Archive
Cô gái thông minh
Cô gái thông minh
Cô gái thông minh coi phim cô gái thông minh cô gái thông minh sẽ làm thế này cô gái thông minh vietsub xem phim cô gái thông minh jang na ra xem phim le cô gái thông minh truyện cô gái thông minh nhạc phim cô gái thông minh download phim cô gái thông minh
Ngày xưa có hai anh em, một người thì nghèo, một người thì giàu. Người em nghèo đến cả cái bát ăn cơm, cái vá múc canh, cái chén uống nước cũng chẳng có. Một lần, người anh giàu có đột nhiên đến nhà người em nghèo khổ, đưa cho em một con bò sữa và nói:
>>> Truyện mầm non chuyện chàng mồ côi
>>> Lời yêu của con truyện mầm non
– Chú hãy làm việc cho tôi ít nhiều, con bò sữa này sẽ là của chú!
Vì thế, người em nghèo đến làm việc cho người anh. Một thời gian sau, người anh đòi lại con bò:
– Đưa con bò lại cho tôi!
Người em không đồng ý:
– Anh ơi, vì con bò này, em đã làm việc cho anh mà!
– Chú làm cho tôi những gì ? Thật không đáng kể ra ! Thế mà chú hãy xem, đây là con bò như thế nào? Hãy trả lại bò cho tôi ! Hãy trả lại cho tôi!
Người em nghĩ: Không thể mất toi công sức được. Nói gì mình cũng không bằng lòng giao trả con bò. Thế là họ đến gặp một cụ già nhờ phân xử. Nhưng cụ già thì sao ? Cụ cũng không biết phải phân xử ra sao, cuối cùng cụ bèn nói với hai anh em:
– Ai trả lời đúng câu đố của ta thì con bò sẽ thuộc về người đó.
– Xin cụ hãy đưa ra câu đố, thưa cụ !
– Hãy nghe nhé: trên thế giới cái gì béo nhất, cái gì nhanh nhất, và cái gì đáng yêu nhất ? Ngày mai hãy cho ta nghe câu trả lời.
Hai anh em đi về. Trên đường về nhà, người anh giàu có nghĩ: Thực là lời mê sảng hoang đường, đây, thử đoán xem ông cụ đố gì ? Có gì có thể béo hơn con lợn của ông cụ ? Có gì có thể nhanh hơn con chó săn của ông cụ ? Có gì có thể đáng yêu hơn tiền bạc ? Con bò là của ta rồi!
Người em nghèo trở về nhà, nghĩ mãi mà vẫn không đoán ra. Anh có một người con gái tên là Masa, thấy cha mình về nhà với dáng nghĩ ngợi, cô hỏi cha:
– Bố ơi, bố có gì buồn bã thế? Ông cụ đã nói những gì ạ?
– Ông cụ đưa ra những câu đố như thế thật là bảo người ta vắt óc ra suy nghĩ.
– Câu đố gì hả bố?
– Trên thế giới cái gì béo nhất ? Cái gì nhanh nhất ? cái gì đáng yêu nhất?
– Chà, bố ơi ! các câu này dễ thôi mà ! bố cứ yên tâm nói giống lời của con là được.
Ngày hôm sau hai anh em lại đến chỗ ông cụ. Ông cụ hỏi:
– Thế nào, các anh đã đoán ra chưa?
– Chúng tôi đã đoán ra rồi, thưa cụ.
Người anh chạy đến trước, bật ra câu trả lời.
– Thưa cụ, béo nhất là con lợn nhà cụ, nhanh nhất là con chó săn của cụ, đáng yêu nhất là tiền bạc.
– Ấy, ấy, ấy ! nói bậy nào ! Nói bậy nào ! – cụ già kêu lên. – Ôi, đáp án của anh không đúng!
Lúc này người em mới lên tiếng:
– Cụ ơi, là như thế này, không có gì có thể béo hơn mẹ Đất, Người nuôi dưỡng vạn vật trên thế gian, lại đem vạn vật làm thức ăn cho con người.
