến nội dung chơi của trẻ, hướng dẫn trẻ đồng thời giúp trẻ mở rộng liên kết vai chơi.
* Hình thức bồi dưỡng:
– Tự bồi dưỡng: Phân chia theo khả năng của giáo viên về 2 nhóm để tự nghiên cứu qua sách báo, tài liệu, mạng Internet:
+ Nhóm 1: Nghiên cứu về cách tổ chức hoạt động góc cho trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng.
+ Nhóm 2: Nghiên cứu về về cách tổ chức hoạt động góc cho trẻ Mẫu giáo
– Trao đổi, học tập qua các buổi họp chuyên môn, qua các buổi tọa đàm.
– Tham quan, kiến tập môi trường lớp học, cách bố trí góc chơi, cách tổ chức cho trẻ chơi ở các góc, sưu tầm các đồ dùng – đồ chơi của trường bạn.
– Tổ chức hội thi: Xây dựng môi trường lớp học thân thiện, triển lãm đồ dùng – đồ chơi cấp Trường.
* Cách làm cụ thể:
Do đặc thù của bậc học mầm non mang tính chất giáo dục gia đình, trẻ đến trường được cô chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục như người mẹ hiền của trẻ ở nhà, ở bất cứ một hoạt động nào của trẻ trong ngày cũng phải có cô.
Chính vì vậy mà muốn bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên hay sinh hoạt chuyên môn hàng tuần cho 100% giáo viên trong 1 ngày là rất khó khăn. Đứng trước đặc thù đó, công tác bồi dưỡng chuyên môn – nghiệp vụ của trường mầm non B xã Ngọc Hồi được thực hiện bằng cách làm như sau:
– Các buổi bồi dưỡng qua họp chuyên môn được tổ chức vào các buổi chiều hồi 15h (Sau khi trẻ ăn quà chiều xong cùng với sự hỗ trợ của các đồng chí cô nuôi).
+ Địa điểm: Hội trường trường MN B xã Ngọc Hồi.
+ Mỗi nội dung bồi dưỡng đều được thực hiện ở hai buổi, giáo viên các lớp sẽ chia làm 2 nhóm để luân phiên tham gia.
– Bồi dưỡng chuyên môn qua các buổi toạ đàm sẽ được bố trí, sắp xếp vào cùng những ngày họp hội đồng sư phạm nhà trường (Ngày thứ năm của tuần 1 hàng tháng)
(Hình ảnh minh hoạ ở phần phụ lục 2a)
Với cách làm này, 100% giáo viên đều được dự bồi dưỡng mà không ảnh hưởng đến các hoạt động trong ngày của trẻ.
Kết quả đạt được:
– Trong năm học 2012 – 2013, Ban giám hiệu trường mầm non B xã Ngọc Hồi chúng tôi đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn – nghiệp vụ về cách tổ chức hoạt động góc cho trẻ đối với giáo viên là 4 buổi, vào tuần 02 tháng 9 và tuần 2 + tuần 4 tháng 10/2012.
– Giáo viên đã nắm bắt được tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ trong trường mầm non.
– Giáo viên đã nắm được nguyên tắc sắp xếp góc chơi cho trẻ hoạt động; quy trình tổ chức hoạt động góc cho trẻ, xây dựng kế hoạch hoạt động góc cho trẻ phù hợp chủ đề, lứa tuổi
3.3 Biện pháp 3: Tạo điều kiện trang bị về tài liệu, nguyên vật liệu, thiết bị đồ dùng, đồ chơi và kinh phí cho giáo viên tổ chức hoạt động góc.
Do những đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu làm đồ dùng – đồ chơi không phải hoàn toàn sưu tầm được, có những vật liệu phải mua mới có, nếu để giáo viên bỏ tiền túi ra mua thì thật khó khăn cho họ vì đồng lương thu nhập còn ít ỏi, dần dần họ sẽ chán nản, việc tổ chức hoạt động góc cho trẻ hiệu quả sẽ không cao. Vì vậy, việc trang bị về nguyên vật liệu, thiết bị đồ dùng, đồ chơi và kinh phí phục vụ cho giáo viên tổ chức hoạt động góc sẽ tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích giáo viên hăng hái tham gia.
Căn cứ vào kết quả điều tra về: Chương trình dạy, đồ dùng giáo dục, kiến thức – kỹ năng tổ chức các góc chơi của giáo viên trường mình; căn cứ vào kế hoạch tổ chức các hội thi, tôi đã đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch trích một phần kinh phí để trang bị bổ sung thêm tài liệu, nguyên vật liệu, thiết bị đồ dùng, đồ chơi để giáo viên tổ chức hoạt động góc cho trẻ trong tháng 8 đầu năm học như sau: Hình ảnh đồ chơi tự tạo mầm non
– Nguyên vật liệu, đồ dùng để làm các đồ dùng – đồ chơi mầm non tự tạo: Giấy màu, xốp màu, bạt, tấm nhựa ốp trần, tôn, nến dính, băng dính, ráp dính, súng bắn nến, kéo, hồ dán, bìa cứng, giấy A4 – A3, đề can màu, mica, màu nước, màu sáp, sơn xịt …
– Trang thiết bị đồ dùng ở các góc chơi: Giá đồ chơi các góc, bộ đồ chơi góc bác sỹ, nấu ăn, bán hàng, xây dựng…
– Tài liệu có liên quan đến cách tổ chức hoạt động ở các góc chơi cho trẻ ( Báo, tập san, sách hướng dẫn …)
– Cấp nguồn kinh phí hỗ trợ thêm cho các lớp khi tham gia các hội thi.
– Vận động phụ huynh ủng hộ tự nguyện giá đồ chơi, bàn góc, hàng rào xây dựng cho các lớp.( Trên địa bàn xã Ngọc Hồi có 2 cơ sở tư nhân sản xuất thiết bị đồ dùng, đồ chơi mầm non, cả 2 chủ cơ sở sản xuất là phụ huynh học sinh nhà trường)
Nguồn: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/hoatdonggoc
Biện pháp phòng và chống tai nạn thương tích
Biện pháp phòng và chống tai nạn thương tích
ĐẶT VẤN ĐỀ
“Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”
Trẻ em là hạnh phúc mỗi gia đình là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Bác Hồ vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc Việt Nam, suốt đời mình hết lòng chăm lo cho thế hệ trẻ. Bác đã dành cho trẻ em những tình cảm yêu thương vô bờ. Mỗi lần đi thăm nhà trẻ, gặp gỡ các cô nuôi dạy trẻ Bác thường nhắc nhở “ Phải giữ vệ sinh cho các cháu, các cô phải học hành tốt, nuôi dạy các cháu ngoan và khỏe” Bác đã chỉ thị cho ngành giáo dục Mầm non “ Muốn cho người mẹ sản xuất tốt, cần tổ chức tốt những nơi giữ trẻ”. Trường Mầm non là nơi Chăm sóc – Nuôi dưỡng -Giáo dục trẻ ngay từ 18 tháng đến 72 tháng. Thời gian trẻ ở trường mầm non còn nhiều hơn thời gian trẻ ở nhà với gia đình. Trẻ có được an toàn, tránh được các tai nạn thương tích (TNTT) và phát triển toàn diện hay không là phụ thuôc rất nhiều vào các điều kiên phục vụ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của các trường Mầm non.
Bởi vì lứa tuổi mầm non là lứa tuổi kỳ diệu, trẻ vô cùng hiếu động, tò mò, ham hiểu biết và luôn sử dụng mọi giác quan để khám phá thế giới xung quanh trẻ. Ở lứa tuổi này trẻ còn quá non nớt để tự bảo vệ mình, nên các nguy cơ xẩy ra tai nạn với trẻ là rất cao, nếu như thiếu sự quan tâm, định hướng đúng đắn của người lớn hoặc các điều kiện cơ sở vật chất để chăm sóc giáo dục trẻ không đảm bảo an toàn. Vì vậy, khi vui chơi, trong sinh hoạt rất dễ xảy ra tai nạn thương tích như: Rách da, tổn thương phần mềm, gãy xương. Những tai nạn này sẽ để lại những hậu quả không tốt cho trẻ. Nếu thương tích nặng, trẻ sẽ bị mất máu, tinh thần hoảng loạn. Vết thương vào mắt rất nguy hiểm: có thể gây mù. Vết thương gãy xương,đều nguy hại đến tính mạng trẻ. Tuy nhiên phần lớn các tai nạn trên đều có thể phòng tránh được nếu cha, mẹ, cô giáo và mọi người trong cộng đồng xác định được căn nguyên, nâng cao nhận thức, xây dựng cộng đồng an toàn cho trẻ.
Hiện nay TNTT của trẻ em đang trở lên báo động ngay cả ở những quốc gia có nền kinh tế rất phát triển. Mỗi năm trên toàn cầu có khoảng 830.000 trẻ em tử vong do tai nạn thương tích, tương đương với 2000 trẻ mỗi ngày. vì vậy chúng ta cần chú trọng nghiêm túc vấn đề này. Mà môi trường an toàn là những nơi trẻ sống, vui chơi và không có các nguy cơ xảy ra các tai nạn, là nơi mà ở đó giảm thiểu các tác hại đến sức khoẻ nhưng lại có khả năng giúp cơ thể trẻ tăng cường các khả năng phòng tránh các TNTT có thể xảy ra. Để trẻ được an toàn chúng ta phải tạo được môi trường an toàn cho trẻ. Phòng tránh những TNTT thường gặp. Phòng tránh các dị vật ở tai, mũi, họng. Phòng tránh tai nạn do ngộ độc. Phòng tránh đuối nước, cháy bỏng- điện giật, tai nạn giao thông, động vật cắn. Hiện nay có gần 140 ngàn trẻ em từ 0- 6 tuổi được chăm sóc tại các trường mầm non, chiếm khoảng 80% trẻ em trong độ tuổi.
Vì vậy việc đảm bảo an toàn, phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở trong các trường mầm non. Trước những hậu quả đáng báo động về tai nạn thương tích như vậy, nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và hoạt động thiết thực để góp phần giảm thiểu tai nạn thương tích ở trẻ như: Chính sách quốc gia về phòng chống tai nạn thương tích trẻ em (2001 – 2010), Quy định của bộ y tế về triển khai cộng đồng an toàn trên toàn quốc (2006). Ngày 15/4/2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra thông tư 13/2011/TT-BGD&ĐT về ban hành qui định về xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT trong cơ sở giáo dục Mầm non.
Với tránh nhiệm của phó hiệu trưởng phụ trách công tác chăm sóc nuôi dưỡng trong trường mầm non tôi đã nhận thức được việc phải xây dựng môi trường an toàn và phòng tránh TNTT cho trẻ là rất quan trọng và cần thiết. Với mong muốn 100% trẻ của trường mầm non B Thị trấn Văn Điển được an toàn mọi lúc mọi nơi, không có TNTT xảy ra với trẻ. Và tôi xin mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm với chị em đồng nghiệp dưới dạng sáng kiến kinh nghiệm “Các biện pháp chỉ đạo giáo viên, nhân viên xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm nonB Thị trấn Văn Điển ” để nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong nhà trường.
* Mục đích của đề tài:
– Đánh giá thực trạng của công tác đảm bảo an toàn, phòng, chống TNTT cho trẻ ở trường mầm non B Thị trấn Văn Điển
– Tìm ra hệ thống các biện pháp chỉ đạo phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non B Thị trấn Văn Điển.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
– Các biện pháp chỉ đạo giáo viên, nhân viên xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT cho trẻ ở trường mầm non B
* Phạm vi áp dụng:
– Tại trường mầm non B Thị trấn Văn Điển năm học 2013- 2014
Trường học an toàn, phòng, chống TNTT là trường học mà các yếu tố nguy cơ gây TNTT cho trẻ, được phòng, chống và giảm tối đa hoặc loại bỏ. Toàn bộ trẻ em trong trường được chăm sóc, nuôi dạy trong một môi trường an toàn. Quá trình xây dựng trường học an toàn phải có sự tham gia của trẻ em độ tuổi mầm non, các cán bộ quản lý, giáo viên của nhà trường, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể của địa phương và các bậc phụ huynh của trẻ.
Tai nạn thương tích là những sự kiện xảy ra bất ngờ ngoài ý muốn do các tác nhân bên ngoài gây nên thương tích cho cơ thể. Thương tích là những tổn thương thực tế của cơ thể do phải chịu tác động đột ngột ngoài khả năng chịu đựng của cơ thể hoặc rối loạn chức năng do thiếu yếu tố cần thiết cho sự sống.
Tai nạn thương tích đang là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại các bệnh viện. Mà nguyên nhân phần lớn là do sự bất cẩn và kém hiểu biết của người lớn. Nhà nước ta đã đầu tư rất nhiều kinh phí và thời gian cho vấn đề tuyên truyền và tập huấn về phòng tránh TNTT cho trẻ tới tất cả các ban ngành liên quan đến vấn đề an toàn của trẻ. Những lỗ lực trên của nhà nước và xã hội đã góp phần giảm thiểu TNTT ở trẻ em. Tuy nhiên cần phải có một chương trình hành động dựa trên việc xây dựng chiến lược can thiệp có hiệu quả về phòng TNTT cho trẻ em .
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ “Phòng chống tai nạn thương tích – đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ” chúng tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau
– Trường mầm non B Thị trấn Văn Điển nằm ở trung tâm Thị trấn Văn Điển là đơn vị đang trong thời kỳ đô thị hóa nên có nhiều biến động lớn, trẻ em được quan tâm nhiều hơn.
– Toàn trường có 01 khu với 11 lớp học, các lớp đảm bảo đủ ánh sáng, thoáng mát, sạch sẽ, an toàn cho trẻ. Có đầy đủ đồ dùng dạy học, đồ chơi cho các hoạt động học tập và vui chơi của trẻ, có công trình vệ sinh sạch sẽ đúng quy định, đủ nước sạch phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ.
– Toàn trường có 57 đồng chí cán bộ, giáo viên, nhân viên (CB – GV- NV), trong đó: Ban giám hiệu có 3 đồng chí, giáo viên có 36 đồng chí, cô nuôi có 12 đồng chí, 01 nhân viên y tế, 01 nhân viên văn thư, 01 nhân viên kế toán, 03 nhân viên bảo vệ.
– Số trẻ toàn trường là 540 cháu/11 lớp. Trong đó có 87 cháu nhà trẻ và 453 cháu mẫu giáo.
– Trường có phòng y tế riêng, trang thiết bị y tế tương đối đầy đủ.
– Đã có nhân viên y tế có trình độ chuyên môn trung cấp y, phụ trách công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
– 11 lớp học, các lớp đảm bảo đủ ánh sáng, thoáng mát, sạch sẽ, an toàn cho trẻ. Có đầy đủ đồ dùng dạy học, đồ chơi cho các hoạt động học tập và vui chơi của trẻ, có công trình vệ sinh sạch sẽ đúng quy định, đủ nước sạch phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ.
– Có phòng y tế riêng, trang thiết bị y tế tương đối đầy đủ.
– Đã có nhân viên y tế có trình độ chuyên môn cao đẳng y, phụ trách công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
– Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, quan tâm đến trẻ và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
– Phụ huynh học sinh có ý thức phối hợp tốt cùng nhà trường trong việc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ.
– Ban giám hiệu luôn đoàn kết thống nhất với nhau trong mọi công việc, có sáng kiến kinh nghiệm mầm non trong công tác quản lý.
– Trường được xây 3 tầng với tổng diện tích hơn 900 m2 chật trội nên ảnh hưởng không nhỏ đến không gian hoạt động của trẻ và đó cũng là nguy cơ gây TNTT cao.
– Kỹ năng phòng tránh và sử lý các TNTT cho trẻ của giáo viên đôi khi còn chưa linh hoạt.
– Nhân viên y tế chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế về chăm sóc sức khỏe và kỹ năng xử trí các TNTT do chuyên môn không được cọ sát thường xuyên như ở bệnh viện.
– Bản thân kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng trường học an toàn và phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ còn hạn chế.
Căn cứ vào thực trạng và các điều kiện thuận lợi khó khăn trên của nhà trường, tôi luôn trăn trở và đã tìm ra một số biện pháp phòng tránh các tai nạn thương tích cho trẻ trong nhà trường như sau:
- Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch “Xây dựng trường học an toàn và phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ” .
Kế hoạch được ví như chìa khóa mở đường đi đến mục đích. Kế hoạch có tầm quan trọng đặc biệt, nó như kim chỉ nam, có tác dụng chỉ đạo chỉ đường cho hoạt động thực hiện theo một con đường đã định sẵn. Nó như ngọn đèn pha dẫn lối cho chúng ta thực hiện công việc một cách khoa học.
Vì vậy, nếu xây dựng được kế hoạch coi như ta đã thành công được một nửa công việc.
Nhìn vào tình hình thực trạng của nhà trường, cũng như những vấn đề TNTT xảy ra ở Việt Nam. Tôi đã nhận định được những điểm mạnh và những điều còn hạn chế, trong vấn đề phòng, chống TNTT cho trẻ trong trường mình. do vậy ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo GV- NV nhà trường thực hiện công tác xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT cho trẻ với mục tiêu như sau:
* Mục tiêu:
– Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho CB-GV-NV, phụ huynh và học sinh, từ đó thay đổi hành vi nếp sống phù hợp để hạn chế những TNTT, chú trọng phòng chống tai nạn giao thông, bạo lực, đuối nước giảm tối đa tỉ lệ TNTT trong và ngoài trường.
– Đảm bảo 100% CB-GV-NV của nhà trường được tập huấn kiến thức và kỹ năng phòng, chống TNTT.
– 100 % trẻ được đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và tinh thần. Không xảy ra TNTT, không xảy ra ngộ độc thực phẩm (đặc biệt chú ý phòng chống các tại nạn đối với trẻ như đuối nước, hóc, sặc, bỏng)
– Xây dựng quy chế trường học an toàn.
– Xây dựng môi trường học tập an toàn, “Xanh – Sạch – Đẹp”.
* Kết quả: Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường tôi đã xây dựng được lịch trình kế hoạch chỉ đạo xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thươngtích cho trẻ năm học 2013- 2014 như sau:
LỊCH TRÌNH KẾ HOẠCH CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC AN TOÀN, PHÒNG, CHỐNG TAI NẠN THƯƠNG TÍCH CHO TRẺ
Năm học 2013- 2014
Thời gian thực hiện | Nội dung thực hiện | Người
thực hiện |
Tháng
9,10/2013 |
– Thành lập Ban chỉ đạo chăm sóc sức khoẻ, phòng, chống TNTT của nhà trường.
– Xây dựng quy chế trường học an toàn. – Xây dựng kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT cho trẻ năm học 2013-2014. – Chỉ đạo giáo viên rà soát loại bỏ các đồ dùng, đồ chơi trong lớp có nguy cơ gây TNTT cho trẻ, giáo viên bổ xung các biển cấm ở các ổ điện tại lớp. – Kiểm tra các loại đồ chơi ngoài trời hỏng, bong sơn, long ốc .gây mất an toàn cho trẻ. Báo cáo Ban giám hiệu để xây dựng kế hoạch sửa chữa kịp thời. – Ký kết hợp đồng thực phẩm với các cơ sở đáng tin cậy đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) cho trẻ. – Xây dựng lịch phân công giáo viên kiểm tra thực phẩm hàng ngày. – Chỉ đạo cân, đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ lần I tháng 9. Cân, đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi và trẻ có cân nặng cao hơn so với độ tuổi tháng 10. – Liên hệ với Trung tâm y tế Thanh Trì mời Bác sĩ về trường khám sức khỏe cho trẻ lần 1 và tập huấn kiến thức và kỹ năng thực hành về phòng, chống TNTT cho đội ngũ CB-GV-NV. – Duyệt bổ sung thuốc, các dụng cụ sơ cấp cứu y tế cho các phòng y tế. – Chỉ đạo CB-GV-NV thực hiện tốt, thường xuyên công tác vệ sinh môi trường (VSMT) học tập cho trẻ. – Chỉ đạo giáo viên rèn các nề nếp, thói quen vệ sinh cá nhân và vệ sinh văn minh cho trẻ. |
– Hiệu trưởng
– Ban chỉ đạo – Giáo viên
– Nhân viên y tế.
– Hiệu trưởng
– Hiệu phó nuôi dưỡng – Nhân viên y tế + Giáo viên
– Hiệu phó nuôi dưỡng
– Hiệu trưởng
– 100% CB- GV-NV
– Giáo viên
|
Tháng 11,12/2013
|
– Chỉ đạo CB-GV-NV duy trì tốt nề nếp VSMT. Quan tâm chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong những ngày thời tiết giao mùa. Tuyên truyền phối hợp với phụ huynh để phòng dịch cho trẻ, nhất là bệnh đường hô hấp, dịch sốt xuất huyết, sốt phát ban, dịch sởi …hay xảy ra trong thời tiết giao mùa.