– Đúng, đúng !
– ông cụ nói.
– Thế cái gì nhanh nhất nào?
– Nhanh nhất là ý nghĩ của con người, ý nghĩ của con người có thể theo gió đến bất cứ nơi đâu.
– Đúng là như vậy. Còn cái gì đáng yêu nhất?
– Đáng yêu nhất là giất ngủ say. Bất cứ ai, một khi đã ngủ say đều có thể giũ bỏ tất cả.
– Hoàn toàn đúng!
– Cụ già nói.
– Con bò là của anh rồi ! Nhưng anh phải nói cho ta biết anh tự mình nghĩ ra hay đã có ai giúp đỡ anh?
– Thưa cụ.
– Người em nghèo khổ nói.
– Tôi có một đứa con gái tên Masa, chính nó đã bảo cho tôi điều đó.
– Có việc này ư? Ta thông minh như thế, còn cô ta chỉ là cô gái bình thường, thế mà lại đoán được câu đố của ta.
Cụ suy nghĩ và quyết định thử tài cô gái này. Cụ nói với người em:
– Đây là mười quả trứng gà chín, hãy đưa cho con gái anh, bảo cô ấy đem gà mẹ ấp qua một đêm phải nở ra những con gà. Sau đó đem những con gà đó nuôi lớn, rồi con gái anh hãy giết ba con quay chín mang đến cho ta ăn sáng. Sáng mai, trước khi ta ngủ dây, anh hãy mang đến đây. Ta sẽ đợi. Nếu như không làm được thì anh và con gái anh sẽ gặp rắc rối đấy!
Người em trở về nhà và ân hận vô cùng khi đã đến nhờ ông cụ phân xử dùm. Nghĩ tới sáng mai, anh bật khóc. Người con gái thấy, chạy ra hỏi:
– Bố ơi, sao bố lại khóc ? Lời giải đáp của con đã sai sao?
– Không phải. Chúng ta gặp rắc rối rồi con ơi ! Ông cụ đưa cho con mười quả trứng gà chín, con cần phải đem trứng cho gà mẹ ấp ra gà con, yêu cầu sau một đêm gà phải nở, lại phải nuôi lớn rồi giết ba con quay lên làm bữa sáng cho ông cụ.
Cô gái sau một hồi suy nghĩ rồi đem ra một chậu cháo nói:
– Bố ơi, bố hãy đem chậu cháo đến đưa cho ông cụ, bảo với ông cụ rằng ông cụ hãy đào một cái hố, đem chậu cháo trồng xuống đó, cây mạ mọc lên, khi lúa chín rồi hãy gặt lúa về, xát thành hạt gạo, nghiền vỡ ra rồi đem đến cho những con gà nở từ những quả trứng chín này ăn.
Người em nghèo mang chậu cháo chín đưa cho ông cụ già và đem những lời con gái nói với ông cụ.
Ông cụ nhìn đi nhìn lại chậu cháo, rồi đem chậu cháo ra cho con chó nhà mình ăn. Sau đó, ông cụ tìm một rễ cây gai đưa cho người em nghèo và nói:
– Hãy cầm rễ cây gai này đưa cho con gái anh, bảo nó ngâm thật kỹ rồi phơi nắng, đập tơi, đem dệt thành một trăm tấm vải, nếu như không làm được thì lời nói kia khó mà chấp nhận được.
Người em nghèo chạy về nhà, lại khóc. Con gái anh hỏi:
– Chuyện gì nữa vậy bố?
– Con nhìn đây, ông cụ đưa cho con một rễ cây gai, yêu cầu con ngâm vào nước rồi phơi nắng, đập kỹ và phải dệt ra một trăm tấm vải.
Masa suy nghĩ rồi lấy con dao chặt một cành cây nhỏ đưa cho bố nói:
– Bố ơi, hãy đem cành cây này đưa cho ông cụ, xin ông cụ hãy làm khung cửi dùng để dệt rễ gai này.