– Chỉ đạo giáo viên tiếp tục rèn các nề nếp, thói quen vệ sinh cá nhân và vệ sinh văn minh cho trẻ như: Thói quen rửa tay bằng xà phòng, xúc miệng nước muối… Phối hợp với phụ huynh chăm sóc sức khỏe cho trẻ suy dinh dưỡng và trẻ có cân nặng cao hơn so với độ tuổi. – Chỉ đạo cân, đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi và trẻ có cân nặng cao hơn so với độ tuổi tháng 11. Cân đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ lần II tháng 12. – Phòng chống tai nạn gây chấn thương: Thường xuyên kiểm tra chắn song cửa sổ, cửa kính, cửa ra vào và đồ chơi ngoài trời kịp thời báo cáo để khắc phục, sửa chữa ngay. – Tổ chức học tập thực hành sơ cấp cấp cứu tại trường cho giáo viên về cầm máu khi trẻ bị chảy máu cam, chầy sước, bỏng, sặc. – Thực hiện nghiêm túc sổ nhật ký theo dõi sức khỏe trẻ hàng ngày, sổ gửi thuốc yêu cầu phụ huynh ghi rõ thời gian uống, liều dùng, có đầy đủ chữ ký.
|
– 100%
CB- GV-NV
– Giáo viên
– Nhân viên y tế + Giáo viên
– Nhân viên y tế.
– Nhân viên y tế hướng dẫn. – Nhân viên y tế.
|
Tháng
1,2/2011
|
– Chỉ đạo CB-GV-NV tiếp tục duy trì tốt nề nếp VSMT trước và sau tết Nguyên đán. Tuyên truyền phối hợp với phụ huynh cùng quan tâm chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong những ngày trời rét đậm như: Mặc đủ ấm, đi tất, trải xốp nền nhà, đóng cửa hướng gió lùa…để phòng dịch, bệnh cho trẻ, nhất là bệnh đường hô hấp, bệnh tiêu chảy cấp hay xảy ra trong mùa đông.
– Thường xuyên kiểm tra các lớp, sân chơi để phát hiện các đồ dùng, đồ chơi trong lớp, đồ chơi ngoài trời có nguy cơ gây TNTT cho trẻ, có biệp pháp loại bỏ, sửa chữa xử lý kịp thời. – Chỉ đạo cân, đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi và trẻ có cân nặng cao hơn so với độ tuổi tháng 1. Cân đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ lần III tháng 2. – Tăng cường kiểm tra đột xuất VSATTP, quy trình chế biến theo dây truyền bếp một chiều của các bếp và VSMT của các khu. Kiểm tra nề nếp giao nhận thực phẩm hàng ngày, kểm tra kỹ chất lượng thực phẩm trong thời gian giáp tết và sau tết. Tránh nhận phải các loại thực phẩm tồn đọng trong dịp tết. Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. – Phòng tránh cháy nổ: Hợp đồng với nhân viên sửa chữa điện nước thường xuyên kiểm tra các đồ dùng thiết bị điện ở tất cả các khu vực, hệ thống bếp ga, để kịp thời xử lý những thiết bị hư hỏng để tránh gây TNTT cho cô và trẻ. Mời Công an viên về tập huấn, thực hành các biện pháp phòng chống cháy nổ cho CB-GV-NV của trường. – Phòng chống ngộ độc, phòng bỏng cho trẻ: Kiểm tra chất liệu đồ dùng, đồ chơi làm từ nguyên liệu không gây độc cho trẻ. Trước khi cho trẻ ăn, uống phải kiểm tra độ nóng của thức ăn mới đựơc mang vào lớp và cho trẻ ăn. |
– 100%
CB- GV-NV
– Nhân viên y tế.
– Nhân viên y tế + Giáo viên
– Ban chỉ đạo + Các thành viên tham gia giao nhận thực phẩm.
– Ban chỉ đạo- 100% CB- GV-NV
– Nhân viên nuôi dưỡng + Giáo viên
|
Tháng
3,4/2014
|
– Chỉ đạo GV-NV tiếp tục duy trì tốt nề nếp VSMT và phòng chống dịch cho trẻ. Phối hợp với phụ huynh chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong những ngày thời tiết giao mùa, mặc trang phục phù hợp với thời tiết hàng ngày, quan tâm đến sức khỏe trẻ sau khi hoạt động mạnh trong những ngày có nắng mới.
– Chỉ đạo giáo viên tổ chức tốt bữa ăn, giấc ngủ, đảm bảo đủ nước cho trẻ uống theo yêu cầu. Kiểm tra an toàn cho trẻ trước, trong giờ ăn, giờ ngủ cho trẻ. – Chỉ đạo cân, đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi và trẻ có cân nặng cao hơn so với độ tuổi tháng 3. Cân đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ lần IV tháng 4. – Tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra VSMT , VSATTTP và việc lưu nghiệm thức ăn hàng ngày của các bếp.
|
– 100%
CB- GV-NV
– Giáo viên
– Nhân viên y tế + Giáo viên
– Ban chỉ đạo |
Tháng 5/2014
|
– Chỉ đạo CB-GV-NV tiếp tục duy trì tốt nề nếp VSMT và phối hợp với phụ huynh chăm sóc sức khỏe, phòng các dịch, bệnh và tai nạn thường gặp trong dịp hè trong mùa hè như: Đuối nước. – Tiếp tục giáo dục trẻ vệ sinh cá nhân,vệ sinh thân thể, các hành vi vệ sinh văn minh – Chỉ đạo cân, đo vào biểu đồ tăng trưởng cho trẻ suy dinh dưỡng, trẻ thấp còi và trẻ có cân nặng cao hơn so với độ tuổi. Tổng hợp kết quả cân đo cuối năm báo cáo phòng Giáo dục. – Chỉ đạo nhân viên y tế rà soát các loại thuốc , bổ sung các loại thuốc hết, loại bỏ các loại thuốc quá hạn sử dụng. – Tập hợp thống kê số liệu, đánh giá kết quả đã đạt được, chưa đạt được để rút kinh nghiệm. Tự đánh giá 68 nội dung của bảng kiểm trường học an tòa, phòng, chống TNTT của nhà trường năm học 2010-2011. Báo cáo kết quả về phòng giáo dục.
|
– 100% CB- GV-NV
– Giáo viên
– Nhân viên y tế + Giáo viên
– Nhân viên y tế.
– Ban chỉ đạo
|
- Biện pháp 2: Bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên, nhân viên kiến thức, kỹ năng cơ bản để phòng chống và xử trí các tình huống khi tai nạn xảy ra:
Bồi dưỡng những kiến thức, kỹ năng cơ bản về phòng, chống và xử lý các tình huống khi tai nạn xảy ra cho đội ngũ giáo viên, nhân viên có tầm quan trọng đặc biệt. Giáo viên, nhân viên là lực lượng trực tiếp thực hiện mọi hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trong trường mầm non. Hơn ai hết giáo viên, nhân viên phải là người nắm vững những kiến thức, kỹ năng cơ bản về phòng, chống và xử lý các tình huống khi tai nạn xảy ra với trẻ để thực hiện tốt công tác của mình. Nếu giáo viên, nhân viên không được bồi dưỡng thường xuyên thì không thể có kiến thức và khó xử trí được các tình huống khi tai nạn xảy ra với trẻ.
Vì vậy với cương vị là phó hiệu trưởng, phó ban chỉ đạo chăm sóc sức khoẻ, phòng, chống TNTT của nhà trường. Tôi đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cơ bản về phòng, chống và xử lý các tình huống khi tai nạn xảy ra cho đội ngũ giáo viên, nhân viên trong trường ngay từ đầu năm học như sau:
*Mục đích:
– Để giáo viên có được những kinh nghiệm, kỹ năng về phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ.
– Giúp giáo viên có được ý thức đề phòng, kiểm tra các yếu tố nguy cơ xẩy ra tai nạn một cách thường xuyên, để có biện pháp khắc phục kịp thời, có hiệu quả.
– Xác định được các nguyên nhân chủ quan và khách quan xảy ra tai nạn cho trẻ, để từ đó tìm ra các biện pháp khắc phục, giải quyết hữu hiệu.
– Giúp giáo viên có kiến thức sâu rộng về một số loại dịch bệnh cũng như một số tai nạn thường xẩy ra với trẻ.
* Nội dung bồi dưỡng:
– Hiểu về môi trường an toàn đối với trẻ mầm non.
– Phòng tránh các tai nạn thương tích thường gặp.
– Phòng tránh các dị vật ở tai mũi họng.
– Phòng tránh tai nạn do ngộ độc.
– Phòng chống đuối nước cho trẻ.
– Phòng chống cháy, nổ, bỏng, điện giật.
– Phòng tránh tai nạn giao thông.
– Phòng tránh động vật cắn.
* Hình thức bồi dưỡng:
– Nhà trường mua các cuốn tài liệu có liên quan đến xây dựng môi trường an toàn, phòng, chống, xử trí các TNTT thường gặp, phô tô các tài liệu của Trung tâm y tế, phô tô các văn bản chỉ đạo của ngành, phô tô các bài viết tuyên truyền phòng, tránh các dịch bệnh cho 100% CB-GV-NV tự nghiên cứu và học tập.
– Tạo diều kiện cho nhân viên y tế, giáo viên, nhân viên nuôi dưỡng, nhân viên bảo vệ tham gia đầy đủ đúng thành phần các lớp tập huấn về: Phòng, chống TNTT trong trường học; công tác VSATTP; công tác y tế, vệ sinh học đường; công tác phòng cháy chữa cháy; công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Do ngành học, Trung tâm y tế và Ủy ban nhân dân huyện, xã tổ chức.
– Ban Giám hiệu mời chuyên viên Y tế về trường bồi dưỡng kiến thức, thực hành về phòng, chống và xử trí các tai nạn thường gặp cho 100% CB-GV-NV.
– Tổ chức các buổi tọa đàm về các nội dung của quy chế xây dựng trường học an toàn của nhà trường. Đưa ra các tình huống tai nạn thương tích từ đơn giản đến phức tạp thường xảy ra trong nhà trường để giáo viên nghiên cứu, suy nghĩ, trao đổi và rút kinh nghiệm, tìm hướng giải quyết.
– Tổ chức thi quy chế chăm sóc nuôi dạy trẻ (vừa lý thuyết vừa thực hành) một lần/năm.
– Phân công nhân viên y tế nghiên cứu các nội dung về công tác chăm sóc sức khỏe, xử trí các tai nạn thường gặp gặp như: Bỏng nước sôi, điện giật, hóc, sặc, gẫy tay, gẫy chân, ngạt nước, chảy máu, choáng, gió… Mỗi tháng một chuyên đề trực tiếp bồi dưỡng cho giáo viên thực hành trên búp bê, ghép vào các buổi họp Hội đồng sư phạm hàng tháng của nhà trường.
* Kết quả đạt được:
– Nhà trường đã mua và phô tô nhiều tài liệu liên quan đến xây dựng môi trường an toàn, phòng, chống, xử trí các TNTT thường gặp phát cho 100% các lớp, các bếp để giáo viên, nhân viên nghiên cứu và học tập.
– Ban giám hiêu đã tạo điều kiện cho 100% CB-GV-NV tham gia lớp tập huấn công tác VSATTP và xét nghiệp phân vi sinh do Trung tâm y tế huyện Thanh Trì tổ chức ngày 10/12/2013
– Tạo điều kiện cho đồng chí trong BGH, 2 đồng chí bảo vệ, 2 cô nuôi và 3 đồng chí giáo viên tham gia lớp tập huấn phòng cháy chữa cháy do Công an Huyện Thanh Trì tổ chức ngày 5/12/2013.
– Ngày 3/1/2013 nhà trường đã mời đồng chí giảng viên phòng CSPCCC về tập tuấn công tác phòng cháy chữa cháy trong trường mầm non, tập huấn thực hành một số kỹ năng phòng chống cháy nổ trong trường MN.
– Đồng chí nhân viên y tế đã tổ chức bồi dưỡng thực hành được 05 chuyên đề về xử trí TNTT thường gặp, tại các buổi sinh hoạt chuyên môn và họp Hội đồng sư phạm.
– 100% giáo viên hưởng ứng tham gia học tập tích cực và rút ra được nhiều kinh nghiệm chăm sóc và đảm bảo an toàn cho trẻ.
– 100% giáo viên đã nắm được kiến thức, kỹ năng cơ bản về cách phòng chống và xử lý các loại dịch bệnh cũng như một số các tai nạn thường xẩy ra với trẻ.
Hình ảnh : Tập huấn trang bị kiến thức về công tác PCCC trong trường mầm non
Hình ảnh: Tập huấn một số kỹ năng PCCC trong trường MN
Hình ảnh: Tập huấn thực hành về kỹ năng xử lý TNTT trong trường MN
- Biện pháp 3: Tổ chức công tác tuyên truyền phòng, chống TNTT cho trẻ với nhiều hình thức và nội dung thiết thực.
Công tác tuyên truyền có vai trò rất to lớn đối với việc thực hiện thành công hay không thành công của một hoạt động nào đó trong trường mầm non. Tuyên truyền nhằm làm cho đông đảo nhân dân, phụ huynh cộng đồng xã hội hiểu rõ về mục đích của một hoạt động hoặc một chương trình nào đó trong trường mầm non và ý thức cùng phối hợp với nhà trường để thực hiện. Chính vì
vậy mà trường mầm non cần phải làm tốt công tác tuyên truyền.
Trên thực tế nhìn chung nhân dân biết rất ít về kiến thức và các kỹ năng thực hành công tác phòng, chống TNTT cho trẻ. Muốn nhân dân, cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội trên địa bàn hiểu được tầm quan trọng của công tác phòng, chống TNTT cho trẻ. Thì trường mầm non phải “ Tự mình nói về mình” bằng nhiều hình thức tuyên truyền tốt, khéo léo, rõ ràng, rộng rãi, với nhiều hình thức, thì công tác tuyên truyền sẽ đạt hiệu quả tốt. Qua đó sẽ thu hút được nhiều trẻ đến trường, nhận được nhiều sự quan tâm ủng hộ của nhân dân của cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội ở địa phương để nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, ngay từ đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường đã xây dựng nội dung và các hình thức tuyên truyền về công tác phòng, chống TNTT cho trẻ cho năm học như sau:
– Tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của thị trấn và các khu dân cư với các nội dung:
+ Làm rõ vai trò của việc phòng, chống, TNTT cho trẻ.
+ Tầm quan trọng của công tác CS- ND- GD trẻ ở trường mầm non.
+ Các kiến thức phòng, chống, TNTT .
+ Ý nghĩa của các công tác phòng, chống, TNTT.
+ Các nhiệm vụ trọng tâm trong năm học trú trọng với các nhiệm vụ phòng, chống, TNTT .
– Tổ chức họp phụ huynh đầu năm với các nội dung tuyên truyền:
+ Đánh giá kết quả CS- ND- GD trẻ kết quả thực hiện các hoạt động của năm học trước.
+ Ý nghĩa của các hoạt động của bé ở trường mầm non, trong đó có hoạt động đảm bảo an toàn cho trẻ, không có TNTT xảy ra có liên quan trực tiếp đến sự phát triển toàn diện của trẻ.
+ Thông qua nội dung- quy chế phối hợp giữa gia đình và nhà trường và yêu cầu phụ huynh ký cam kết.
+ Thông qua các nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, đi sâu phân tích tuyên truyền nhiệm vụ xây dựng trường học an toàn, phòng, chống, TNTT cho trẻ.
+ Vận động phụ huynh đóng góp tự nguyện ngoài các khoản quy định, để mua sắm trang thiết bị xây dựng trường trường học an toàn.
– Tổ chức các buổi họp phụ huynh giữa năm, cuối năm để báo cáo kết quả thực hiện trong học kỳ I, năm học và kết quả xây dựng trường học an toàn, phòng, chống, TNTT cho trẻ.
– Liên hệ với lãnh đạo địa phương tổ chức tuyên truyền các nội dung trên tại các buổi họp của Uỷ ban nhân dân , Hội đồng nhân dân thị trấn, các đoàn thể của thị trấn như: Mặt trận tổ quốc, hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên .. Qua đó nội dung tuyên truyền được sâu rộng trong nhân dân.
– Xây dựng các góc tuyên truyền chung của nhà trường với các nội dung:
+ Xây dựng các nội dung ở bảng tin theo từng thời điểm.
+ Trang bị hệ thống các biểu bảng, panô áp phích có nội dung liên quan đến chủ đề năm học và các cuộc vận động và các phong trào thi đua:
Ví dụ : “ Quyết tâm xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”
“ Nhà trường văn hoá – Nhà giáo mẫu mực – Bé chăm ngoan”
“ Dân chủ – Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”
“ Hãy dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất”
“Cha mẹ và cô giáo cùng quan tâm đến sức khỏe của bé”
+ Dán ảnh của các hoạt động , các hội thi của nhà trường.
+ In các biểu bảng có nội dung về các kiến thức CS- GD- ND theo khoa học.
– Chỉ đạo giáo viên xây dựng mỗi lớp một góc tuyên truyền với phụ huynh với các nội dung.
+ Chương trình thực hiện theo các chủ đề cho từng độ tuổi.
+ Kết quả CS- ND- GD trẻ qua từng giai đoạn trong năm.
+ Các nội dung cần phối hợp với phụ huynh để phòng, chống các dịch bệnh và TNTT cho trẻ.
– Tổ chức tốt các hội thi trong năm hoc mời phụ huynh đến dự.
– Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, văn nghệ ở trường, tham gia biểu diễn, giao lưu với các đoàn thể ở địa phương tổ chức.
– Tổ chức tốt các ngày hội ngày lễ ở trường trong năm học như ngày: Khai giảng năm học, ngày tết trung thu, ngày 20/11,ngày tết Noel, ngày 8/3, ngày 1/6, ngày tổng kết năm học. Mời lãnh đạo thị trấn, lãnh đạo khu dân cư và phụ huynh đến dự.
* Kết quả:
– Với các nội dung và hình thức tuyên truyền phong phú như trên chúng tôi đã thu được kết quả như:
+ Lãnh đạo, chính quyền địa phương, nhân dân và cha mẹ trẻ trên địa bàn đã hiểu rõ được tầm quan trọng của giáo dục mầm non nói chung và việc xây dựng trường học an toàn, phòng, chống, TNTT cho trẻ nói riêng; nắm được ý nghĩa của các hoạt động của bé ở trường giúp các bé phát triển một cách toàn diện, biết được các nhiệm vụ trọng tâm của năm học. Qua đó nâng cao được ý thức trách nhiệm của cha mẹ trẻ khi cho con đi học, có tinh thần đóng góp tự nguyện để xây dựng trường học an toàn, phòng, chống, TNTT cho trẻ.
+ Lãnh đạo địa phương đã tạo điều kiện mọi mặt cho công tác tuyên truyền cũng như vận động nhân dân, các đoàn thể ủng hộ và đầu tư kinh phí cho nhà trường xây dựng trường học an toàn, phòng, chống, TNTT cho trẻ.
Hình ảnh: bảng tuyên truyền phòng y tế
Hình ảnh: Nhân viên y tế tuyên truyền phát tài liệu cho giáo viên về công tác phòng chống TNTT cho trẻ .
Hình ảnh: Giáo viên trò chuyện với trẻ về một số kỹ năng khi tham gia giao thông được an toàn.
Hình ảnh: Nhân viên y tế xử lý băng tay cho trẻ.
- Biện pháp 4: Xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo môi trường an toàn cho trẻ trong các hoạt động ở trường mầm non.
Cơ sở vật chất của trường mầm non là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ. Không thể chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ theo mục tiêu của ngành học nếu không có những cơ sở vật chất tương ứng. Trong Điều lệ trường mầm non, điều 40,41 đã quy định yêu cầu về cơ sở vật chất của trường mầm non, phải đảm yêu cầu của việc chăm sóc – nuôi dưỡng- giáo dục trẻ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi có đảm yêu cầu thì mới tạo được môi trường an toàn cho trẻ hoạt động. Chính vì vậy Ban giám hiệu nhà trường trong nhiều năm qua đã luôn chú trọng đến việc xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ, phù hợp để tạo điều kiện an toàn cho trẻ trong mọi hoạt động. Qua đó đã giảm thiểu được các TNTT cho trẻ.
Ngay từ trong thời gian hè hàng năm tôi đã chỉ đạo giáo viên, nhân viên rà soát lại toàn bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi của bộ phận mình phụ trách. Báo cáo cụ thể với Ban giám hiệu số trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi cũ, hỏng, cần thay thế và bổ sung.
Căn cứ vào số liệu báo cáo của các bộ phận sau khi rà soát. Ban cơ sở vật chất của nhà trường đi kiểm tra thực tế, sau đó xây dựng kế hoạch mua sắm bổ sung, thay thế, sửa chữa theo thứ tự ưu tiên.
Trong các năm học gần đây Ban giám hiệu nhà trường đã cân đối các nguồi tiền của nhà trường kết hợp với sự ủng hộ của các bậc phụ huynh, sự ủng hộ của các cơ sở kinh doanh trên đị bàn và sự quan tâm đầu tư của phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh trì. Đến nay cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ công tác chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ tương đối đã hoàn thiện .Đã xây dựng được môi trường an toàn cho trẻ hoạt động cụ thể như sau:
* Kết quả đạt được:
– Với các lớp:
+ 11/11 lớp có đủ các đồ dùng, đồ chơi theo danh mục của Chương trình giáo dục mầm non mới, có đủ bàn ghế cho trẻ đúng quy cách, có đủ các đồ dùng phục vụ chăm sóc riêng cho từng trẻ tại lớp.
+ 11/11 lớp đã được đầu tư các trang thiét bị hiện đại như: Đầu đĩa, Ti vi, đàn, bình nóng lạnh. Lắp đặt bánh xe cho 100% giá đồ chơi của các lớp, giúp giáo viên linh hoạt quay góc hoạt động hoặc áp sát vào tường, tạo khoảng chống cho trẻ hoạt động học, vui chơi, ăn, ngủ. Các lớp đã có các biển báo nguy hiểm ở các ổ điện. Hàng năm kịp thời thay thế, bổ xung, các loại đồ dùng, đồ chơi không đảm bảo an toàn cho trẻ.
+ Hệ thống đèn chiếu sáng của các lớp đã được nâng cấp đảm bảo tiêu chuẩn quy định. đầy đủ nước sạch dùng cho sinh hoạt hàng ngày.
+ Hàng năm kịp thời thay thế, bổ xung, các loại đồ dùng, đồ chơi không đảm bảo an toàn cho trẻ.
+ Nhà vệ sinh : Trang bị đầy đủ nước cọ nhà, nước lau sàn, chổi xà phòng.. theo nhu cầu hàng tháng.
+ Được trang bị đầy đủ các bình chữa cháy ở các khu vực hành lang.
– Với phòng y tế:
+ Phòng y tế đã được trang bị đủ các trang thiết bị như: Tủ thuốc, giường y tế, cáng, cân sức khỏe. Các biểu bảng theo dõi sức khỏe, các biểu bảng tuyên truyền, phác đồ sơ cấp cứu TNTT. Trang bị đủ các phương tiện cấp cứu như: Bông, băng, nẹp gỗ, cồn sát trùng, cáng thương, bình ô xy và một số đồ dùng y tế khác, bình ô xy và một số đồ dùng y tế khác.
+ Hàng năm đã trang bị đủ cơ số thuốc thông thường, thay thuốc thường xuyên khi hết hạn sử dụng.
– Với nhà bếp:
+ Đã được xây dựng và sắp xếp theo quy trình bếp một chiều. Đã được trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại như: Hệ thống bếp ga, tủ cơm ga, tủ sấy bát, tủ lạnh bảo quản thực phẩm và lưu thức ăn, Các dụng cụ chế biến và dụng cụ phục vụ giờ ăn cho trẻ đã được trang bị hoàn toàn bằng inốc. Hàng năm thường xuyên bổ sung thìa, bát, muôi.. đủ cho trẻ.
+ Hệ thống biểu bảng cho các bếp được trang bị đầy đủ theo yêu cầu, các bếp dều có rào chắn bằng inoc để ngăn cách đảm bảo an toàn cho trẻ trong các hoạt động.
+ Trang bị đầy đủ các bình chữa cháy cho các bếp.
– Với sân chơi:
+ Sân chơi đã có từ 7- 9 loại đồ chơi ngoài trời, phong phú về thể loại, chất lượng đảm bảo, màu sắc đẹp, đảm bảo an toàn cho trẻ hoạt động vui chơi. Hàng năm đều có sự tu bổ, sửa chữa và sơn lại vào dịp hè.
+ Đã trồng được nhiều cây xanh, cây cảnh, các loại hoa, cây ăn quả. Được trang bị nhiều các biểu bảng tuyên truyền về công tác chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ. Đã tạo được khung cảnh sư phạm “Xanh – Sạch – Đẹp”.
– Với công tác vệ sinh môi trường:
+ 100% CB – GV- NV của nhà trường đã có ý thức tạo môi trường sạch cho trẻ hoạt động. Lịch thực hiện VSMT của các lớp, bếp luôn được thực hiện nghiêm túc thường xuyên và hiệu quả. Nên trường lớp luôn gọn gàng, sạch sẽ mọi lúc mọi nơi.
+ Trường đã được phòng Giáo dục và Đào tạo, các đoàn đến tham quan và phụ huynh đánh giá môi trường luôn sạch sẽ. Trường đã tạo được khung cảnh sư phạm “Xanh – Sạch – Đẹp”
Với hệ thống trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi và môi trường luôn sạch sẽ như trên đã đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định và đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. Đã xây dựng được môi trường an toàn cho trẻ vui chơi và hoạt động.
Khung cảnh phòng hội đồng và bếp ăn của trường.
Khung cảnh nhà trường.
- Biện pháp 5: Tổ chức thực hiện kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013 -2014
Sau khi đã xây dựng được kế hoạch chỉ đạo xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT của năm học. Bên cạnh đó là hệ thống các trang thiết bị đồ dùng an toàn và đầy đủ thì tổ chức thực hiện là khâu vô cùng quan trọng. Mặc dù chị em đã nắm bắt và hiểu được tầm quan trọng của vấn đề và nắm vững kiến thức, kỹ năng thực hành. Nếu không bắt tay vào thực hiện thì lý thuyết học được chỉ là lý thuyết suông mà không có thực tế. Tôi đã tiến hành triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT cho trẻ như sau:
* Đối tượng thực hiện: 100% CB – GV- NV.
* Thời gian thực hiện: Thời gian bắt đầu từ tháng 9/2013 đến tháng 5/2014.
* Nội dung thực hiện: Kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013-2014.
* Hình thức triển khai thực hiện:
+ Phô tô quy chế trường học an toàn và kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013-2014 phát cho 100% CB – GV- NV.
+ Tổ chức học tập quy chế và kế hoạch tại buổi học tập nhiệm vụ đầu năm học.
+ Triển khai thực hiện quy chế và kế hoạch cả năm học, hàng tháng có kế hoạch cụ thể với các nội dung phù hợp với từng thời điểm.
* Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận:
– Với giáo viên các lớp:
+ Thường xuyên rà soát và loại bỏ toàn bộ đồ dùng, đồ chơi trong lớp có nguy cơ gây TNTT, mất an toàn cho trẻ.
+ Quan tâm chăm sóc sức khỏe cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
+ Sắp xếp các góc lớp, đồ dùng, đồ chơi hợp lý, khoa học, dễ cất, dễ lấy, an toàn cho trẻ.
+ Xây dựng lịch vệ sinh hàng ngày, hàng tuần. Duy trì tốt, thường xuyên lịch vệ sinh tại lớp, giữ lớp, nhà vệ sinh luôn sạch sẽ.
+ Với lớp nhà trẻ đồ chơi xâu hạt, đồ chơi nắp nút nhỏ, phấn…các cô giáo
phải để xa tầm tay trẻ, khi chơi mới mang ra. Giáo dục trẻ các nội dung an toàn khi sử dụng các đồ chơi và bao quát trẻ khi chơi.
+ Các ổ cắm điện trong lớp đều phải dán ký hiệu nguy hiểm để trẻ
biết đó là nơi nguy hiểm không được chạm vào.
+ Làm đồ dùng đồ chơi yêu cầu phải đảm bảo tính an toàn cho trẻ và đảm
bảo vệ sinh.
+ Thực hiện giáo dục trẻ các kiến thức về bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường. Rèn trẻ các kỹ năng vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, cách sử dụng các đồ dùng đồ chơi.
– Với nhân viên nhà bếp:
+ Sắp xếp các đồ dùng, thiết bị nuôi dưỡng gọn gàng theo quy trình bếp một chiều.
+ Thực hiện sơ chế, chế biến các món ăn đảm bảo quy trình một chiều và đảm bảo VSATTP.
+ Thận trọng đảm bảo an toàn cho trẻ khi mang cơm, canh và các món ăn nóng lên lớp.
+ Xây dựng lịch vệ sinh hàng ngày, hàng tuần. Duy trì tốt, thường xuyên lịch vệ sinh tại bếp, giữ khu vực bếp luôn sạch sẽ.
+ Thường xuyên rà soát và loại bỏ toàn bộ đồ dùng, phục vụ trẻ trong giờ ăn như: Thìa, muôi, bát, đĩa… hỏng, sứt, gẫy có nguy cơ gây TNTT, mất an toàn cho trẻ.
+ Khoá nắp các bể nước sạch hàng ngày.
* Với nhân viên y tế:
+ Sắp xếp các đồ dùng, biểu bảng, thiết bị y tế gọn gàng, ngăn nắp, khoa học, sạch sẽ.
+ Trực tiếp chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh và CB – GV- NV trong trường.
+ Chịu trách nhiệm kiểm tra các lớp, các bếp, sân chơi để phát hiện các đồ dùng, đồ chơi, lan can, cầu thang… thiết bị hỏng có nguy cơ gây mất an toàn cho trẻ. Đề xuất loại bỏ, sử chữ và thay thế. Kiểm tra công tác VSMT toàn trường.
+ Thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng các loại thuốc ở các phòng y tế, loại bỏ các loại thuốc hết hạn sử dụng, đề xuất bổ sung, thay thế.
+ Sưu tầm, cập nhật kịp thời các bài viết, tranh tuyên về các dịch, bệnh xảy ra trên địa bàn trong từng thời điểm để tuyền ở bảng tin 3 khu, phòng y tế, phát cho các lớp và Liên hệ phát trên thông tin cảu thị trấn và các khu dân cư.
+ Phối hợp cùng kế toán cân đối tỷ lệ các chất xây dựng thực đơn theo mùa, theo tuần chẵn lẻ hợp lý.
– Với nhân viên bảo vệ:
+ Thực hiện tốt việc VSMT khu vực sân trường, hành lang và chăm sóc cây.
+ Bảo vệ toàn bộ cơ sở vật chất của nhà trường và đảm bảo an ninh trật tự trong nhà trường.
+ Thường xuyên kiểm tra các ổ khóa, cánh cửa các lớp, các vòi nước, ổ điện, khóa bể nước quanh khu vực của trường. Đảm bảo bơm đủ nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
– Với Ban giám hiệu:
+ Xây dựng, triển khai, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học
2013-2014.
+ Tổng hợp kết quả thực hiện kế hoạch, Tự đánh giá 68 nội dung theo bảng kiểm trường học an toàn theo thông tư 13/2011/TT-BGD&ĐT ngày 15/4/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về ban hành qui định về xây dựng trường học an toàn, phòng, chống TNTT trong cơ sở giáo dục Mầm non. Báo cáo kết quả về phòng Giáo dục & Đào tạo.
* Kết quả đạt được:
– 100% CB-GV-NV đã nghiêm túc thực hiện kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013- 2014 và đạt kết quả tốt.
– 100% các lớp đã sắp sếp các góc lớp, đồ dùng, đồ chơi hợp lý, khoa học, dễ cất, dễ lấy, an toàn cho trẻ và có đồ dùng đồ chơi tự làm đảm bảo an toàn cho trẻ.
– 100% ổ điện các lớp đựơc dán ký hiệu báo hiệu nguy hiểm.
– 100% đồ chơi ngoài trời, các đồ dụng dụng cụ quanh sân trường đảm bảo an toàn cho trẻ.
– Phòng y tế có đầy đủ các loại thuốc thông dụng và dụng cụ sơ cứu đảm
bảo yêu cầu. Nhân viên y tế cập nhật các thông tin dịch bệnh kịp thời, làm tốt công tác tuyên truyền phòng, chống các TNTT trong nhà trường, thực hiện chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ.
– Bếp có đồ dùng nuôi dưỡng đảm bảo an toàn cho trẻ.
– 100% trẻ trong trường đã dược đảm bảo an toàn tuyệt đối mọi lúc mọi nơi, không có TNTT, dịch, bệnh xảy ra trong nhà trường.
- Biện pháp 6. Kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoach xây dựng trường học an tòan, phòng, chống tai nạn thương tích năm học 2013-2014.
Kiểm tra, đánh giá các việc thực hiện theo kế hoạch là biện pháp hết sức quan trọng trong công tác quản lý. Ta vẫn nói rằng: Không có kiểm tra tức là không có quản lý. Kiểm tra nhằm thu thập thông tin, điều khiển, điều chỉnh bộ máy đi đến đích. Kiểm tra nhằm thiết lập các tiêu chuẩn, đo lường kết quả thực hiện mục tiêu, phân tích và điều chỉnh các sai lệch (nếu có) nhằm làm cho bộ máy tốt hơn lên, đạt kết quả mong đợi. Kiểm tra giúp cho nhà quản lý phát hiện người làm tốt để khuyến khích động viên họ, còn người làm chưa tốt để cố gắng hơn. Kiểm tra còn giúp cho việc sai sót có thể xảy ra. Vì công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng như vậy nên người quản lý cần phải tích luỹ kinh nghiệm kiểm tra và thực hiện nghiêm túc biện pháp kiểm tra trong mọi hoạt động.
*Nội dung kiểm tra:
– Kiểm tra cách sắp sếp đồ dùng, trang thiết bị, đồ chơi đảm bảo an toàn và khoa học tại các lớp, bếp, phòng y tế, các phòng vệ sinh.
– Kiểm tra việc thực hiện quy chế trường học an toàn, quy chế chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
– Kiểm tra cơ sở vật chất, kiểm tra việc rà soát, loại bỏ, thay thế các đồ dùng, đồ chơi, thiết bị có nguy cơ mất an toàn cho trẻ.
– Kiểm tra công tác vệ sinh môi trường.
– Kiểm tra công tác chăm sóc sức khoẻ cho trẻ.
– Kiểm tra công tác tuyên truyền của bộ phận y tế, các lớp, các khu.
– Kiểm tra hệ thống nước sạch, hệ thống nước thải, rác thải.
* Phương pháp kiểm tra, đánh giá:
– Thăm lớp, dự giờ.
– Quan sát.
– Kiểm tra trực tiếp việc giáo viên, nhân viên thực hiện quy chế.
– Trò chuyện trao đổi trực tiếp với giáo viên, nhân viên. học sinh.
* Hình thức kiểm tra, đánh giá:
– Kiểm tra theo định kỳ.
– Kiểm tra thường xuyên.
– Kiểm tra đột xuất.
– Kiểm tra có báo trước.
* Kết quả:
– Qua thực hiện biện pháp kiểm tra, đánh giá tôi thấy hầu hết đội ngũ CB – GV- NV trong nhà trường luôn có ý thức thực hiện nghiêm túc theo quy chế và kế hoạch của nhà trường đã xây dựng.
– 100% CB-GV-NV đều có phẩm chất đạo đức tốt luôn yêu quý trẻ, thương yêu tôn trọng trẻ trong mọi hoạt động, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
– Công tác VSMT luôn được duy trì tốt, đảm bảo môi trường “Xanh – Sạch – Đẹp”.
– Qua kiểm tra tôi đã nhận thấy có một số đồng chí tiêu biểu thực hiện tốt như: Đồng chí Nga lớp B1, đồng chí Bùi Hiền lớp C2, đồng chí Thùy lớp A2, đồng chí Vân lớp D1, đồng chí Nụ tổ nuôi, đồng chí Hiền phụ trách y tế… Bên cạnh đó còn một số đồng chí giáo viên trẻ mới vào truờng kinh nghiệm chăm sóc trẻ còn hạn chế như: đồng chí Thủy, Hằng,…
– Không có CB-GV-NV nào vi phạm quy chế. Không có trường hợp TNTT, dịch bệnh nào xảy ra trong nhà trường.
- Biện pháp 7: Phối hợp với trung tâm y tế và phụ huynh để làm tốt công tác phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ.
Để thực hiện tốt kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích năm học 2013-2014. Ban giám hiệu nhà trường đã phối hợp chặt chẽ với trung tâm y tế Thanh Trì và các bậc phụ huynh của nhà trường.
Bởi vì, Trung tâm y tế là nơi chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân mà việc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ là công việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Việc phối hợp với ngành y tế là một điều kiện để trường mầm non theo dõi được sự phát triển về thể lực trẻ, phát hiện kịp thời những bệnh tật và đột biến của cơ thể trẻ. Ngoài ra trung tâm y tế còn phổ biến và tập huấn cho giáo viên những hiểu biết kiến thức, kỹ năng về vệ sinh phòng dịch bênh, phòng, chống các TNTT cho trẻ ở trường mầm non. Định kỳ kiểm tra sức khỏe cho học sinh và CB-GV-NV toàn trường. Đầu năm học đã cung cấp cho nhà trường những tư liệu về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, tài liệu về chăm sóc sức khỏe, phác đồ sơ cấp cứu, các loại tranh, ảnh tuyên truyền về phòng tránh tai nạn thương tích và tranh về các loại dịch bệnh cho trẻ.
Cha, mẹ trẻ là những người đầu tiên nuôi nấng, chăm sóc trẻ. Trẻ chịu ảnh hưởng rất lớn từ chính những người trực tiếp nuôi dạy chúng, vì vậy giữa cha, mẹ trẻ và trường mầm non cần có mối quan hệ chặt chẽ. Nhà trường và gia đình phải tạo được sự thống nhất về nội dung và phương pháp, chăm sóc, giáo dục trẻ, có sự trao đổi thường xuyên về cách chăm sóc, giáo dục, về sự phát triển tâm, sinh lý của trẻ, hiểu thấu đáo các tính của từng trẻ để có cách chăm sóc, giáo dục trẻ thích hợp nhất.
Với các biện pháp phối hợp trên nhà trường đã đạt được kết quả tốt trong việc thực hiện kế hoạch, điều đó đã góp phần đảm bảo an toàn cho trẻ. Cụ thể như:
* Với các phụ huynh:
– Đa số phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng trường học an toàn, phòng, chống, TNTT cho trẻ là rất cần thiết. Từ đó đã phối hợp chặt chẽ với nhà trường để cùng có biện pháp chăm sóc phòng, chống các TNTT và các dịch bệnh cho trẻ. Không cho con mang các đồ vật có nguy cơ gây TNTT đến lớp như: Kim băng, các loại hột hạt, vòng chun, bi, các vật kim loại nhọn…. Có biện pháp chăm sóc trẻ suy dinh dưỡng và những trẻ mắc các bệnh khi phát hiện qua các đợt khám bệnh định kỳ tại trường.
– Phụ huynh sưu tầm những bức tranh, hình ảnh hành vi sai (dẫn đến gây tai nạn thương tích) để nhà trường treo ở bảng tuyên truyền của các lớp. Qua đó trẻ sẽ biết được về các hành vi không nên làm của mình.
– Thực hiện đúng nội quy, quy chế của nhà trường. Quan tâm, ủng hộ đến mọi hoạt động của nhà trường.
* Với Trung tâm y tế:
– Trung tâm y tế đã cung cấp cho nhà trường một số các tài liệu và tranh ảnh như sau:
+ Phác đồ sơ cấp cứu tai nạn thương tích cho trẻ: 03 bộ cho 03 phòng y tế.
+ Tranh tuyên truyền cúm A H1N1, H5N1, sởi , thủy đậu, tay chân miệng, Viêm GanB, ho lao, ho gà, Các bệnh về đường hô hấp, Các bệnh do động vật cắn, tiêu chảy cấp, sốt xuất huyết, viêm não nhật bản… Tổng số 11 bộ (đủ cho 3 phòng y tế và 11 lớp).
– Đã tổ chức khám sức khoẻ định kỳ 02 lần cho trẻ (vào tháng 10 và tháng 4). Đã tổ chức khám sức khoẻ cho CB- GV- NV 02 lần, trong đó 1 lần kết hợp tập huấn VSATTP.
Sau khi áp dụng thực hiện một loạt các biện pháp trên trường mầm non B Thị trấn Văn Điển đã thực hiện thành công kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013-2014 và đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
– Đã xây dựng được kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013-2014 phù hợp với đặc điểm và các điều kiện của trường.
– Nhà trường đã mua và phô tô nhiều tài liệu liên quan đến xây dựng môi trường an toàn, phòng, chống, xử trí các TNTT thường gặp phát cho 100% các lớp, các bếp để giáo viên, nhân viên nghiên cứu và học tập. Ban giám hiêu đã tạo điều kiện cho 100% CB-GV-NV tham gia lớp tập huấn công tác VSATTP và khám sức khoẻ do Trung tâm y tế huyện Thanh Trì tổ chức . Đã tạo điều kiện cho CB-GV-NV tham gia tập huấn phòng cháy chữa cháy do giảng viên phòng CSPCCC thành phố tập huấn.
– 100% CB-GV-NV đã nghiêm túc thực hiện kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ năm học 2013-2014 và đạt kết quả tốt. Nắm được kiến thức, kỹ năng phòng và xử lý các loại dịch bệnh cũng như các tai nạn thông thường xẩy ra với trẻ nhỏ.
– Đã làm tốt công tác tuyên truyền xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ.
– Đã trang bị được hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đảm bảo VSATTP.
– 100% các lớp đã sắp xếp các góc lớp, đồ dùng, đồ chơi mầm non hợp lý, khoa học, dễ cất, dễ lấy, an toàn cho trẻ và có đồ dùng đồ chơi tự làm đảm bảo an toàn cho trẻ. Các ổ điện các lớp đựơc dán ký hiệu báo hiệu nguy hiểm.
– Phòng y tế có đầy đủ các loại thuốc thông dụng và dụng cụ sơ cứu đảm bảo yêu cầu. Nhân viên y tế cập nhật các thông tin dịch bệnh kịp thời, làm tốt công tác tuyên truyền phòng, chống các TNTT trong nhà trường, thực hiện chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ.
– Ban giám hiệu nhà trường đã phối hợp chặt chẽ với trung tâm y tế Thanh Trì và các bậc phụ huynh của nhà trường. Để thực hiện tốt kế hoạch xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích năm học 2013-2014.