Người em nghèo cầm cành cây đến gặp ông cụ, đem những lời con gái nói lại với ông cụ. Ông cụ nhìn đi nhìn lại cành cây nhỏ, rồi ném nó đi, trong lòng thầm nghĩ: “Xem ra đây đúng là một cô gái thông minh”. Ông cụ rất muốn gặp mặt cô gái, nhưng lại nói với người em nghèo:
– Anh hãy quay trở về nói với con gái anh, bảo cô ấy đến làm khách nhà tôi sáng mai, nhưng phải nhớ là không được đi bộ cũng không đi xe, không đi chân không cũng không đi giày, không cần đem theo lễ vật nhưng không thể thiếu lễ vật. Nếu con gái anh không đến, chắc anh biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Người em nghèo lại trở về nhà trong tâm trạng buồn rầu. Đến nhà, anh đem lời nói của ông cụ nói với con. Nghe xong, sau một hồi suy nghĩ, Masa nói với cha:
– Bố ơi ! chớ có buồn, tất cả đều tốt. Xin bố đem về cho con một con thỏ sống.
Người em nghèo ra đi, đem về một con thỏ sống.
Sáng sớm hôm sau, Masa xỏ một chân vào đôi giầy rách, còn một chân đi không. Sau đó cô lại đem theo một con chim sẻ, tìm một cái xe trượt tuyết buộc vào con dê. Cô giấu con thỏ trong nách áo, con sẻ cầm trên tay, một chân để dưới đất, một chân đặt trên xe trượt tuyết – rõ ràng con dê đi bộ thay cô. Rồi cứ như thế, cô đi đến sân nhà ông già.
Từ xa, ông cụ đã nhìn thấy một cô gái đi đến bèn gọi người hầu bảo:
– Hãy thả hai con chó săn ra.
Hai con chó săn của ông cụ chạy tới chổ cô gái, cô nhanh nhẹn thả con thỏ ra, con chó thấy con thỏ liền bỏ cô gái chạy đuổi theo con thỏ. Lúc này cô gái đã đến trước mặt cụ già, cung kính vái chào ông cụ và nói:
– Thưa cụ, đây là lễ vật cháu biếy cụ. – Nói rồi cô đưa con chim sẻ cho ông cụ.
Ông cụ vừa đưa tay đón lấy thì cô gái buông tay, con chim sẻ lập tức bay vọt từ cửa sổ ra ngoài.
Ngay lúc ấy có hai người nông dân đến kiện nhau. Ông cụ hỏi họ:
– Các anh có việc gì thế?
Một người nói:
– Sự việc là như thế này cụ ạ. Hai chúng tôi cùng ở ngoài đồng qua đêm, sáng sớm thấy con ngựa cái của tôi đã đẻ ra một con ngựa con.
Người kia nói:
– Không đúng, đó là do con ngựa của tôi đã đẻ. Xin cụ hãy sáng suốt phân xử.
Nhớ tới cô gái đang đứng đó, ông cụ bèn bảo cô gái hãy thử phân xử việc này. Đứng nghe hai người nông dân nói này giờ, cô gái cũng đã nghĩ ra một cách nên liền nói:
– Hãy buộc con ngựa con lại, đưa con ngựa mẹ từ trên xe xuống, thả ngựa mẹ ra. Con ngựa mẹ nào chạy về với con ngựa con thì đó chính là con ngựa đã sinh ra con ngựa con.
Ông cụ nghe phải bèn làm theo lời cô gái. Kết quả là có một con ngựa mẹ chạy đến với con ngựa con, còn con ngựa kia thì đứng yên không động đậy.
Ông cụ thấy cô gái thật túc trí đa mưu nên rất nể phục, tiếp đãi rất chu đáo và khi ra về đã thưởng cho cha con cô thật hậu hĩnh.