– Bản thân tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong việc chỉ đạo GV-NV thực hiện xây dựng trường học an toàn và phòng, chống TNTT cho trẻ trong trường học.
– 100% trẻ trong trường đã được đảm bảo an toàn tuyệt đối mọi lúc mọi nơi, không có TNTT, dịch, bệnh xảy ra trong nhà trường.
– Công tác y tế học đường và VSATTP được Trung tâm y tế Thanh Trì đánh giá tốt đạt 99 /100 diểm.
– Đã xây dựng được môi trường an toàn, xanh, sạch, đẹp, thân thiện cho trẻ vui chơi và hoạt động.
Nguồn: giao an mam non
Tải tài liệu về tại link: http://tinyurl.com/q49eu4n
Các biện pháp giáo dục tài nguyên biển hải đảo
Các biện pháp giáo dục tài nguyên biển hải đảo
Các biện pháp chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ MGL
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta có các vùng biển và thềm lục địa với diện tích khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, có bờ biển dài 3260 km và có hàng nghìn đảo lớn nhỏ, đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm án ngữ trên biển đông. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, biển, đảo có vai trò, vị trí quan trọng, gắn bó mật thiết, ảnh hưởng to lớn và đã có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững của quốc gia.
Vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mọi người dân trong nước đều phải có trách nhiệm tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo phù hợp với điều kiện và môi trường sống.
Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào cấp học mầm non là tạo cơ hội cho trẻ được làm quen, nhận biết về biển, đảo việt Nam. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ thói quen, hành vi bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, hải đảo. Những thói quen đó cần phải bắt đầu hình thành ngay từ lứa tuổi mầm non.
Một trong những nhiệm vụ của ngành Giáo dục mầm non trong năm học 2012-2013 là “Tăng cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi”. Đó vừa là nhiệm vụ giao cho các trường học và cũng là cơ hội để các nhà quản lý giáo dục và giáo viên mầm non phát huy khả năng về chuyên môn nghiệp vụ của mình.
Trong thực tế, đây là năm đầu tiên sở giáo dục đào tạo Hà Nội triển khai đại trà việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Bản thân tôi là người quản lý phụ trách chuyên môm cũng như các đồng chí giáo viên 5 tuổi trong trường tôi còn bỡ ngỡ, chưa hiểu rõ, hiểu sâu về vấn đề này. Mặt khác các đồng chí giáo viên còn cho rằng việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi là quá khó, giáo viên chưa biết cách lựa chọn nội dung lồng ghép sao cho phù với chủ đề, nội dung bài dạy và các hoạt động khác trong ngày của trẻ.
Mặc dù vậy, là một cán bộ quản lý trẻ, khỏe có trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng say mê nhiệt huyết với nghề, tôi đặt quyết tâm phải làm tốt công việc được giao. Tôi nhận thấy, muốn giáo viên hiểu rõ kiến thức về tài nguyên môi trường biển, hải đảo và biết cách lựa chọn nội dung lồng ghép phù hợp. Trước hết bản thân người quản lý phải nắm chắc kiến thức, hướng dẫn chỉ đạo cho giáo viên các bước cụ thể để giáo viên nắm bắt được. Từ đó giáo viên có kế hoạch dạy trẻ phù hợp. Trong thời gian qua, cùng với đồng nghiệp trong trường, tôi đã cố gắng suy nghĩ áp dụng nhiều biện pháp để chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn của trường và thực hiện có hiệu quả kế hoạch năm học đề ra.
Trong bản sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin trình bày “Các biện pháp chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Quỳnh” với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp, đồng thời nhận được những đóng quý báu từ phía các bạn.
* Mục đích của đề tài:
– Bản thân tích lũy được kinh nghiệm trong việc chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Giáo viên có nhiều biện pháp, nghệ thuật lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho học sinh 5 tuổi vào các hoạt động một cách phù hợp có hiệu quả.
– Học sinh có ý thức gữi gìn bảo vệ môi trường biển, hải đảo quê hương đất nước Việt Nam.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
– Chỉ ra các biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi tại trường mầm non Vĩnh Quỳnh.
* Phạm vi áp dụng: Tại trường mầm non xã Vĩnh Quỳnh, năm học 2012 – 2013.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Biển là loại hình thủy vực nước mặn của đại dương thế giới, nằm sát các đại lục và ngăn cách với đại dương ở ngoài bởi hệ thống đảo và bán đảo, phía trong bởi bờ địa lục còn gọi là bờ biển.
Đảo là một vùng đất tự nhiên, có nước bao bọc khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
Quần đảo là một tổng thể các đảo kể cả các bộ phận của đảo, các vùng nước tiếp liền và thành phần tự nhiên khác.
Nước ta có hai quần đảo lớn nhất Việt Nam đó là đảo Hoàng Sa ở Đà Nẵng, là một nhóm có khoảng 30 đảo, bãi san hô và các mỏm đá ngầm. Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa gồm 100 đảo lớn nhỏ và bãi ngầm, các nguồn lợi tự nhiên như: Cá, dầu mỏ, khí đốt và các khoáng sản khác…
Biển, hải đảo Việt Nam rất giàu tài nguyên, khoáng, giàu mỏ, khí tự nhiên: Năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Biển, hải đảo có rất nhiều nguồn lợi tự nhiên từ sinh vật biển như: 11 nghìn loại sinh vật biển, 13 nghìn sinh vật trên đảo, 2 nghìn loại cá, loại yến. Biển, hải đảo là khu du lịch để mọi người vui chơi giải trí, là nơi giao thông đi lại trên biển giúp con người đi lại giữa các vùng, các nước và vận chuyển hàng hóa.
Nhưng hiện nay môi trường biển, đảo nước ta đang phải chịu ảnh hưởng các áp lực từ sự gia tăng dân số, đô thị hoá nhanh, nông nghiệp, khai khoáng, hàng hải, du lịch, năng lượng, thủy sản. Nguyên nhân chính bắt nguông từ đất liền: Rác thải, nước thải nông nghiệp, nước thải công nghiệp, hóa chất, phát triển khai thác cảng. Ô nhiễm từ các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí, ô nhiễm do nhấn chìm các chất nguy hại, nhấn chìm tàu thuyền gây ra, ô nhiễm từ khí quyển.
Chính vì vậy con người cần ngăn ngừa, hạn chế nguồn ô nhiễm môi trường biển và bảo vệ môi trường biển, hải đảo như: Bảo vệ hệ sinh thái ( Rừng ngập mặn, san hô, cửa sông, đất ngập mặn…) bảo vệ tài nguyên sinh vật chống khai thác quá mức. Bảo vệ chất lượng nước biển, môi trường biển chống ô nhiễm, đó được coi là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người dân Việt Nam.
Đối với trẻ mẫu giáo 5 tuổi việc tích hợp nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào trong chương trình giáo dục mầm non là rất quan trọng và cần thiết, giúp trẻ có sự hiểu biết về biển, đảo Việt Nam, thông qua đó giáo dục trẻ ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường biển, hải đảo xanh, sạch, đẹp.
Khi thực hiện tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi cần chú ý đến các nguyên tắc sau:
Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo góp phần giáo dục trẻ tình yêu, lòng tự hào ý thức bảo vệ, gữi gìn biển, đảo quê hương Việt Nam, hướng đến mục tiêu giáo dục mầm non, phát triển nhân cách toàn diện hài hòa ở trẻ.
Nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo về tài nguyên môi trường biển, hải đảo được xây dựng phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu kinh nghiệm của trẻ và được tích hợp trong tất cả các lĩnh vực giáo dục: Giáo dục phát triển thể chất; giáo dục phát triển nhận thức; Giáo dục phát triển ngôn ngữ; giáo dục phát triển thẩm mĩ; giáo dục phát triển tình cảm kĩ năng xã hội theo chủ đề. Có thể tích hợp trong cả một hoạt động, trong một phần của hoạt động hoặc mọi lúc mọi nơi.
Nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo tích hợp vào hoạt động đảm bảo tính mở rộng dần theo hướng đồng tâm phát triển từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của trẻ. Các hoạt động phải gần gũi, không xa lạ, gắn với thực tế địa phương, đảm bảo tự nhiên, nhẹ nhàng. Không gây quá tải nặng nề chương trình giáo dục mầm non.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
- 1. Đặc điểm tình hình
– Trường mầm non Vĩnh Quỳnh được xây dựng trên địa bàn xã Vĩnh Quỳnh- Huyện Thanh Trì – Hà Nội. Trường có 3 khu nằm rải rác ở 3 thôn: Thôn Quỳnh Đô có 12 lớp, Vĩnh Ninh 8 lớp, Ích Vịnh 3 lớp.
– Năm học 2012-2013 trường có 23 nhóm lớp với số học sinh là 1019 cháu, trong đó 200 cháu nhà trẻ, 819 cháu mẫu giáo. Lớp mẫu giáo lớp có 6 lớp với 291 học sinh, 100% trẻ 5 tuổi ăn bán trú tại trường.
– Toàn trường có 97 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Trong đó 11 người trên 45 tuổi, 88 người ở độ tuổi từ 22- 40 tuổi.
Chức danh | Số lượng | Trình độ đào tạo | ||
Trung cấp | Cao đẳng | Đại học | ||
Ban Giám hiệu | 3 | 0 | 0 | 3 |
Giáo viên(Giáo viên dạy lớp 5 tuổi) | 67 | 52 | 3 | 12 |
17 | 5 | 2 | 10 | |
Nhân viên | 26 | 24 | 0 | 2 |
– Thực tế, việc tích hợp nội dung về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi chưa được đưa vào cụ thể trong chương trình giáo dục mầm non. Chỉ được giáo dục ở một số hoạt động trò chuyện bên ngoài mang tính chất kể chuyện cho trẻ nghe, chưa đưa vào chương trình dạy trẻ có hệ thống.
– Giáo viên dạy lớp 5 tuổi chưa có nhận thức, phương pháp và nghệ thuật tổ chức, chưa biết lựa chọn nội dung về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi để dạy trẻ cho phù hợp.
– Bản thân chưa có kinh nghiệm, chưa có sự chỉ đạo sát sao về tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– 100% giáo viên dạy lớp 5 tuổi đều có trình độ chuyên môn vững vàng, năng động yêu nghề mến trẻ, nhận thức tốt về chuyên môn nghiệp vụ trong chương trình giáo dục trẻ.
– Năm học 2012-2013 trường mầm non Vĩnh Quỳnh đã bắt đầu thực hiện tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào một số chủ đề giáo dục trẻ lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi, bước đầu giáo viên đã nắm bắt được kiến thức, có kĩ năng lồng ghép vào dạy trẻ phù hợp có hiệu quả. Trẻ hứng thú tích cực tham gia các hoạt động, đã có ý thức gữi gìn bảo vệ môi trường biển, hải đảo quê hương đất nước Việt Nam.
- Thuận lợi:
– Trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao về chuyên môn của sở giáo dục, phòng Giáo dục huyện Thanh Trì về tập huấn nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Trường tạo điều kiện cho giáo viên 5 tuổi tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi do sở giáo dục, phòng giáo dục và nhà trường tổ chức.
– Trường có nhiều giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, có ý thức thực hiện nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là các giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 tuổi đều có trình trình độ chuyên môn vững vàng có khả năng truyền thụ kiến thức cho trẻ tốt.
– Các lớp 5 tuổi có đầy đủ đồ dùng đồ chơi như: Bộ tranh, ảnh, trang thiết bị hiện đại (Vi tính, ti vi, đầu đĩa, máy ảnh, máy chiếu) phục vụ hoạt động giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non. Vì vậy trẻ có thể được tiếp xúc với các hình ảnh biển, hải đảo qua du lịch màn ảnh nhỏ tại lớp.
– Bản thân tôi là cán bộ quản lý, trẻ, khỏe, năng động, vững vàng về chuyên môn, có năng lực quản lý chỉ đạo. Tâm huyết với việc tích hợp nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
- 3. Khó khăn:
– Trường có nhiều điểm lẻ, không thuận tiện cho việc kiểm tra các hoạt động của các lớp 5 tuổi, nên việc chỉ đạo chỉ đạo giáo viên 5 tuổi thực hiện việc tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ chưa được sâu sát, chỉ đạo không được đồng đều.
– Đây là năm học đầu tiên sở giáo dục đào tạo Hà Nội triển khai đại trà việc tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ. Vì vậy giáo viên chưa có kiến thức, hiểu biết nhiều về vấn đề này.
– Bản thân giáo viên còn bỡ ngỡ chưa biết cách lựa chọn nội dung, cách lồng ghép tích hợp tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ sao cho phù hợp với chủ đề, nội dung bài dạy.
– Đồ dùng dạy học và các đồ dùng hiện đại đã được trang bị đầy đủ như: Ti vi, đầu đĩa, máy tính, đàn, bộ tranh.. hiện nay đã cũ, hỏng cần được nâng cấp thay thế, mua bổ sung loại đồ dùng có chức năng hiện đại để giáo viên sử dụng có hiệu quả hơn trong việc dạy trẻ về nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo.
– Đa số phụ huynh học sinh làm nông nghiệp, ít có thời gian quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Ít trò chuyện mở rộng kiến thức cho trẻ về “Tài
nguyên môi trường biển, hải đảo” do phụ huynh quan niệm rằng: “Trẻ còn nhỏ
chưa cần thiết phải giáo dục về môi trường biển, hải đảo và nội dung đó rất khó đối với trẻ 5 tuổi”.
Căn cứ vào thực trạng và các điều kiện thuận lợi khó khăn trên của nhà trường, tôi luôn trăn trở suy nghĩ và đã tìm ra một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi như sau:
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP
- Lập kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo trong chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi:
Kế hoạch được ví như chìa khóa mở đường đi đến mục đích. Kế hoạch có tầm quan trọng đặc biệt, nó như kim chỉ nam, có tác dụng chỉ đạo chỉ đường cho hoạt động thực hiện theo một con đường đã định sẵn. Nó như ngọn đèn pha dẫn lối cho chúng ta thực hiện công việc một cách khoa học. Vì vậy, nếu xây dựng được kế hoạch coi như ta đã thành công được một nửa công việc.
Nhìn vào tình hình thực trạng của nhà trường, cũng như những vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường biển, hải đảo của ở Việt Nam. Tôi đã nhận định được những điểm mạnh và những điều còn hạn chế, trong vấn đề giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi trong trường mình. Do vậy ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên dạy lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi thực hiện công tác giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ như sau:
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN NỘI DUNG GIÁO DỤC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG BIỂN, HẢI ĐẢO VÀO CHƯƠNG TRÌNH MẪU GIÁO 5 TUỔI
Năm học 2012-2013
Thời gian thực hiện | Nội dung thực hiện | Người |
thực hiệnTháng
9,10/2012– Tham gia lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi do sở giáo dục tổ chức.
– Xây dựng bài giảng, tập huấn bồi dưỡng cho giáo viên 5 tuổi trong trường về kiến thức nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Xây dựng, lựa chọn các nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ vào các chủ đề trong chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi.
– Chỉ đạo giáo viên xây dựng góc tuyên truyền của nhà trường, của lớp đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường biển, hải đảo cho phụ huynh, học sinh và cộng đồng hiểu rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn bảo vệ môi trường biển, hải đảo quê hương.
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi- Hiệu phó chuyên môn
– Hiệu phó chuyên môn
– Hiệu phó chuyên môn.
– Tổ trưởng chuyên môn khối 5 tuổi
– Giáo viên 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
Tháng
11,12/2012– Chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: “Gia đình”, “Nghề nghiệp”.
– Xây dựng các tiết dạy mẫu có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo cho giáo viên học tập:
+ Chủ đề gia đình:
Khám phá xã hội “Nhận biết về những người thân trong gia đình làm nghề bội đội hải quân”.
Âm nhạc: Dạy hát “ Ba em là bội đội hải quân”. Nghe hát “Thân thương trường xa”
+ Chủ đề nghề nghiệp:
Khám phá khoa học; Nghề bội đội hải quân, nghề nuôi hải sản, nghề chế biến hải sản, nghề làm muối.
Tạo hình: Vẽ quà tặng chú bộ đội.
– Tổ chức hội thi giáo viên giỏi cấp trường.
– Tổ chức kiến tập các tiết dự thi giáo viên dạy giỏi cấp trường có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo đạt kết quả cao cho giáo viên học tập.
– Kiểm tra góp ý, nhận xét đánh giá các lớp thực hiện tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ.- Hiệu phó chuyên môn, giáo viên 5 tuổi
– Lớp MGL5 tuổi ( A1)
– Lớp MGL 5 tuổi ( A2)
– Các lớp MGL 5 tuổi
( A3, A4, A5, A6)
– Ban thi đua.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
Tháng
1, 2/2013
– Tiếp tục chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: Thế giới động vật, thực vật
+ Một số động vật sống ở biển ( Cá, tôm, cua, rong, tảo biển)
+ Ích lợi của động, thực vật ở biển: Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng: cá thu, tôm, cua…
+ Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh: Rong, tảo…
+ Ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường biển, đảo.
– Tổ chức họp chuyên môn xây dựng các hoạt trong ngày như: Hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều có tích hợp nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi.
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi
– Chỉ đạo giáo viên, học sinh lớp mẫu giáo 5 tuổi tập luyện tiết mục văn nghệ ca ngợi về biển đảo quê hương Việt Nam, tham gia dự thi hội diễn “Mừng đảng, mừng xuân ngành giáo dục huyện thanh trì” năm 2013.- Hiệu phó chuyên môn.
giáo viên 5 tuổi.
– Giáo viên, học sinh lớp 5 tuổi.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên, học sinh 5 tuổi. Tháng
3,4/2013
– Chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: Giao thông, nước và các hiện tượng tự nhiên.
+ Chủ đề “Giao thông”: Khám phá một số phương tiện giao thông trên biển: Tàu, thuyền, ca nô…Ích lợi của giao thông biển. Ý thức của trẻ khi tham gia giao thông.
+ Chủ đề “ Nước và các hiện tượng tự nhiên”: Một số hiện tượng tự nhiên: Cát nước biển, sóng biển, bão biển. Ý thức hành vi giữ gìn bãi biển, nước biển, trong lành.
– Phát động hội giảng “ Mừng đảng mừng xuân” tổ chức cho giáo viên tham gia dự thi các hoạt động trong ngày.
– Tổ chức kiến tập các hoạt động có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường biển, hải đảo đạt kết quả cao cho giáo viên 5 tuổi học tập:
+ Khám phá khoa hoc: Một số phương tiện giao thông trên biển.
+ Âm nhac: Dạy hát “ Em đi chơi thuyền” Nghe hát
“ Thuyền và biển”.
+ Hoạt động góc: Làm bộ sưu tập ( cắt dán) giao thông trên biển
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi
– Tổ chức cho học sinh 5 tuổi đi thăm quan ngoại khóa tại viện bảo tàng quân đội phòng không không quân tại Hà Nội.
– Hiệu phó chuyên môn
– Giáo viên 5 tuổi.
– Giáo viên và học sinh 5 tuổi.
– Hiệu phó chuyên môn.
+ Lớp MGL 5 tuổi ( A3)
+ Lớp MGL 5 tuổi ( A2)
+ Lớp MGL 5 tuổi ( A6)
– Ban giám hiệu.
– Giáo viên, học sinh các lớp MGL 5 tuổiTháng
5/2013
– Chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ theo chủ đề: Quê hương, đất nước.
+ Nhận biết về biển, đảo Việt Nam: Tên gọi, vị trí địa lí và một và đặc điểm nổi bật của một số vùng biển ( Khu du lịch biển) nổi tiếng ở Việt Nam.
+ Ích lợi của biển, hải đảo:
Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng cho con người: Cá thu, tôm cua.
Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh cho con người: Rong, tảo.
+ Khu du lịch nổi tiếng để tham quan nghỉ ngơi, tắm mát.
+ Phát triển các nghề.
+ Giao thông trên biển.
+ Cung cấp nguồn năng lượng sạch.
+ Cung cấp các mỏ dầu.
+ Nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường biển, hải đảo
– Kiểm tra đánh giá nhận xét về kiến thức và kĩ năng, thực hiện nội dung giáo dục biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi
– Chỉ đạo giáo viên 5 tuổi tập luyện cho trẻ bài đồng diễn thể dục với chủ đề “ Bé yêu biển” tham dự thi “ Hội khỏe măng non” tại trung tâm thể thao huyện Thanh Trì. Tham dự ngày hội thể thao do ủy ban nhân xã tổ chức.
– Hiệu phó chuyên môn
– Giáo viên, học sinh 5 tuổi.
– Ban giám hiệu.
– Hiệu phó chuyên môn, giáo viên, học sinh các lớp 5 tuổi
- Bồi dưỡng kiến thức tích hợp về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho đội ngũ giáo viên 5 tuổi trong trường.
Bồi dưỡng những kiến thức, kỹ năng lồng ghép tích hợp về nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho cho đội ngũ giáo viên 5 tuổi. Đây là kế hoạch nhiệm vụ năm học 2012-2013 đề ra thực hiện, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt nam ngày càng giàu đẹp và phát triển bền vững.