Sự tích hoa Tuy Líp
Sự tích hoa Tuy Líp
Sự tích hoa Tulip sự tích các loài hoa sự tích hoa mộc lan bài hát sự tích hoa tulip blog sự tích hoa tulip các sự tích hoa tulip sự tích hoa tuy lip ý nghĩa hoa tulip câu chuyện về hoa tulip
Bạn đã có dịp được nghe hoa trò chuyện chưa? Còn tôi, thú thật là vào một sớm đầu xuân tôi đã tình cờ được nghe hoa Tuyết trò chuyện với hoa Tuy Líp của người Udơbếch rồi. Đúng hơn là hoa Tuy Líp nói, còn hoa Tuyết thì chỉ lắng tai nghe, thi thoảng mới ngắt lời bạn bằng một vài câu hỏi.
Nhưng tốt nhất là tôi sẽ kể lần lượt cho các bạn nghe mọi chuyện. Tôi đã được một người bạn gái tặng cho mấy hạt hoa Tuy Líp tìm được trên các sườn đá Derapsan. Về mùa Thu, tôi đem những cái hạt ấy trồng trong mảnh vườn bên cạnh bức tường nhà, gần một khóm hoa Tuyết.
>>> Chuyện chàng Lút
>>> Sự tích cái chổi
Mùa Xuân, tuyết thường tan vào tháng ba, tiết trời ấm áp một cách đặc biệt. Tất cả các bông hoa Tuyết cũng như hoa Tuy Líp đều lần lượt nhú lên qua một lớp tuyết mỏng và hớn hở đón chào mùa xuân.
Vào một đêm tháng tư, tôi ngồi lại khá muộn trước một công trình mà tôi chỉ muốn làm cho xong ngay. Khi tôi đặt dấu chấm cuối cùng rồi ra mở cửa sổ, ngồi xuống chiếc ghế bành nghỉ xả hơi, hít thở luồng không khí trong lành thì ở phía chân trời đã rực lên ánh bình minh. Tôi chợt nghe có tiếng reo thanh thanh, thật tươi rói và dễ chịu, hệt như những chiếc ly pha lê chạm nhẹ vào nhau ở đâu đó.
– Xin chào
– Bông hoa Tuyết khẽ lên tiếng.
Sau đấy là giọng đáp lại hơi khô một chút:
– Chào!
– Hẳn cậu là người ở xứ khác đến khu vườn nhà chúng tớ? – Vẫn giọng nói thanh thản hỏi.
– Lần đầu tiên tôi được nở hoa ở đây.
– Vậy, chúng ta quen nhau rồi nhé. Tôi là cây hoa Tuyết.
– Còn tôi là hoa Tuy Líp.
– Cậu từ đâu tới đây?
– Từ một miền xa lắm, có tên là Udơbêkixtan.
– Ồ, cậu ở xa thật đấy – Hoa Tuyết thỏ thẻ, làm như nó đã quá biết Udơbêkixtan ở đâu và xa xôi như thế nào – Theo phong tục của vườn nhà tớ, cậu cần phải kể cho tớ nghe về chuyện của đời cậu.
– Chuyện đời mình thì ngán ngẩm lắm – Hoa Tuy Líp thở dài. Chúng tôi đã truyền đời truyền kiếp kể cho nhau nghe để không một ai trong chúng tôi quên rằng, cô bé Tuy Líp đã phải gánh chịu những bông hoa của chúng tôi phải cháy lên ngọn lửa vĩnh cửu để tưởng nhớ ai… Một ngàn năm trước đây tại một thung lũng trong núi
Derapsan có một người sống bằng nghề chăn cừu tên là Xabiđan. Ông sống rất cực khổ vì đàn cừu ông chăn dắt không phải là sở hữu của ông mà là của điền chủ Hamít. Xabiđan chỉ có đôi cánh tay lực lưỡng, một cây sáo tự khoét lấy và bảy cô con gái mắt đen huyền. Cô út có tên gọi hơi khác thường: Tuy Líp. Xabiđan rất yêu quí các con gái của mình, xong cũng đã nhiều lần ông than thở :
– Ôi, giá ta có đứa con trai….