Việc bồi dưỡng cho giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi có tầm quan trọng đặc biệt. Bởi vì, giáo viên là lực lượng trực tiếp thực hiện mọi hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non. Hơn ai hết giáo viên phải là người nắm vững những kiến thức, kỹ năng cơ bản về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi, để truyền thụ kiến thức đến cho trẻ.
Bản thân tôi là phó hiệu trưởng, phụ trách chuyên môn của nhà trường. Tôi đã thực hiện áp dụng bồi dưỡng các biện pháp cho giáo viên 5 tuổi kiến thức về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho giáo viên trong trường ngay từ đầu năm học như sau:
* Nội dung bồi dưỡng:
– Giúp giáo viên hiểu biết về tài nguyên môi trường biển, hải đảo ở Việt Nam. Giáo dục ý thức về tài nguyên môi trường biển, hảo đảo cho giáo viên.
– Lựa chọn các nội dung phù hợp về giáo dục biển, hải đảo vào một số chủ đề và các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Với cương vị là hiệu phó phụ trách chuyên môn trong trường, nhiệm vụ phải chỉ đạo hướng dẫn giáo viên hiểu rõ vấn đề về lồng ghép nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi một cách phù hợp, có hiệu quả. Tôi đã nghiên cứu xây dựng nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo dạy trẻ 5 tuổi vào một số chủ đề theo hướng tích hợp như sau:
Các chủ đề | Nội dung | Hoạt động |
1. Gia đình
* Nhận biết về người thân trong gia đình ( Bố, mẹ, cô, chú, bác…trong họ) Làm nghề bộ đội hải quân.
* Biết yêu thương, quí mến, tôn trọng người thân trong gia đình.
– Khám phá xã hội: Trò chuyện về công việc người thân trong gia đình làm nghề bộ đội hải quân.
– Hát, vận động“ Ba em là bộ đội hải quân”. Nghe hát “ Thân thương trường xa”
2. Nghề nghiệp
3. Thế giới động vật, thực vật.
4. Giao thông
* Nhận biết tên gọi, dụng cụ, sản phẩm và ý nghĩa một số nghề:
– Nghề bộ đội hải quân
– Khám phá khoa học:
+ Trò chuyện về: Chú bộ đội hải quân.
+ Đọc thơ: Chú bộ đội hành quân trong mưa, Chú giải phóng quân.
– Âm nhạc:
+ Âm nhạc dạy hát“ Cháu thương chú bội đội. Nghe hát “ Màu áo chú bội đội’
– Tạo Hình: Vẽ quà tặng chú bộ đội
– Nghề nuôi hải sản
– Nghề đánh bắt hải sản,
– Khám phá khoa học:
+ Trò chuyện về nghề nuôi tôm,
cua, cá.
+ Nghề đánh bắt hải sản.
– Nghề chế biến hải sản thành nước mắm và tôm cá đông lạnh.
– Khám phá khoa hoc:
+ Trò chuyện về nghề chế biến hải sản thành nước mắm và tôm cá đông lạnh
+ Trò chơi chọn hình ảnh đúng sai
( Hành động bảo vệ môi trường biển)
– Nghề làm muối
*Một số nguyên nhân gây ô nhiễm biển, hải đảo
– Do con người khai thác cạn kiệt tài nguyên biển: Đánh bắt cá tùy tiện, khai thác các loại tảo, rong biển quá mức….
– Do rác thải từ hoạt động của nghề đánh, bắt cá, nuôi tôm, chế biến hải hải thành nước
mắm, không được xử lí đổ thẳng ra biển.
* Quan tâm đến bảo vệ môi trường biển, hải đảo như:
– Nhận xét và tỏ thái độ hành vi
“ Đúng”, “Sai”, “ Tốt”,
“ Xấu”
* Một số động vật, thực vật sống ở biển
( Cá, tôm, cua, rong, tảo).
* Lợi ích của động vật, thực vật ở biển:
– Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng: Cá thu, tôm, cua…
– Cung cấp nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh: Rong, tảo…
* Ý thức giữ gìn môi trường biển, đảo.
* Nhận biết một số phương tiện giao thông trên biển: Tàu thủy, ca nô, thuyền, xuồng…
* Ích lợi của giao thông trên biển: Đường giao thông trên biển, giúp mội người đi lại giữa các vùng, các nước và vận chuyển hàng hóa…
* Ý thức của trẻ khi tham gia giao thông trên biển.
– Khám phá khoa học:
+ Trò chuyện về nghề làm muối
+ Trò chơi: Xếp tranh qui trình của ngề làm muối.
– Cho trẻ xem hình ảnh về một số nguyên nhân môi trường biển.
+ Trò chuyện gợi ý cho trẻ nêu nhận xét về các hành vi đúng, sai.
+ Tổ chức chơi trò chơi: Thi xem đội nào nhanh “ Chọn hành vi đúng”, hành vi gây ô nhiễm môi trường biển, hải đảo.
– Khám phá khoa học
+ Du lịch dưới lòng đại dương.
– Văn học:
+ Đọc thơ: Rong và cá
+ Kể chuyện: Loài cá thông minh
– Âm nhạc:
+ Hát vận động bài: “ Cá ơi”,
“ Tôm cua cá thi tài”,
– Tạo hình: Vẽ, xé dán, nặn các con vật sống dưới nước.
– Trò chơi “ Ai nhanh nhất” chọn hình ảnh động vật, thực vật có từ biển.
– Làm đồ chơi từ vỏ ốc, vỏ sò biển.
– Ghép hình con vật ở biển bé thích bằng lá cây.
– Tạo thảm có, vườn hoa trên bờ biển.
– Khám phá khoa học
+ Trò chuyện về phương tiện giao thông đường thủy.
– Âm nhạc: Hát “ Em đi chơi thuyền”, “ Bạn ơi có biết”
– Văn học:
+ Kể chuyện: Một chuyến tham quan
+ Đọc thơ: Cô dạy con
– LQVT: Đếm các loại phương tiện giao thông trên biển.
– Tạo hình:
+ Vẽ, cắt dán, tranh ảnh về giao thông trể biển, đảo.
+ Làm bộ sưu tập ( cắt, dán) Phương tiện giao thông trên biển.
+ Tạo hình thuyền bằng cách gấp, các nguyên liệu từ lá cây, bẹ chuối…
– Trò chơi: Chọn hành vi đúng, sai khi tham gia giao thông trên biển
5. Nước và các hiện tượng tự nhiên
* Nhận biết một số hiện tượng tự nhiên như: cát, nước, sóng biển, bão biển.
* Ý thức hành vi gữi gìn bãi biển, nước biển sạch, trong lành- Khám phá khoa học.
+ Trò chuyện về nước biển, cát, sóng biển.
– Văn học;
+ Nghe kể chuyện: Mùa hè thú Vị, vì sao nước biển lại mặn, sự tích sóng biển.
+ Đọc thơ: Mùa hè vui, sóng biển.
– Tạo hình:
+ Vẽ, xé dán bức tranh về biển.
+ Làm bộ sưu tập( Cắt dán tranh ảnh về biển đảo)
– Trò chơi: “Tai ai tinh” phân biệt âm thanh tự nhiên: Mưa, gió, sóng biển.
– Trò chơi tạo sóng biển bằng tay6. Quê hương, đất nước* Nhận biết về biển, đảo Việt Nam.
– Tên gọi, vị trí địa lí và một và đặc điểm nổi bật của một số vùng biển( Khu du lịch biển) nổi tiếng ở Việt Nam.
* Ích lợi của biển, hải đảo.
– Cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng cho con người: Cá thu, tôm cua.
– Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh cho con người: Rong, tảo.
– Khu du lịch nổi tiếng để tham quan nghỉ ngơi, tắm mát.
– Phát triển các nghề.
– Giao thông trên biển.
– Cung cấp nguồn năng lượng sạch.
– cung cấp các mỏ dầu.
* Nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường biển, hải đảo
– Do rác thải: Rác thải của mọi người khi đi du lịch xả xuống biển, do rác thải khu công nghiệp, rác thải sinh hoạt của người dân không được xử lý đổ thẳng ra biển.
– Do tràn dầu: tàu bè đi lại trên biển làm tràn dầu, đắm tàu do bão, lốc.
– Do chặt phá cây: Con người chặt phá cây ven biển.
– Do khai thác cạn kiệt tài nguyên biển: Đánh bắt cá tùy tiện, khai thác các loài rong, tảo biển quá mức.
* Tham gia bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, hải đảo
– Không vứt rác thải xuống biển, đảo trong khi đi du lịch cũng như trong sinh hoạt hằng ngày.
– không bẻ cành, phá cây trồng ven biển.
– Tham gia thu gom rác thải.
– Khám phá khoa học:
+ Nhận biết biển, đảo Việt Nam.
+ Du lịch biển Việt Nam
+ Trò chuyện về môi trường biển bị ô nhiễm.
+ Xem phim tài liệu ( Tranh, ảnh, mô hình) về biển đảo Việt Nam.
+ Xem hình ảnh các hoạt động bảo vệ môi trường biển, đảo.
– Âm nhạc:
+ Hát, múa “ Bé yêu biển”, nghe hát “Biển hát chiều nay”, “ Đảo chân mây”…
– Văn học:
+ Đọc thơ: Quê em
+ Kể chuyện: Bé và cái vỏ bao ny lon.
– Tạo hình;
+ Tô màu, cắt dán làm sách tranh du lịch quê em.
+ Tổ chức chơi trò chơi: Thi xem đội nào nhanh “ Chọn hành vi đúng”, hành vi gây ô nhiễm môi trường biển, hải đảo.
* Hình thức bồi dưỡng:
– Tôi tham mưu với hiệu trưởng nhà trường mua các cuốn tài liệu có liên quan đến việc hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Trang bị cho 100% giáo viên dạy các lớp 5 tuổi tự nghiên cứu và học tập. Bồi dưỡng cho giáo viên cách truy cập hình ảnh mạng internet.
– Tạo điều kiện cho các đồng chí giáo viên 5 tuổi được tham gia đầy đủ đúng thành phần các lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài
nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi, do sở giáo dục Hà Nội và phòng giáo dục và nhà trường tổ chức.
– Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn tọa đàm về các nội dung hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi vào các hoạt động trong ngày. Đưa ra các ví dụ cụ thể để giáo viên nghiên cứu, suy nghĩ, trao đổi và rút kinh nghiệm.
– Xây dựng các giờ dạy mẫu có lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ vào tiết học phù hợp. Tổ chức kiến tập cho giáo viên học tập
* Kết quả đạt được:
– Nhà trường đã mua và phô tô nhiều tài liệu liên quan đến nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi để giáo viên, nhân viên nghiên cứu và học tập, 100% giáo viên biết cách truy cập tài liệu hình ảnh trên mạng ….
– Ban giám hiệu đã tạo điều kiện cho 100% giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 tuổi tham gia lớp tập huấn hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi do huyện Thanh Trì tổ chức ngày 13/10/2011. Nhà trường tổ chức ngày 20/10/2012 buổi tập huấn đạt kết quả tốt.
– Đã tổ chức được 8 buổi tọa đàm về các nội dung hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi vào các hoạt động trong ngày.
– Tổ chức được 15 tiết dạy và hoạt động có lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho 100% giáo viên 5 tuổi trong trường học tập và rút kinh nghiệm.
– 100% giáo viên hưởng ứng tham gia học tập tích cực và rút ra được nhiều kinh nghiệm giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Bắt đầu giáo viên đã biết cách xây dựng lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ 5 tuổi.
– 100% giáo viên đã nhận thức được cần phải giáo dục lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– 100% giáo viên đã nắm được kiến thức, kỹ năng tổ chức các hoạt động lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho
trẻ mẫu giáo 5 tuổi một cách phù hợp nhẹ nhàng có nghệ thuật, không gò bó áp đặt trẻ.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 1 )
- Bổ sung đồ dùng dạy học, phát động phong trào thi đua làm đồ dùng sáng tạo phục vụ cho việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
Đồ dùng dạy học đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết cho giáo viên thực hiện các hoạt động có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống. Nhằm giúp trẻ hình thành phát triển tư duy, ngôn ngữ, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới
xung quanh ở trẻ. Đồ dùng đưa vào dạy trẻ phải phù hợp về nội dung, đảm bảo tính thẩm mỹ cao, áp dụng có hiệu quả trong các hoạt động. Thực tế đồ dùng dạy học của các lớp mẫu giáo 5 tuổi trong nhà trường đã được đầu tư từ những năm học trước như: Ti vi, đầu đĩa, máy tính có nối mạng intenet, tranh ảnh…qua nhiều năm sử dụng nay đã cũ, hỏng chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành. Vì vậy, việc bổ sung đồ dùng dạy học và phát động phong trào thi đua làm đồ dùng dạy học sáng tạo là việc làm cần thiết, giúp giáo viên thực hiện các hoạt động giáo dục tài nguyên môi truờng biển, hải đảo cho trẻ một cách thuận tiện, dễ dàng đạt hiệu quả. Tôi đã thực hiện như sau:
* Mục đích:
– Bổ sung thêm những đồ dùng dạy học cần thiết như: Bộ tranh ảnh, lô tô, mô hình về biển, đảo Việt Nam.
– Bổ sung thêm trang thiết bị hiện đại còn thiếu và thay thế đồ dùng đã cũ, hỏng như: Ti vi màn hình phẳng, loa vi tính, nâng cấp mạng intenet, máy ảnh.
– Phát động giáo viên làm đồ dùng dạy học sáng tạo như: Thiết kế bài giảng điện tử, Làm các mô hình biển, đảo. Các loài động vật sống ở biển bằng các nguyên vật liệu sẵn có như; Xốp, ni lon, vỏ trai, vỏ hộp nhựa, bọt biển…
* Cách làm:
Ngay từ đầu năm học khi triển khai thực hiện tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi. Căn cứ vào tình hình thực tế của trường và chương trình lồng ghép nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo dạy trẻ 5 tuổi. Tôi đã đề xuất với đồng chí hiệu trưởng nhà trường trích nguồn kinh phí mua sắm những đồ dùng cần thiết cho các lớp mẫu giáo 5 tuổi như: Bộ tranh, mô hình, lô tô dạy trẻ về giáo dục biển, đảo. Màu nước, giấy màu, băng dính, bìa, súng bắn keo, giấyA0, kéo, hồ dán… để giáo viên làm đồ dùng dạy học.
Làm công tác xã hội hóa với phụ huynh học sinh, mua bổ sung đồ dùng hiện đại như: Mua 6 ti vi màn hình phẳng có chức năng kết nối vi tính, thay thế cho ti vi cũ. 6 đôi loa vi tính cho các lớp, bổ sung 3 đàn, 2 máy ảnh cho khu Quỳnh Đô và Ích Vịnh.
Phát động giáo viên thi đua làm đồ dùng dạy học sáng tạo phục vụ cho việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ 5 tuổi như: Tôi đã tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn khối 5 tuổi, đưa ra ý tưởng về thiết kế bài giảng điện tử theo các môn học của từng chủ đề là rất thiết thực, vì các nội dung dạy trẻ biển, đảo rất cần phải cho trẻ xem hình ảnh thực tế thì trẻ mới lĩnh hội được các kiến thức giáo viên truyền tải đến cho trẻ. Tôi cho giáo viên thảo luận và lựa chọn ra từng bài dạy trong các chủ đề, cần phải thiết kế bài giảng dạy trẻ. Sau đó cho các đồng chí giáo viên lựa chọn, mỗi đồng chí phụ trách một môn học để thiết kế bài giảng áp dụng dạy trẻ như: Đồng chí Hiếu (lớp A1) thiết kế hoạt động khám phá, đồng chí Hạnh (lớp A3) thiết kế bài giảng môn làm quen với toán, đồng chí Chinh (lớp A2) thiết kế bài giảng môn âm nhạc, đồng chí Thảo( lớp A4), thiết kế bài giảng môn văn học, đồng chí Loạt
( lớp A5) thiết kế bài giảng môn chữ cái. Sau khi thiết kế xong tôi cùng các đồng chí giáo viên tập hợp nhận xét góp ý sửa lại cho phù hợp rồi đi in thành một bộ bài giảng điện tử cho cả khối áp dụng thực hiện.
Bên cạnh đó tôi chỉ đạo giáo viên các lớp tăng cường làm đồ dùng sáng tạo phục vụ cho các hoạt động như: Sưu tầm các nguyên vật liệu sẵn có, vận động phụ huynh ủng hộ các phế liệu vỏ hộp, vỏ trai, vỏ sò, mút xốp…để làm mô hình biển, đảo và các loại động vật sống ở biển, để áp dụng vào dạy trẻ.
* Kết quả:
– Nhà trường đã mua cho các lớp đầy đủ các đồ dùng cần thiết như: Mỗi lớp 1 bộ tranh giáo dục về biển, đảo dạy trẻ, các vật liệu màu nước, kéo, hồ, băng dính, bìa, giấy màu chia đều cho các lớp. Mua mới 3 cái đàn Yamaha cho 3 khu.
– Phụ huynh đã ủng hộ mua 6 ti vi màn hình phẳng hãng Sony, 6 đôi loa vi tính trị giá 57.000.000 đồng.
– Giáo viên đã thiết kế được bộ bài giảng điện tử gồm 46 bài có nội dung giáo dục biển, hải đảo dạy trẻ theo các chủ đề.
– Giáo viên đã sáng tạo được 5 mô hình có nội dung giáo dục về biển, hải đảo và rất nhiều các loài động vật sống ở biển bằng các vỏ trai, lọ, xốp, vỏ sò… ứng dụng dạy trẻ trong các hoạt động.
– Phụ huynh rất tích cực ủng hộ đồ dùng phế liệu ch0o giáo viên làm đò dùng sáng tạo.
– 100% giáo viên dạy lớp 5 tuổi có thêm kĩ năng thiết kế bài giảng điện tử, say sưa làm đồ dùng dạy học.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 2 )
- Chỉ đạo giáo viên sưu tầm, sáng tác các bài hát, bài thơ, bài vè, câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
* Mục đích:
– Lựa chọn các bài hát, bài thơ, câu truyện có nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo đưa vào các chủ đề dạy trẻ phù hợp.
– Phát huy tính tích cực, sáng tạo của giáo viên.
* Cách làm:
– Phát động phong trào thi đua, khích lệ giáo viên giáo viên sưu tầm, sáng tác các bài hát, bài thơ, vè, câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ phù hợp với lứa tuổi.
– Các bài hát bài thơ, bài hát, câu truyện giáo viên sáng tác được đưa ra các buổi sinh hoạt chuyên môn cùng thảo luận, đánh giá nhận xét.
– Tôi cùng giáo viên lựa chọn các bài hát, bài thơ, câu truyện giáo viên đã sưu tầm, sáng tác, sắp xếp đưa vào từng chủ đề và các hoạt động dạy trẻ ở chủ đề đó sao cho phù hợp có hiệu quả.
* Kết quả đạt được:
– Giáo viên đã sưu tầm được 10 bài thơ, 13 bài hát, 5 câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ 5 tuổi.
VD: Một bài thơ, bài hát, câu truyện giáo viên đã sưu tầm
Bài thơ: “Nghề của bố” |
Chủ đề “ Nghề nghiệp”
Hôm bố về nhà
Cõng bé trên vai
Bố nhún, bố nhẩy
Bố bảo như là
Tàu bố ngoài khơi
Bé ngồi trên vai
Lắc lư, lắc lư
Cứ như ngồi tàu
Lướt trên biển vậy
Mẹ thương bảo bố
Lính hải quân mà
Đã về đến nhà
Còn ham làm sóng
( Trần Anh)
Bài thơ: Quê em
Chủ đề: “Quê hương, đất nước”
Quê em bên bãi biển
Phong cảnh đẹp vô cùng
Nước biển xanh mênh mông
Sóng xô tràn bãi cát.
Sớm ngày vang tiếng hát
Từng đoàn thuyền ra khơi
Chiều ngả bóng mặt trời
Thuyền về đầy ắp cá
Quên em giàu đẹp quá
Em tha thiết yêu quê.
( Sưu tầm)Bài thơ: Chú hải quân
Chủ đề “ Nghề nghiệp”
Đứng canh ngày, canh đêm
Ngoài xa vời hải đảo
Kìa bóng chú hải quân
Dưới trời xanh trứng sáo.
Mặc nắng, mưa, gió bão
Cây súng chú chắc tay
Quân thù mà ló mặt
Biển lướn sẽ vui thay
Em mong ngày khôn lớn
Sẽ vượt sóng ra khơi
Cũng cầm chắc tay súng
Giữ lấy biển lấy trời.
( Sưu tầm)
Bài thơ: Đảo xa
Chủ đề: “Quê hương, đất nước”
Đảo như con tàu
Leo lên mặt nước
Sóng lớn sóng to
Không làm đắm được
Cũng rừng cây bãi cát
Cũng giếng nước của nhà
Đảo như làng của bé
Từ đất liền trôi ra.
( Vũ Duy Thông)
Truyện: “Vì sao nước biển lại mặn”
Chủ đề : Nước và các hiện tượng tự nhiên
Truyện xưa kể rằng có một anh chàng tên là Y- a – Nich rất tốt bụng hay giúp đỡ mọi người, trong một lần giúp đỡ nhà vua, anh được đức vua tặng cho chiếc cối xay nhỏ. Các bạn biết không, đây là chiếc cối xay thần, khi bỏ bất cứ thứ gì vào cối, nó cứ xay mãi chỉ đến khi nào nó nghe được câu thần chú ” Ba ra la ta ta ” thì mới dừng lại.Y – A- Nich tốt bụng rất hay cho bạn bè mượn đồ dùng của mình , Y-a-Nich cho người bạn của mình là thuyền trưởng một con tàu lớn mượn cái cối xay và nói cho bạn biết sự mầu nhiệm của nó. Trong một lần đi biển , do gặp bão trên thuyền hết thức ăn dự trữ, chỉ còn vài hạt muối còn sót lại trong lọ, ông sực nhớ đến cái cối xay nhỏ, thế là ông ta bỏ các hạt muối còn lại vào và ra lệnh : ” Cối xay nhỏ! Ta cần xay muối và xay nhanh lên ” .
Thế là cái cối xay nhỏ cứ xay, xay ra muối trắng rất mịn, và cứ xay hoài chẳng bao lâu muối chất đóng trên tàu, ông ta hoãng hốt kêu to : ” đủ rồi! ” , nhưng vô hiệu . Cuối cùng ông ta nảy ra ý kiến : Là ném chiếc cối xay nhỏ xuống biển để cứu chiếc thuyền của mình.Từ đấy, cái cối xay nhỏ vẫn tiếp tục xay ra muối mặn cho cả biển.
(Sưu tầm)
– Tôi và giáo viên đã sáng tác được tác được 15 bài thơ, 8 bài vè, đặt lời 7 bài hát, 5 câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ 5 tuổi.
VD: Một số bài thơ, bài vè, bài hát, câu truyện tôi và giáo viên đã sáng tác:
Bài thơ: Cho con |
Chủ đề “ Gia đình”
Ba là bộ đội hải quân
Ngày đêm canh giữ, biển trời xa xôi
Mẹ là cô giáo quê tôi
Chăm lo việc lớp, đảm đang việc nhà
Còn Nam sớm tối chiều tà
Giúp mẹ được việc, đuổi gà quét sân
Lại còn việc học tự thân
Thi đua học giỏi, cháu ngoan Bác Hồ
Ba ơi ba cứ yên lòng
Đánh giặc giữ nước, giữ đảo trờimây
Có con đứng cạnh mẹ đây
Luôn ở bên mẹ, động viên sớm chiều
Giờ đây bé nhớ một điều
Ba mẹ giành cả cuộc đời cho con.
Sáng tác: Nguyễn Thu Hà
Bài thơ: Sóng biển
Chủ đề “Nước mùa hè”
Ôi rì rào rì rào
Từng đợt sóng cao trào
Dâng lên như ngọn núi
Rồi vỡ tung xòe hoa
Tan ra thành từng mảnh
Bỗng chỉ trong chớp nhoáng
Sóng đứng lặng như tờ
Chờ khi con thuyền đến
Cất tiếng nhạc du dương
Sáng tác: Nguyễn Thị Tâm
Bài vè : Chú bội đội |
Chủ đề: Nghề nghiệp
Ve vẻ vè ve
Bài vè ca ngợi
các chú bội đội
lặn lội đảo xa
Biển cả là nhà
Đảo xa là bạn
Muôn vạn trùng khơi
Chú bội đội ơi
Giành lấy bầu trời
Để cháu vui chơi
Khi ở ngoài khơi
Giữ gìn sức khỏe
Chú cứ vui vẻ
Gữi đảo Trường Sa
Bảo vệ tổ quốc
Ve vẻ vè ve
Bài vè đã hết
Sáng tác : Nguyễn Thị Dung
Bài thơ: Mùa hè vui
Chủ đề “ Nước mùa hè”
Mùa hè thích lắm bạn ơi
Được đi tắm biển, ngồi chơi thuyền bè
Điệu nhạc sóng vỗ vui ghê
Lăn tăn gợn sóng, như biển bạc sao
Lại còn người thấp người cao
Nhảy theo đợt sóng,tung cao hơn người
Mặt trời xế lặn biển khơi
Từng hàng ghế sắp,mọi người ngồichơi
Buổi sáng thì thật là vui
Tàu thuyền, tấp nập ngược xuôi kéo về
Thuyền thì đầy cá đầy tôm
Họp chợ tấp nập, mời chào đông vui
Bên kia có đám vui cười
Đuổi theo quả bóng, tiếng cười vang xa
Ơ kìa con bướm bay qua
Thì ra các bé, đang chơi thả diều
Tắm biển sảng khoái sớm chiều
Tạm biển biển nhé, hẹn hè năm sau.
Sáng tác: Nguyễn Thu Hà
Câu truyện: Mùa hè thú vị
Chủ đề: Nước và mùa hè
Ba Minh đóng quân ở đảo Trường Sa, đã gần một năm chưa lần nào được về thăm nhà, Minh nhớ Ba lắm, Minh Nói “Ước gì dịp hè này mình sẽ được gặp Ba” vừa nói xong ở trong nhà có tiếng điện thoại kêu “Reng reng…” Minh chạy ngay vào nhà nghe điện thoại. Bỗng một tiếng hét to của Minh vang lên A! Ba mình được về nghỉ phép rồi. Minh chạy một mạch ra vườn khoe với mẹ, hai mẹ con ríu rít vui mừng. Đêm hôm đó Minh thấp thỏm không sao ngủ được, mong sao đến sáng để được gặp Ba.
Sáng sớm tinh mơ khi Minh vừa tỉnh gấc, vừa nghe tiếng kêu ket két ngoài cổng Minh chạy ra ngó nhìn xem sao. Thoáng nhìn thấy Ba Minh cất tiếng chào thật to “ Con chào Ba ạ !” Minh mở cổng rồi ôm chầm lấy Ba và nói với Ba rằng:
“ Ba ơi ở nơi đảo xa, Ba có nhớ nhà không? Ba này, ở lớp con các bạn được Ba, Mẹ cho đi tắm biển thích lắm, Ba có đi tắm biển không? Ba cho con đi với nhé”
Ba tươi cười nói: “ Thế ở nhà với mẹ con có ngoan không? Có học giỏi không?”
Minh đáp: có ạ!
Thế thì ba vui lắm! hè này Ba sẽ cho cả nhà đi tắm biển sầm sơn. Hai Ba con ríu rít ngồi bên nhau kể chuyện. Sáng sớm hôm sau, chuyến đi du lịch sầm sơn của gia đình Minh bắt đầu khởi hành trên chuyến xe khách. Minh được Ba, mẹ ôm ấp vỗ về, Minh vui sướng vô cùng. Xuống đến bãi biển cả nhà Minh cùng chụp ảnh lưu niệm và đi tắm biển, Minh được Ba, Mẹ cho ngồi trên chiếc phao cá heo, Ba gữi phao cho Minh chơi, những con sóng nhỏ rập rềnh du dương chiếc phao, rồi những con sóng lớn ào ạt nối đuôi nhau kéo đến tung bọt trắng xóa trùm qua đầu làm cho Minh rất vui sướng cười tít mắt. Lúc nghỉ ngơi dạo trên bờ biển, Minh nhìn thấy rất nhiều người ăn quà bánh vứt ngay vỏ bánh, túi nilon xuống bãi biển. Minh nói với ba rằng: “ Ba ơi tất cả mọi người phải giữ cho biển luôn sạch đẹp, không vứt rác bừa bãi, phải vứt rác đúng nơi qui định, cô giáo con dạy thế Ba ạ ! Ba mỉm cười xoa đầu Mình và nói “ Con của Ba giỏi lắm”.
- Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động trong ngày của trẻ.
Các hoạt động giáo dục trẻ diễn ra trong một ngày tại trường mầm non được bắt đầu từ khi đón trẻ đến khi trả trẻ về với bố mẹ. Trong từng thời điểm diễn ra các hoạt động, giáo viên có thể lồng ghép các hoạt động có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo một cách hợp lý, tự nhiên, giúp trẻ hình thành thái độ, thói quen và kĩ năng sống tích cực.
Để giúp giáo viên biết cách lựa chọn các nội dung lồng nghép vào các thời điểm trong ngày phù hợp, tôi đã nghiên cứu xây dựng gợi ý lồng ghép các hoạt động có nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động trong chủ đề “ Quê hương, đất nước” với chủ đề nhánh: “ Đất nước Việt Nam mến yêu” để giáo viên học tập như sau:
Hoạt động trong ngày | Hoạt động tích hợp |
Hoạt động trong thời gian đón, trả trẻ.– Cô trò chuyện cho trẻ xem tranh, ảnh, video clip hình ảnh về biển, đảo Việt Nam.
– Cho trẻ đọc các bài thơ: Quê em, “ Tiếng sóng”, bài hát: Bé yêu biển, Quê hương em….Hoạt động học1. Lĩnh vực phát triển thể chất.
– Thể dục
+ Tập luyện để có sức khỏe như chú bộ đội hải quân.
+ VĐCB: Đi trên băng đầu đội bao gạo ( Tập làm công việc chuyển lương thực từ đất liền ra đảo.
+ Giáo dục dinh dưỡng: Các loài động vật sống dưới nước: Tôm, cua, cá, mực, cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho con người, cần ăn đầy đủ các chất để cho cơ thể khỏe mạnh.
2.Lĩnh vực phát triển nhận thức:
– Hoạt động khám phá:
+ Nhận biết biển, đảo Việt Nam
– Làm quen với toán:
+ Dạy trẻ lập số đếm đến 10. ( Sử dụng đối tượng đếm là chú bộ đội hải quân và tàu thủy, hoặc súng, mũ…)
3. Lĩnh Vực phát triển ngôn ngữ:
– Văn học: Đọc thơ “ Quê em”, .
4. Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ.
– Tạo hình: Vẽ về biển.
– Âm nhạc:
+ Dạy hát: Bé yêu biển
+ Nghe hát: Biển hát chiều nay
+ Trò chơi: Tạo sóng biển bằng tay.Hoạt động góc1. Góc học tập:
2. Góc phân vai:
– Chế biến các món ăn từ hải sản.
– Bán hàng: Bán thực phẩm hải sản, bán đồ chơi lưu niệm làm từ vỏ sò, vỏ ốc biển.
– Gia đình: Gia đình đi chơi du lịch biển.
3. Góc nghệ thuật:
– Vẽ, xé dán tranh về biển. Làm bộ sưu tập “ Biển quê em” cắt dán tranh, ảnh về biển đảo.
– Hát, múa VĐMH, nghe nhạc các bài hát: Bé yêu biển, mùa hè đến. biển hát chiều nay, đảo chân mây.
4. Góc thiên nhên: chơi với cát, nước.
5. Góc xây dựng: Xây dựng khu du lịch bên bờ biển.Hoạt ngoài trời– Quan sát mô hình biển
– Chơi với cát, nước, sỏi.
– Chơi với vỏ ốc, vỏ sò biển.Hoạt động chiều– Làm sách tranh về biển đảo.
– Du lịch biển, đảo qua màn ảnh nhỏ.
– Hát, múa, VĐMH các bài hát về biển, đảo quê hương.
Ngoài cách xây dựng kế hoạch mẫu một tuần của chủ đề nhánh, có nội dung tích hợp môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi cho giáo viên học tập. Nhưng thực tế nếu chỉ xây dựng không thì chưa đủ, vì người thực hiện tổ chức hoạt động truyền thụ các kiến thức đến cho trẻ lại chính là giáo viên. Để giáo viên hiểu rõ, mắt thấy, tai nghe và biết các truyền thụ kiến cho trẻ đến cho trẻ một cách hợp lý nhẹ nhàng, có nghệ thuật. Tôi và các đồng chí giáo viên dạy lớp 5 tuổi đã thường xuyên xây dựng các giờ dạy mẫu để cho giáo viên trong khối học tập.
VD1: Hoạt động khám phá xã hội: Biển Việt Nam
- Mục đích – yêu cầu.
– Trẻ nhận biết tên gọi, vị trí địa lý và một vài đặc điểm nổi bật của một số vùng biển, nước ta như: Sầm Sơn, Cửa Lò, Hạ Long…
– Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường biển: Không vứt rác xuống biển khi đi du lịch.
- Chuẩn bị:
– Bài giảng điện tử: Hình ảnh video clip về một số bãi biển gần gũi với trẻ như: Sầm Sơn ( Thanh Hóa), Cử Lò ( Nghệ An), Đồ Sơn (Hải Phòng), Hạ Long ( Quảng Ninh)…
– Ti Vi, máy vi tính, đàn nhạc ghi giai điệu bài hát; “ Bé yêu biển”, “ Biển hát chiều nay”,
– Lô tô hình ảnh hành động đúng, sai cho trẻ chơi trò chơi.
– 02 bảng, que chỉ.
- Tổ chức hoạt động.
Hoạt động của cô | Hoạt động của trẻ |
1. Ổn định tổ chức, gây hứng thú. |
– Cô cho các lớp hát, vận động bài “ Bé yêu biển”
– Cô hỏi trẻ:
+ Các con vừa hát bài gì?
+ Bài hát nhắc đến điều gì?
+ Các con đã được đi biển chưa?
– Cô giới thiệu cho trẻ đi thăm du lich biển qua màm ảnh nhỏ.
2. Nội dung chính:
a. Nhận biết biển Việt Nam
– Cho trẻ quan sát hình ảnh video clip về một số bãi biển Việt Nam như: Sầm Sơn, Đồ Sơn, Hạ Long…
– Quan sát hình ảnh biển Sầm Sơn.
– Trò chuyện cùng trẻ:
+ Đây là biển gì?
+ Con đã được đi biển Sầm Sơn chưa?
+ Con biết gì về biển này?
+ Khi ra biển con thấy những gì ?
+ Con có nhận xét gì về nước biển và sóng biển?
+ Con có cảm giác gì khi được đi tắm biển?
+ Để đảm bảo an toàn khi tắm biển cần sử dụng gì?
– Khái quát: Bãi biển Sầm Sơn ở tỉnh Thanh Hóa, đây là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Biển được khai thác với mục đích cho mọi người tắm biển. Bãi biển dài 6 km, bờ biển phẳng, sóng êm, nước trong xanh có nồng độ muối vừa phải. Biển Sầm Sơn có quang cảnh đẹp: Có du lịch trên núi, du lịch biển, du lịch văn hóa lịch sử. Du lịch sinh thái…
– Quan sát hình ảnh bãi biển Cửa lò, Hạ Long cô đặt câu hỏi gợi mở cho trẻ nêu ý kiến nhận xét.
– Mở rộng: Cho trẻ kể tên một số bãi biển khác mà trẻ biết. Cô kết hợp cho trẻ xem hình ảnh để trẻ quan sát và nêu nhận xét.
+ Muốn gữi cho bãi biển được trong xanh, sạch đẹp theo các con mọi người cần phải làm gì?
– Giáo dục: Cô giáo dục trẻ khi được đi tắm biển phải giữ gìn môi trường biển sạch sẽ: Không vứt rác xuống biển, bảo vệ cây trồng ven biển, phải gữi an toàn khi đi du lịch biển ( Không tách xa người lớn, khi tắm phải dùng phao kết hợp tắm cùng người lớn để đảm bảo an toàn)
3. Ôn luyện, củng cố.
– Trò chơi 1: Đi du lịch biển.
+ Cách chơi: Cho trẻ thi đua giữa hai đội chọn hình ảnh các hành động đúng, sai khi đi du lịch biển, bằng cách nhấn chuột trên màn hình nếu chọn đúng hình ảnh mặt cười hiện ra để chúc mừng, nếu sai mất lượt chơi.
+ Luật chơi: Thời gian chơi trong 5 giây suy nghĩ, đội nào có câu trả lời lắc chuông để giành quyền trả lời, nếu trả lời sai thì mất lượt chơi.
+ Tổ chức cho trẻ chơi 3, 4 lần.
– Trò chơi 2: Tạo bức tranh về biển
+ Cách chơi: Chia trẻ làm 2 đội chơi, cô chuẩn bị 2 khung tranh cho 2 đội và nhiều hình ảnh dời, nhiệm vụ 2 đội phải chọn các hình ảnh dời sắp xếp dán tạo thành bức tranh về biển theo ý thích và đặt tên cho bức tranh.
+ Luật chơi: Chơi theo nhóm, trò chơi bắt đầu kết thúc bằng một bản nhạc, kết thúc đội nào tạo được bức tranh về biển nhanh và đẹp sẽ chiến thắng.
* Kết thúc: Nhận xét giờ học.
=> Cho trẻ hát theo nhạc bài hát “ Mùa hè đến”
– Trẻ hát, vận động theo nhạc.
– 2 trẻ trả lời.
– 2,3 trẻ nêu ý kiến.
– Trẻ trả lời
– Trẻ quan sát.
– Tập thể, cá nhân 4, 5 trẻ trả lời.
– 4,5 trẻ nêu ý kiến
– Trẻ trả lời.
– 3,4 trẻ trả lời.
– Cho trẻ tạo sóng biển bằng tay. Trẻ trả lời.
– Trẻ lắng nghe
– Trẻ quan sát và nêu nhận xét.
– Trẻ kể tên 1 số biển trẻ biết.
– Trẻ nêu ý kiến
– Trẻ lắng nghe
– Trẻ chơi theo yêu cầu của cô.
– Trẻ lắng nghe
– Trẻ chơi thi đua giữa 2 đội.
– Trẻ hát theo nhạc
VD2: Tổ chức hoạt động góc trong chủ đề nghề nghiệp.
Tổ chức cho trẻ chơi hoạt động góc, giúp trẻ củng cố lại kiến thức đã được học. Thông qua các trò chơi thao tác vai hình thành ở trẻ thói quen tập làm người lớn. Trẻ chơi giao lưu với bạn bè phát triển ở trẻ các kĩ năng giao tiếp, tình cảm quan hệ xã hội, biết quan tâm chia sẻ cùng bạn chơi. Đây cũng là cơ hội để giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ một cách thuận tiện phù hợp. Tôi gợi ý thiết kế mẫu nội dung các góc chơi có lồng ghép giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo với nội dung cụ thể như sau:
– Góc tạo hình: + Làm chú bộ đội bằng túi nylon
+ Vẽ chú bộ độ hải quân
– Góc xây dựng: Xây doanh trại quân đội trên đảo.
– Góc bán hàng: Bán trang phục, đồ dùng của chú bộ đội hải quân.
– Góc nấu ăn: Nấu các món ăn chế biến từ hải sản.
– Góc học tập: Sắp xếp qui trình nghề làm muối.
– Góc âm nhạc: Hát, biểu diễn, nghe nhạc nghe hát các bài về chú bội độ hải quân.
Bên cạnh những cách xây dựng kế hoạch mẫu như trên, hàng tuần giáo viên phải xây dựng kế hoạch, soạn giáo án trước khi đế lớp. Vào thứ sáu hàng tuần khi duyệt giáo án mầm non, tôi thường xuyên góp ý nhận xét việc giáo viên lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt
động cho phù hợp. Bởi vì, không phải tiết dạy nào hay tổ chức hoạt động nào cũng đưa nội dung giáo dục trẻ vào các hoạt động từ đầu đến cuối hoạt động mà tùy từng hoạt động có thể giáo dục lồng ghép ở các phần như: Ổn định tổ chức, nội dung chính, giáo dục, ôn luyện củng cố, sao cho phù hợp không gò bó áp đặt, không làm nặng chương trình giáo dục trẻ.
* Kết quả đạt được
– 100% giáo viên dạy lớp 5 tuổi, đã biết cách lựa chọn nội dung lồng ghép giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo và các thời điểm trong ngày của trẻ một cách phù hợp.
– Tôi và giáo viên đã xây dựng được 15 tiết dạy và hoạt động mẫu, cho 100% giáo viên khối mẫu giáo lớn 5 tuổi học.
– Giáo viên đã có khả năng sáng tạo hình thức tổ chức hoạt động, có nghệ thuật lên lớp nhẹ nhàng, đưa nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động phù hợp có hiệu quả.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 3 )
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện tích hợp nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi.
Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện theo kế hoạch là biện pháp hết sức quan trọng trong công tác quản lý chuyên môn. Ta vẫn nói rằng: Không có kiểm tra tức là không có quản lý. Kiểm tra nhằm thu thập thông tin, điều khiển, điều chỉnh bộ máy đi đến đích. Kiểm tra nhằm thiết lập các tiêu chuẩn, đo lường kết quả thực hiện mục tiêu, phân tích và điều chỉnh các sai lệch (nếu có) nhằm làm cho bộ máy tốt hơn lên, đạt kết quả mong đợi. Kiểm tra giúp cho nhà quản lý phát hiện người làm tốt để khuyến khích động viên họ, còn người làm chưa tốt để cố gắng hơn. Kiểm tra còn giúp cho việc sai sót có thể xảy ra. Vì công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng như vậy nên người quản lý cần phải tích luỹ kinh nghiệm kiểm tra và thực hiện nghiêm túc biện pháp kiểm tra trong mọi hoạt động.
*Nội dung kiểm tra:
– Kiểm tra về nhận thức của giáo viên về nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi.
– Kiểm tra việc giáo viên xây dựng lựa chọn nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ ở một số chủ đề và các hoạt động trong ngày.
– Kiểm tra việc giáo viên sưu tầm, sáng tác các bài thơ, bài hát, câu truyện có nội dung giáo dục trẻ về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào dạy trẻ có phù hợp với trẻ 5 tuổi không.
– Kiểm tra việc giáo viên tổ chức các hoạt động tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ có phù hợp hiệu quả hay không.
* Phương pháp kiểm tra, đánh giá:
– Thăm lớp, dự giờ.
– Quan sát.
– Kiểm tra trực tiếp việc giáo viên, thực hiện các hoạt động trong ngày.
– Trò chuyện trao đổi trực tiếp với giáo viên, học sinh.
* Hình thức kiểm tra, đánh giá:
– Kiểm tra theo định kỳ.
– Kiểm tra thường xuyên.
– Kiểm tra đột xuất.
– Kiểm tra có báo trước.
* Kết quả:
– Qua thực hiện biện pháp kiểm tra, đánh giá tôi thấy hầu hết đội ngũ giáo viên 5 tuổi trong nhà trường luôn có ý thức thực hiện nghiêm túc nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ theo và kế hoạch của nhà trường đã xây dựng.
– 100% giáo viên đều có phẩm chất đạo đức tốt luôn yêu quý trẻ, thương yêu tôn trọng trẻ trong mọi hoạt động, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giáo dục trẻ.
– Qua kiểm tra tôi đã nhận thấy có một số đồng chí tiêu biểu thực hiện tốt việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi như: Đồng chí Hiếu lớp A1, đồng chí Chinh lớp A2, đồng chí Thảo lớp A3, đồng chí Hạnh, Điệp, lớp A4, đồng chí Loạt, Hiền lớp A5, đồng chí Oanh, Thủy lớp A6. Bên cạnh đó còn một số đồng chí giáo viên trẻ mới vào trường kinh nghiệm về nghệ thuật lên lớp, chưa có khả năng sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động còn hạn chế như: Đồng chí Ngân, Hương, Hiền, Hòa.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 4 )
- Tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng.
Thực hiện quyết định số 373/ QĐ- TT ngày 23/3/2010 của thủ tướng chính phủ về phê duyệt “ Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý bảo vệ phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam” với mục đích là đến năm 2015 nâng cao nhận thức đội ngũ cán bộ công chức và các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Tôi nhận thấy việc phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng cùng chung tay bảo vệ tài nguyên môi trường biển, hải đảo là rất cần thiết.
Công tác tuyên truyền có vai trò rất to lớn đối với việc thực hiện thành công hay không thành công của một hoạt động nào đó trong trường mầm non. Tuyên truyền nhằm làm cho đông đảo nhân dân, phụ huynh cộng đồng xã hội hiểu rõ về mục đích của một hoạt động hoặc một chương trình nào đó trong trường mầm non và ý thức cùng phối hợp với nhà trường để thực hiện. Chính vì vậy mà trường mầm non cần phải làm tốt công tác tuyên truyền.
Trên thực tế nhìn chung nhân dân, phụ huynh biết rất ít về kiến thức giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ. Có một số phụ huynh còn cho rằng trẻ còn nhỏ chưa cần phải giáo dục trẻ, nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo còn xa vời với trẻ không phù hợp. Muốn nhân dân, cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội trên địa bàn xã hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ. Thì trường mầm non phải “ Tự mình nói về mình” bằng nhiều hình thức tuyên truyền tốt, khéo léo, rõ ràng, rộng rãi, với nhiều hình thức, thì công tác tuyên truyền sẽ đạt hiệu quả tốt. Qua đó sẽ thu hút được nhiều trẻ đến trường, nhận được nhiều sự quan tâm ủng hộ của nhân dân của cha mẹ trẻ và cộng đồng xã hội ở địa phương để phát triển giáo dục mầm non của nhà trường. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, ngay từ đầu năm học tô đã xây dựng nội dung và các hình thức tuyên truyền về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ trong năm học như sau:
– Tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã và của các thôn với các nội dung:
+ Các nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, trú trọng với các nhiệm vụ tăng cường giáo dục nội dung về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
+ Nêu rõ nội giáo cần giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi về tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ.
+ Tầm quan trọng của công tác giáo dục trẻ ở trường mầm non.
+ Ý nghĩa của việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– Tổ chức họp phụ huynh đầu năm với các nội dung tuyên truyền:
+ Đánh giá kết quả chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, kết quả thực hiện các hoạt động của năm học trước.
+ Ý nghĩa của các hoạt động của bé ở trường mầm non, trong đó có hoạt động tích hợp giáo dục trẻ nội dung tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi là nhiệm vụ trọng tâm của năm học.
+ Thông qua các nhiệm vụ trọng tâm trong năm học, đi sâu phân tích tuyên truyền hoạt động tích hợp giáo dục trẻ nội dung tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
+ Vận động phụ huynh đóng góp tự nguyện ngoài các khoản quy định, để mua sắm trang thiết bị hiện đại để tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục trẻ.
– Tổ chức các buổi họp phụ huynh giữa năm, cuối năm để báo cáo kết quả thực hiện trong học kỳ I, năm học và kết quả lồng ghép tích hợp nội giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ.
– Xây dựng các góc tuyên truyền chung của nhà trường tại 3 khu với các nội dung:
+ Xây dựng các nội dung ở bảng tin theo từng thời chủ đề.
+ Trang bị hệ thống các biểu bảng, panô áp phích có nội dung liên quan đến chủ đề năm học và các cuộc vận động và các phong trào thi đua:
Ví dụ : “ Quyết tâm xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”
“Cùng chung tay bảo vệ môi trường biển, hải đảo Việt Nam”
“ Hãy dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất”
“Mẹ cũng là cô giáo”
+ Dán các bài thơ bài hát, có nội dung giáo dục môi trường biển hải đảo theo chủ đề, để để phụ huynh được biết và phối kết hợp cùng cô giáo dạy trẻ.
+ Dán các bài viết tuyên truyền về bảo vệ môi trường biển, hải đảo Việt Nam:
VD: Tiêu đề “Cùng chung tay bảo vệ môi trường biển, hải đảo Việt Nam”
– Hãy nhớ là nước thải sẽ chảy thẳng ra hệ thống thoát nước, không vứt rác ra đường phố và cống rãnh vì chúng có thể trôi ra biển hoặc bãi biển.
– Cố gắng tạo ra ít rác thải, hạn chế sử dụng túi nilông, nên mang theo túi vải khi mua hàng.
– Hãy nói với bạn bè và gia đình biết về mối nguy hiểm của rác thải đối với các động vật biển. Khuyến khích họ vứt rác thải vào đúng nơi quy đinh.
+ Dán ảnh của các hoạt động , các hội thi của nhà trường.
– Chỉ đạo giáo viên 5 tuổi xây dựng mỗi lớp một góc tuyên truyền với phụ huynh với các nội dung.
+ Chương trình thực hiện theo các chủ đề cho trẻ 5 tuổi.
+ Kết quả chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ qua từng giai đoạn trong năm.
+ Các nội dung cần phối hợp với phụ huynh bài viết tuyên truyền giáo dục tài nguyên môi trường về biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi như: các bài thơ, bài hát cần dạy trẻ trong chủ đề.
– Tổ chức tốt các hội thi trong năm học mời phụ huynh đến dự.
– Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, văn nghệ ở trường, tham gia biểu diễn, giao lưu với các đoàn thể ở địa phương tổ chức.
– Tổ chức tốt các ngày hội ngày lễ ở trường trong năm học như ngày: Khai giảng năm học, ngày tết trung thu, ngày 20/11, ngày tết Noel, ngày 8/3, ngày 1/6, ngày tổng kết năm học. Mời lãnh đạo xã, lãnh đạo thôn và phụ huynh đến dự.
* Kết quả:
– Với các nội dung và hình thức tuyên truyền phong phú như trên chúng tôi đã thu được kết quả như:
+ Lãnh đạo, chính quyền địa phương, nhân dân và cha mẹ trẻ trên địa bàn đã hiểu rõ được tầm quan trọng của giáo dục mầm non nói chung và nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ nói riêng; nắm được ý nghĩa của các hoạt động của bé ở trường giúp các bé phát triển một cách toàn diện, biết được các nhiệm vụ trọng tâm của năm học. Qua đó nâng cao được ý thức trách nhiệm của cha mẹ trẻ về việc phối hợp cùng cô giáo, để giáo dục trẻ nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi một cách phù hợp hiệu quả là việc làm cần thiết.
+ Phụ huynh đã có thêm hiểu biết về môi trường biển, hải đảo Việt Nam để giáo dục con tại nhà, phụ huynh có tinh thần đóng góp tự nguyện ủng hộ việc mua sắm các thiết bị hiện đại, sưu tầm các tranh ảnh có nội dung giáo dục trẻ theo chủ đề, để ứng dụng vào dạy trẻ.
+ Lãnh đạo địa phương đã tạo điều kiện mọi mặt cho công tác tuyên truyền cũng như vận động nhân dân, phụ huynh ủng hộ và đầu tư kinh phí mua sắm các đồ dùng hiện đại như ti vi màn hình phẳng, loa vi tính cho các lớp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong nhà trường đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục.
(Một số hình ảnh minh họa ở phần phụ lục ảnh 5,6 )
- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên một cách tích cực, cùng với sự kết hợp giữa bản thân tôi với giáo viên, việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi và đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
– Đã xây dựng được kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi năm học 2012-2013.
phù hợp với đặc điểm và các điều kiện của trường.
– Nhà trường đã mua và phô tô nhiều tài liệu liên quan đến việc giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi phát cho 100% các lớp 5 tuổi nghiên cứu và học tập. Ban giám hiệu đã tạo điều kiện cho 100% giáo viên 5 tuổi tham gia lớp tập huấn tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình cho trẻ 5 tuổi do phòng giáo dục, nhà trường tổ chức.
– Đã mua được đầy đủ các đồ dùng các đồ dùng cần thiết cho giáo viên làm đồ dùng dạy học như: Mỗi lớp 1 bộ tranh có nội dung giáo dục tài nguyên biển, hảo dạy trẻ, cung cấp các nguyên vật liệu cho giáo viên làm đồ dùng dạy học, mua mới 3 đàn Yamaha cho 3 khu.
– Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục với phụ huynh, trang bị được bổ sung 6 ti vi màn hình phẳng, 6 đôi loa vi tính trị giá: 57.000.000 đồng, phục vụ công tác giáo dục trẻ đảm bảo chất lượng.
– Đã phát động giáo viên sáng tạo thiết kế được một bộ bài giảng điện tử gồm 46 bài giảng các môn học có nội dung giáo dục biển, hải đảo theo từng chủ đề. Giáo viên đã sáng tạo được 5 mô hình về biển, đảo và các động vật sống dưới biển bằng các nguyên vật liệu sẵn có và các vật liệu phế thải, ứng dụng vào dạy trẻ.
– Giáo viên sưu tầm, sáng tác được 19 bài thơ, 15 bài hát, 10 câu truyện có nội dung giáo dục về tài nguyên biển, hải đảo cho trẻ phù hợp đã lựa chọn dạy trẻ vào các chủ đề ( Bên cạnh đó bản thân tôi đã sáng tác được 10 bài thơ, bài vè, 5 câu truyện, đặt lời 6 bài hát theo giai điệu bài hát, có nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ theo các chủ đề)
– Đã tổ chức được 15 tiết dạy và các hoạt động có lồng ghép nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo, cho 100% giáo viên 5 tuổi được tham gia kiến tập học hỏi kinh nghiệm.
– 100% giáo viên 5 tuổi trong trường đã nghiêm túc thực hiện việc tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ năm học 2012-2013 và đạt kết quả tốt. Giáo viên nắm được kiến thức, kỹ năng lồng ghép nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ phù hợp có nghệ thuật.
– Đã làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh và cộng đồng về nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
– 100% các lớp 5 tuổi đã xây dựng được lớp tuyên truyền tại lớp để phối hợp cùng phụ huynh giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi tại lớp.
– 100% trẻ trong trường đã có ý thức bảo vệ giữ gìn tài nguyên môi trường biển, hải đảo Việt Nam, hứng thú được đi thăm quan nghỉ mát tại các bãi biển đảo nổi tiếng ở Việt Nam.
– 05 giáo viên lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi phòng giáo dục thanh tra và 2 giáo viên đăng kí chiến sĩ thi đua cấp cơ sở được phòng giáo dục kiểm tra đánh giá xếp loại tốt.
– Bản thân tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong việc chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình mẫu giáo 5 tuổi. Tôi đã được phòng giáo dục phân công cùng tổ công tác, tham gia soạn thảo các nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình dạy trẻ mẫu giáo 5 tuổi để tập huấn cho các giáo viên 5 tuổi trong toàn huyện học tập.
– Thông qua kết quả kiểm tra thi đua năm học 2012-2013 của phòng giáo dục, chất lượng giáo dục trẻ của nhà trường được phòng giáo dục đánh giá xếp loại tốt, trường đạt trường tiên tiến cấp huyện. Nhà trường tiếp tục phấn đấu vào đầu năm học mới 2013- 2014 sẽ đón trường chuẩn quốc gia mức độ I.
Nguồn: giao an dien tu mam non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/lahj3og
Rèn kỹ năng sống hòa cùng với chăm sóc giáo dục trẻ
Rèn kỹ năng sống hòa cùng với chăm sóc giáo dục trẻ
Theo khảo sát mà Vnexpress đã thực hiện mới đây, 91% các bà mẹ Việt Nam đánh giá: trẻ em có độ tuổi từ 1- 6 tuổi có kỹ năng sống còn hạn chế. Những kỹ năng sống cơ bản của trẻ dưới 6 tuổi không chỉ bao gồm tính tự giác, dễ thích nghi, có mối quan hệ tốt với bố mẹ, những người thân trong gia đình mà còn bao gồm khả năng nhận biết cảm xúc, có sức đề kháng lại những tác động xấu của môi trường và hình thành lòng yêu mến thiên nhiên. Điều đáng lưu ý là thực trạng trẻ kém phát triển về kỹ năng sống đặc biệt phổ biến ở các gia đình thành thị. Theo chuyên gia tâm lý Lê Khanh (thành phố Hồ Chí Minh) thì cách chăm sóc và dạy dỗ của các bậc phụ huynh chính là yếu tố quyết định đến sự phát triển một số các kỹ năng sống ban đầu của trẻ.Theo ông, cách chăm sóc con trẻ của phụ huynh VN hiện nay có nhiều mâu thuẫn trong cách dạy, vừa nuông chiều lại vừa áp đặt. Nhất là còn mang nhiều tính bao bọc bằng cách hạn chế sự tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài để tránh các nguy cơ mắc bệnh, nhiễm bẩn; hay cấm đoán trẻ không được đụng chạm và khám phá các vật dụng do lo lắng trẻ bị tổn thương hoặc làm hư vỡ.
Thực tế, Bộ GD&ĐT đã đưa KNS vào chương trình học với phương châm “xây dựng trường học tích cực, HS thân thiện”. Nhưng việc và học chỉ là lồng ghép, lấp khoảng trống một cách không bài bản. Trong hầu hết các lớp học, hiện tượng trẻ thiếu mạnh dạn, tự tin chiếm đa số; buổi sáng trẻ tới trường vẫn còn tình trạng nhiều trẻ nhõng nhẽo, khóc lóc; trong giờ hoạt động chung, trẻ thường ngồi thụ động ; khi cô giáo hỏi thì rất ít trẻ mạnh dạn phát biểu nhưng khi vui chơi thì nhiều trẻ lại hưng phấn, đùa nghịch quá đà. Bên cạnh đó, môi trường tiếp xúc mở rộng sẽ mang lại nhiều mối quan hệ mới như quan hệ bạn bè trong lớp học, trường học, quan hệ với nhiều người ngoài xã hội như bạn hàng xóm…Do đó, đòi hỏi trẻ mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo lớn nói riêng phải có những phương thức tiếp cận phù hợp và thích ứng với các vấn đề xã hội mới nảy sinh đó.
Năm học 2012 – 2013 nghành giáo dục mầm non tập trung thực hiện tốt một trong các nhiệm vụ trọng tâm là “Tăng cường công tác giáo dục toàn diện …Chú trọng và tăng cường giáo dục văn hóa truyền thống, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống”. Là một giáo viên mầm non có hơn 10 năm công tác trong sự nghiệp trồng người, tôi nhận thấy những khiếm khuyết của trẻ cũng là những thách thức luôn đặt ra với những người giáo viên mầm non như tôi câu hỏi: “làm thế nào để trẻ em Việt Nam có thể tự tin đứng sánh vai với bạn bè năm châu như lòng mong mỏi của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng mong?”
Xuất phát từ những lí do trên, năm học 2012 – 2013 tôi đã mạnh dạn lồng ghép thực nghiệm sáng kiến kinh nghiệm: bước đầu rèn kĩ năng sống hòa cùng với chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo lớn A3 tại trường mầm non A Thị Trấn Văn Điển và đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lí luận
“Kỹ năng sống” có tác dụng lớn trong hình thành tư duy, nhân cách mỗi người. Đó là thái độ sống, giá trị sống căn bản, như sống trung thực, can đảm đối mặt sự thật, biết thương yêu và biết cách vượt lên nghịch cảnh, biết kiểm soát bản thân, làm chủ thời gian sống…
Kỹ năng sống gắn với thực tế, đi liền với cuộc sống các thế hệ. Ai được học, có cơ hội rèn luyện kỹ năng sống, ứng biến tích cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu, vượt qua những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực…, người đó được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, tinh thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt, 00 được thành công trong đời.
Học kỹ năng sống, vì vậy, không chỉ cần cho nhiều thế hệ, mà đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn 5 tuổi, khi các con bắt đầu bước vào giai đoạn đỉnh cao của sự ham học hỏi và tìm tòi với câu hỏi thường trực trên môi: “ Vì sao…” “Kỹ năng sống” vì vậy không nên coi là vấn đề để “lên lớp”, dạy khôn. Đó là vô số kỹ năng, cách xử thế, kinh nghiệm trực tiếp cần cập nhật.
- Cơ sở thực tiễn:
II.1.Ưu điểm: Trường mầm non A Thị trấn Văn Điển là ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 từ tháng 12-2011; trường có bề dày về kiến thức và kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ. Trong trường có đầy đủ hệ thống phòng chức năng và các phòng sinh hoạt chung cho trẻ, lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi A3 là lớp có 2/2 giáo viên đạt chuẩn, trong đó có 1 giáo viên có trình độ đại học và 1/2 giáo viên còn lại đang theo học đại học. Lớp có cơ sở vật chất khang trang, sạch đẹp đạt chuẩn quốc gia, có tập thể các bậc phụ huynh đa số luôn quan tâm đến con em mình. 100% học sinh của lớp đều đã qua lớp 3, 4 tuổi nên hầu hết có kĩ năng phục vụ và học tập tốt.
Bên cạnh đó, cũng như các trường mầm non khác trong cả nước, trường mầm non A Thị Trấn Văn Điển cũng thực hiện chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình này tạo điều kiện cho giáo viên và nhà trường xây dựng, thực hiện chương trình phù hợp với trẻ ở địa phương mình, tạo cơ hội cho nhà trường đưa ra được chương trình phù hợp với trẻ em nơi đây, gồm phần lớn là con em các gia đình làm nghề buôn bán và công nhân, trí thức. Rèn luyện kĩ năng sống đã được lồng ghép trong tổ chức các hoạt động cho trẻ song việc thực hiện đạt hiệu quả chưa cao.
II.2. Hạn chế: Vào đầu năm, rất nhiều trẻ tại lớp tôi có tính nhút nhát. Sáng đến lớp trẻ chưa tự tin chào cô giáo, trong giờ học bài thì trẻ rất ngại phát biểu ý kiến, rụt rè, ngại chia sẻ cảm xúc, nhưng đến giờ chơi thì trẻ lại hò hét rất to, nói chuyện nhiều. Lớp có tình trạng trẻ không xin đi vệ sinh nhưng lại hay tè dầm…Đến lớp trẻ im lặng, có khi cả ngày không nói gì nhưng phụ huynh chia sẻ là về nhà cháu nói rất nhiều…
III. Các biện pháp thực hiện
1.Phát triển kỹ năng giao tiếp
1.1. Nguyên nhân áp dụng:
Rèn trẻ kĩ năng giao tiếp là ý tưởng hay để giúp trẻ rèn luyện cách cư xử tốt đẹp và lịch thiệp đối với mọi người. Qua giao tiếp giúp trẻ trở nên dạn dĩ, tự tin, khuyến khích trẻ phát triển những tính cách tốt như lòng nhân ái, sự yêu thương và quan tâm đến người khác. Bình thường khi trẻ bắt đầu biết nói thì trẻ đã bắt đầu trải nghiệm và học cách giao tiếp. Như vậy, rèn trẻ kĩ năng giao tiếp, không chỉ với bố mẹ mà còn với bạn bè, người thân, cô giáo và người lạ có tác dụng giúp trẻ tự tin, biết cư xử phù hợp mọi tình huống. Tại lớp, tôi chú trọng cho trẻ giao tiếp với bạn bè, cô giáo.
1.2. Cách áp dụng:
Qua các hoạt động tại trường mầm non, trẻ đã được phát triển kĩ năng giao tiếp với cô giáo, bạn bè. Từ đây trẻ học cách giao tiếp với người lạ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở các hoạt động ăn, học, chơi tại trường thì chưa đủ, giáo viên là người hướng trẻ vào các kĩ năng giao tiếp trong tất cả các hoạt động khác, chú trọng các yếu tố như:
– Phép lịch sự: từ những trường hợp ứng xử thông thường trong sinh hoạt hàng ngày như trong bữa ăn, tiếp xúc với mọi người, giải thích để trẻ hiểu tầm quan trọng của những tính cách tốt và khuyến khích trẻ nghĩ rằng mình là người lịch thiệp. Để làm được điều đó, tôi bắt đầu từ việc đưa ra những yêu cầu thực tế với trẻ và nhẹ nhàng hướng dẫn để đưa trẻ vào nền nếp.
– Trò chuyện với trẻ về những mong muốn của cô khi con tới trường. Tôi luôn cố gắng nói chuyện với trẻ một cách tự nhiên và cởi mở về những gì tôi mong muốn ở trẻ. Bên cạnh đó tôi đặt ra những giới hạn và hướng trẻ tin rằng việc tuân theo các giới hạn đó là tốt cho bản thân trẻ. Tuy nhiên, tôi không làm điều đó một cách áp đặt. Tôi cố gắng để trẻ nghĩ rằng tôi là một người bạn lớn, đáng tin cậy của trẻ.
– Tiếp xúc với bạn bè: Tôi để ý cho trẻ tiếp xúc ngay với bạn cùng lớp, đặc biệt ngay từ khi trẻ mới vào lớp. Những buổi đầu trẻ có thể bỡ ngỡ và tỏ ra thiếu tự tin. Tôi chú ý đến những biểu hiện tâm lý của trẻ khi chơi với bạn. Tôi giúp trẻ bằng cách cho phép các trẻ cùng lớp trò chuyện nhiều hơn với bạn mới; định hướng những trẻ cùng chơi với bạn vào những trò chơi hay hoạt động mà trẻ thích và có năng khiếu; hoặc cho bé làm bạn với đồ chơi… của lớp.
Bên cạnh đó, tôi cũng trở thành một người bạn cùng chơi của trẻ, nếu cần. Tôi luôn dành những khoảng thời gian có thể để trò chuyện cùng trẻ. Đây là cơ hội để tôi hiểu những thiên hướng cá nhân của trẻ và giúp trẻ định hướng những kỹ năng giao tiếp. Đến khi trẻ có thể tự chơi với nhau một cách thuận hòa, tôi để trẻ chơi đùa một cách độc lập. Tôi luôn giữ nguyên tắc không đặt quá nhiều kỳ vọng hay yêu cầu đối với trẻ, vì trẻ sẽ cảm thấy áp lực và dễ trở nên tự ti. Thay vào đó tôi luôn lắng nghe, quan sát và cố gắng hiểu trẻ.
– Để trẻ tiếp xúc với những hình mẫu tốt:
Khi trẻ bắt đầu có xu hướng chú ý và bắt chước theo hành động của bạn khác hay của cô giáo, người lớn, tôi chú ý để trẻ tiếp xúc với những “người mẫu” mà trẻ cảm thấy yên tâm. Những tính cách tốt học được từ những cuộc tiếp xúc như vậy sẽ giúp định hình suy nghĩ và cách ứng xử của trẻ.
– Sống mẫu mực:
Những giáo viên trong lớp luôn dùng những thái độ và cách thức tích cực để cư xử với nhau. Đó là nguyên tắc vàng trong giao tiếp thông thường không chỉ trong lớp mà còn với đồng nghiệp ngoài lớp, với phụ huynh. Bất kể mục đích giao tiếp là gì, tôi luôn suy nghĩ chín chắn và thận trọng để tránh gây ra những hậu quả không hay. Trẻ sẽ học được cách cư xử đúng đắn từ ngay những người thân yêu của mình mà trước hết là người “mẹ hiền” luôn bên trẻ.
– Hướng trẻ vào các hoạt động xã hội mà trước hết là các hoạt động tập thể: Việc tham gia vào các hoạt động tập thể không chỉ giúp trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin mà còn khuyến khích trẻ phát triển những tính cách tốt như lòng nhân ái, sự yêu thương và quan tâm đến người khác. Có rất nhiều cơ hội để tôi dạy trẻ biết ý nghĩa của các hoạt động xã hội. Chẳng hạn bên cạnh việc tham gia các hoạt động chung tại trường, lớp với các bạn, tôi còn dạy trẻ thêm những việc hữu ích nho nhỏ nhưng nhiều ý nghĩa như: xếp ghế giúp các em lớp bé chuẩn bị xem văn nghệ, giúp bạn bằng cách cho bạn mượn quần áo khi bạn tè dầm mà không mang đồ … Từ những hoạt động này, trẻ có thể học được những thói quen làm điều thiện khi trưởng thành.
1.3. Kết quả
Sau thời gian áp dụng sang kiến kinh nghiệm, đa số trẻ trong lớp đã mất dần tính tự ti, trẻ trở nên hòa đồng, không chỉ với bạn mà cả với các cô giáo. Trẻ biết chia sẻ và thích được chia sẻ với cô và bạn về nhu cầu cũng như mong muốn,,, của trẻ; hiện tượng trẻ tè dầm giảm xuống không còn. Bên cạnh đó, trẻ biết quan tâm tới mọi người nhiều hơn, tính cách trẻ cũng trở nên thân ái, vui vẻ hơn.
- Phát triển kỹ năng thích nghi với môi trường
2.1. Nguyên nhân áp dụng
“Thích nghi” là yếu tố tiên quyết để con người hòa nhập vào cuộc sống bắt đầu từ khi lọt lòng mẹ. Trong thời gian sơ sinh, trẻ sống trong sự bao bọc của gia đình; dần dần, trẻ bước vào “cuộc sống xã hội” mà cuộc sống đầu tiên đó chính là trường lớp mầm non, sau đó sẽ là môi trường bên ngoài như hàng xóm, đám đông…Càng thích nghi nhanh và sớm, trẻ càng dễ hòa nhập vào cộng đồng, đó là yếu tố quan trọng giúp trẻ phát triển sự tự tin và gạt bỏ sự rụt rè nhút nhát.
2.2. Cách áp dụng
. Theo thực đơn ăn của nhà trường, trẻ được làm quen với đa dạng chế độ ăn. Và bắt đầu từ lúc vào trường, trẻ được ăn hết tất cả các món ăn có thể từ thịt, cá, trứng, tôm, cua, rau xanh, củ quả,… với khẩu phần ăn được tính toán đủ dinh dưỡng, có tính thay đổi phù hợp theo tuần, mùa. ( Phụ lục 1, trang 16)
– Thích nghi với môi trường: Theo chế độ chăm sóc giáo dục trẻ, hàng ngày trẻ được hoạt động ngoài trời với thời gian phù hợp giúp trẻ thích nghi với không khí môi trường bên ngoài, vừa giúp trẻ hấp thu Vitamin D cho da. Ngoài ra, trẻ còn được tham gia các hoạt động ngoại khóa như đi xem xiếc, đi thăm Lăng Bác…
Qua đây, tôi cũng giúp trẻ có ý thức trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp bằng cách khi đi chơi, thấy lá cây trên sân, tôi nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Tôi giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác là làm sạch sân trường. Cùng với yếu tố này, tôi cũng lồng ghép cùng với chương trình khám phá khoa học giúp trẻ hiểu sâu hơn về cách bảo vệ nguồn nước và tiết kiệm điện.
– Thích nghi với đám đông: Trong chế độ sinh hoạt hàng tuần, tôi chú ý thường xuyên cho trẻ gặp gỡ, giao lưu với các bạn lớp khác, trẻ còn được tham gia các lớp học năng khiếu giúp trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
2.3. Kết quả
Thích nghi là yếu tố không thể thiếu hòa cùng với yếu tố giao tiếp và giúp cho việc giao tiếp đạt kết quả cao. Sau 1 năm áp dụng, trẻ lớp tôi đã biết ăn đa dạng thực phẩm, nhất là trẻ đã thích ăn món rau. Trẻ cũng thích nghi tốt với môi trường bên ngoài, rất thích tham gia các hoạt động tập thể và bớt hẳn tính nhút nhát.
- Phương pháp phát triển kỹ năng tự chăm sóc bản thân
3.1. Nguyên nhân áp dụng,
Trẻ càng lớn càng cần phải có một số kĩ năng tự phục vụ mà thiết yếu nhất là kĩ năng tự xúc cơm, tự mặc quần áo và biết giữ vệ sinh cá nhân. Có kỹ năng tự chăm sóc cá nhân, trẻ sẽ có tính tự giác cao.
3.2. Cách áp dụng
Thực tế trẻ rất vụng về trong những hoạt động tự chăm sóc bản thân như rửa tay, lau mặt, uống nước, xúc cơm không rơi vãi…nhưng điều đó không có nghĩa là tôi sẽ nuông chiều trẻ. Ở tuổi mẫu giáo lớn, trẻ đã có thể thực hiện các hoạt động tự chăm sóc bản thân một cách thuần thục song có lúc trẻ lại tỏ ra lười biếng hoặc cố tình làm hỏng hoặc kéo dài mọi việc. Tôi luôn kiên nhẫn, động viên và khích lệ trẻ, đồng thời giải thích cho trẻ hiểu tác dụng của mỗi điều con biết sẽ giúp con thêm tự tin và khéo léo hơn. Với trẻ còn chậm, tôi kiên trì hướng dẫn thường xuyên trong hoạt động hàng ngày, khen ngợi khi trẻ làm tốt cũng như tạo điều kiện để trẻ thực hành thường xuyên.
3.3. Kết quả
Bằng sự kiên trì, sau thời gian áp dụng sáng kiến, trẻ đã có kĩ năng tự chăm sóc bản thân tốt hơn trước. Các hoạt động như trẻ tự xúc ăn, tự lấy đồ, biết mặc áo phù hợp mùa…đã mang tính tự giác cao. Điều đặc biệt là trẻ còn tự biết nhắc nhở hay giúp đỡ bạn khi bạn làm chưa đúng. Chính thái độ phản ứng đúng của bạn cùng lớp có tác dụng rất quan trọng giúp trẻ lần sau thực hiện có chú ý để làm đúng hơn.
- Phương pháp phát triển kỹ năng tạo niềm vui thông qua
4.1. Nguyên nhân áp dụng
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Tuy nhiên, vui chơi giúp trẻ phát triển và rèn luyện kĩ năng sống lại đòi hỏi người giáo viên phải để ý tìm tòi những biện pháp cũng như cách chơi sao cho có hiệu quả trong việc vừa giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu cũng như đạt được mục đích rèn luyện kĩ năng sống.
4.2. Cách áp dụng
Khi cho trẻ chơi, tôi luôn ghi nhớ các nguyên tắc sau:
4.2.1 Tạo ra một môi trường hấp dẫn : để đồ chơi mầm non trên giá vừa tầm tay với , bầy theo từng nhóm, từng loại và ở một góc thật tự do – thoải mái, nơi trẻ có thể làm gì tùy thích mà không bị sự ngăn cấm, hạn chế khác với các khu vực khác trong lớp. Các món đồ chơi chỉ để 1 ít bên ngoài, những món còn lại tôi cất bớt đi rồi 1 thời gian sau có thể lôi ra và cho trẻ chơi để tạo sự hứng thú mới cho trẻ. Có góc chơi cho trẻ chơi với bạn như góc xây dựng nhưng cũng có góc cho trẻ tự chơi, tự phát huy óc tưởng tượng như góc lắp ghép…
4.2.2. Chọn đồ chơi : Mỗi một lứa tuổi đều có những loại đồ chơi phù hợp và qua đó cũng giúp tôi nhận biết sự phát triển về trí tuệ của trẻ qua các món đồ chơi trong lớp mầm non mà trẻ sử dụng. Rất may mắn là trẻ lớp A3 cũng như trẻ toàn trường luôn nhận được những đồ chơi phù hợp lứa tuổi mà nhà trường cung cấp. Đồ chơi khối lớn chủ yếu là đồ chơi lắp ghép, từ đó trẻ có thể lắp ghép theo ý trẻ, phát huy óc sáng tạo và trí tưởng tượng cho trẻ. Tuy nhiên tôi vẫn chú ý lựa chọn thêm những món đồ chơi cao hơn lứa tuổi của trẻ một chút vì nó sẽ kích thích sự phát triển như dạng đồ chơi lắp ghép nhiều chi tiết…
4.2.3. Đơn giản : Một món đồ chơi đơn giản như những khối gỗ cũng được bổ sung vào tủ đồ chơi lại chính là món đồ chơi giúp trẻ tưởng tượng nhiều nhất, một con búp bê đơn giản, quần áo có thể thay đổi giúp trẻ hình dung ra nhiều người , có khi đó là ông, bà, có khi là cô giáo, có khi lại là em bé thậm chí là một siêu nhân từ hành tinh khác đến … và vì thế trẻ có thể tạo ra rất nhiều tình huống khác nhau . Một chiếc xe bằng gỗ đơn giản có thể giúp trẻ nghĩ ra đủ loại xe , tùy theo trò chơi đòi hỏi hơn là một chiếc tăng, xe tải quá rõ ràng đến từng chi tiết …
4.2.4. Linh Hoạt : Một món đồ chơi có thể phù hợp với nhiều loại trò chơi khác nhau và có thể tạo ra nhiều tình huống khác nhau , các loại đồ chơi có nhiều khớp nối , có thể lắp ráp theo nhiều hình dạng khác nhau như các miếng logo chẳng hạn , cũng có thể đó là những đồ chơi mang tính công cụ như dụng cụ nấu ăn , làm vườn giúp cho trẻ có thể tập cách sử dụng chúng.
4.2.5. Sáng tạo: Từ các hộp nhựa có nắp , các ống lon nhỏ, các dĩa tròn, các khối gỗ ( từ các xưởng mộc thải ra, đã được mài thật nhẵn ) với kích thước khác nhau , các miếng mốp , bìa cat tông , các rổ nhựa cũ hay đơn giản là 1 tờ báo … tôi đều có thể dùng để cho trẻ chơi hay cùng trẻ làm thành những món đồ chơi, những cái mũ, cái ly, chiếc thuyền đơn giản và rẻ tiền mà không kém phần hấp dẫn.
Điều quan trọng hơn nữa là đồ chơi ngoài trời mầm non không dùng để thay thế vai trò cho cô giáo mà là một phương tiện giúp cô cùng chơi với con, là cách để thâm nhập vào thế giới tuổi thơ, giúp cho trẻ có thể giao tiếp với người khác và môi trường bên ngoài. Không có gì tệ hại hơn là để cho trẻ một đống đồ chơi và bỏ mặc trẻ loay hoay với các món đồ chơi xa lạ ấy, mặc dù đó là thứ trẻ đã đòi.
4.3. Kết quả
Qua chơi, trẻ rèn được óc quan sát, trí tưởng tượng…đồng thời trẻ cũng đã biết hơn về cách chơi, thỏa thuận theo nhóm. Trẻ biết chia sẻ đồ chơi cũng như cách chơi với bạn rất hòa thuận. Trẻ còn biết làm thêm đồ chơi cũng như có ý thức bảo vệ và sửa đồ chơi cùng cô. Từ đạy,vốn từ cũng như cách diễn đạt của trẻ trở nên thông minh, phong phú và nhanh nhẹn hơn.
- Phương pháp phát triển kỹ năng tự bảo vệ
5.1. Nguyên nhân áp dụng
Vòng tay cha mẹ, cô giáo có rộng bao nhiêu cũng khó có thể thực hiện được điều mong ước chở che cho trẻ suốt cuộc đời, khi trẻ ở bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào. Dạy trẻ kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ chính là phương cách hiệu quả nhất để nối rộng vòng tay yêu thương của cha mẹ, cô giáo dành cho trẻ đến trọn đời.
5.2. Cách áp dụng
Với kỹ năng tự vệ hay tự xoay xở, tôi hướng dẫn trẻ thông qua các bài học thực tế, trực quan. Ví dụ tổ chức trò chơi lái xe, giúp trẻ phân biệt đèn giao thông, cách lái xe an toàn, cách ngồi trên xe an toàn. Ngoài ra, tôi dạy trẻ biết các số điện thoại cơ bản như số điện thoại nhà, số điện thoại của ba mẹ, ông bà, nhớ địa chỉ nhà… phòng khi trẻ lạc hay cần sự giúp đỡ. Khi dạy trẻ kỹ năng sống tôi chú ý không bao giờ ép buộc trẻ khi thấy trẻ không có khả năng hoặc tỏ vẻ do dự.
Tôi cũng cùng trẻ trao đổi, xem video hình ảnh và tìm hiểu nhằm phân biệt các mối nguy hiểm, từ đây tìm ra các cách phòng chống nguy hiểm.
Các mối nguy hiểm trong nhà : Gas, Bàn ủi, Điện giật, Cửa sổ, Khói thuốc lá
Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bị bắt nạt, lạc đường.
Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, Kẹt thang máy, Chó cắn (Ong đốt), Ngộ độc Làm gì khi bị sặc, khi bị nước vào lỗ tai, khi bị côn trùng chui vào tai
Thiên tai: (động đất, sóng thần, lũ lụt, sấm sét, bị sa vào vũng lầy …)
5.3. Kết quả
Qua phần kĩ năng này, trẻ lớp tôi đã biết được cách tự giải quyết vấn đề đơn giản, hạn chế được tình trạng ỉ lại. Trẻ cũng biết được những mối nguy hiểm, cách phòng chống. Trong năm học 2012 -2013 lớp A3 không xảy ra 1 tình trạng tai nạn thương tích nào. Đó là những kết quả bước đầu tốt đẹp mà tôi thu nhận được.
- 6. Phương pháp phát triển kỹ năng làm việc đội nhóm
6.1. Nguyên nhân áp dụng,
Với lối sống tĩnh tại và ích kỉ trong thời đại ngày nay thì “làm việc” theo đội nhóm nhất định sẽ giúp trẻ thấm nhuần cảm xúc và tinh thần của cuộc sống “xã hội”. Đặc biệt với trẻ 5 tuổi, khi mà tính hiếu thắng trong trẻ là cực cao, thì qua các trò chơi tại trường sẽ giúp trẻ hiểu rằng thắng thua là một phần và là điều tất yếu của cuộc chơi. Nó sẽ giúp trẻ chấp nhận thất bại với một thái độ hoà nhã và chiến thắng với phong thái lịch sự. Ngoài ra, trẻ cũng sẽ phát triển các kĩ năng trí tuệ để giải quyết và vượt qua thất bại, những kĩ năng mà chẳng bao giờ dẫn đến những hậu quả tai hại trái lại còn làm cho trẻ thêm phấn chấn và tự tin vào chiến thắng nhưng không bị cuốn vào đó vì chiến thắng không phải là tất cả.
6.2. Cách áp dụng
Tôi sử dụng nhiều trò chơi tập thể, nhiều cơ hội để trẻ phát huy tinh thần tập thể để rèn luyện kĩ năng này. Ví dụ khi ăn cơm, tôi đặt tên cho từng bàn, động viên khuyến khích bàn số 1 (2…) ăn nhanh, ăn sạch. Điều này thôi thúc các bạn ngồi tại bàn đó phải tuân thủ nguyên tắc đồng đội để dành chiến thắng cho tập thể bàn số 1(2..) của mình. Còn qua chơi, đặc biệt các trò chơi tập thể, đội nhóm như chuyền bóng, chạy tiếp sức…trẻ phải chú ý lắng nghe bạn đội trưởng “phân công”, lắng nghe ý kiến của đồng đội khi ôm bóng theo cách nào…trẻ cũng sẽ học được cách đối phó khi chiến thắng cũng như khi thất bại. Nó cũng dạy cho trẻ cách tôn trọng đối thủ.
6.3. Kết quả
Có một câu nói rằng: hoạt động theo đội nhóm giúp trẻ khám phá ra sức mạnh của trái tim, khả năng chịu đựng của cơ thể và sự kiên nhẫn của tâm hồn. Qua những hoạt động tập thể, đội, nhóm, trẻ lớp tôi đã tiến bộ lên rất nhiều về sự tự tin, khả năng diễn đạt và chia sẻ tình cảm với bạn cùng đội. Trẻ cũng biết giúp đỡ bạn tốt hơn, quan tâm tới bạn nhiều hơn.
- Kết quả đạt được ( Phụ lục 2, trang 17)
Bảng tổng hợp kết quả:
Đầu năm ( 9/2012) | Cuối năm (3/2013) | |||
Số trẻ đạt/46hs |
% (100%)Số trẻ đạt/46hs% (100%)giao tiếp 18 39 4598thích nghi12 264496tự chăm sóc15 334393tạo niềm vui17 374496tự bảo vệ14 304291đội nhóm17 3746100
Theo kết quả được thể hiện qua biểu đồ: 6 chỉ số cơ bản thuộc kĩ năng sống đều có sự tăng lên so với đầu năm khi chưa thực hiện sáng kiến. Điều này chứng tỏ sáng kiến kinh nghiệm mầm non thật sự có hiệu quả. Bên cạnh đó, điều này còn chứng tỏ trẻ rất thích được tiếp thu và rèn luyện những kĩ năng đó.
Nguồn: giáo án mầm non
Link tải: http://tinyurl.com/lahj3og