– Vì sao ông ta lại thích con trai hơn?
– Cây hoa Tuyết hỏi.
– Vì đối với một người cha, con trai giống như đôi cánh. Còn con gái… con gái rồi sẽ đi lấy chồng, sẽ bỏ cha và để lại cho trái tim ông nỗi đơn độc và buồn rầu.
Một hôm, cô út và là cô gái đẹp nhất của người chăn cừu – nàng Tuy Líp mười tuổi, mang bữa ăn trưa đến cho cha. Để cho người cha đang mệt mỏi được khuây khỏa, nàng bèn cất tiếng hát những bài hát nàng tự nghĩ ra và nhảy những điệu múa trông thật uyển chuyển và đẹp mắt. Đôi gò má nàng cứ hồng hào thêm lên, và cặp mắt đen láy thì sáng rực như hai vì sao, không một công chúa nào có thể sánh được.
Đúng giờ khắc ấy, số phận cay nghiệt đã phái điền chủ Hamít cưỡi một con ngựa hùng dũng đến trước đàn cừu. Vừa trông thấy nàng Tuy Líp nhảy múa, gã bèn dừng ngựa lại, nấp sau mấy bụi cây nhỏ theo dõi từng động tác nhảy tuyệt diệu của cô gái kiều diễm.
Nhảy xong Tuy Líp nói với cha:
– Cha ơi, con muốn được múa hát cả đời để cho mọi người được vui sướng.
– Ôi, con yêu quí của ta – người cha lắc đầu – Con là một cô gái nghèo hèn, kiếm đâu ra những xiêm áo lụa là và những bộ y phục múa trong suốt?
Hamít rình chờ cho đến khi cô gái mang bát đĩa về nhà thì xông ra túm lấy cô đưa cô về dinh cơ nhà mình. Gã đẩy Tuy Líp vào một căn phòng kín, ở đó đã có hàng trăm cô gái đẹp đang dệt thảm. Suốt từ lúc mặt trời mọc cho đến tận hoàng hôn, Tuy Líp dầm mình trong đám bụi nhuế nhóa với công việc dệt thảm tẻ ngắt và mệt mỏi. Một mùa Hè tối tăm và tuyệt vọng đã qua. Rồi mùa Thu và mùa Đông cũng chấm hết. Nhưng khi mùa Xuân vừa đến thì nỗi buồn nhớ núi non, nhớ những con suối chảy rì rào và tiếng chim ca bỗng dày vò Tuy Líp khôn nguôi, khiến nàng phải đi đến quyết định : Hoặc là chết hoặc là trở về với tự do.
Một bữa nọ, cô gái lại bên cửa sổ phóng tầm mắt qua lỗ khe nhỏ nhìn xuống phía dưới. Nàng phát hiện ra ở ngay dưới chân cửa sổ có vô số những mảnh chai, kính vỡ – đó chính là cái bẫy, nếu tù nhân nữ nào liều mạng phá cửa sổ bỏ trốn thì sẽ bị cứa đứt chân.
Đúng lúc đó có một con chim bay đến đậu ngay bên bệ cửa sổ – đấy chính là con bồ câu trắng của người chị cả tên là Phairidôđa.
Làm thế nào để báo tin về nhà đây? Tuy Líp không biết viết, thậm chí ở nhà cũng chẳng ai biết đọc. Cô vội vã cắt ngay một mớ tóc đen của mình, dứt một vài sợi quí vẫn thường dùng để dệt thảm rồi chuyển qua khe hở cho chú bồ cầu tin cẩn. Chim tạm biệt nàng, bay đi.
Khi nhận được tin em út, Phairidôđa nghĩ nát óc tìm cách cứu em gái. Cuối cùng nàng đến gặp bà lão Turơxun. Bà lão sống đơn độc trong túp lều rách nát, ngày ngày kiếm cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Tương truyền Turơxun có thuốc phục sinh.
Turơxun nghe hết chuyện Phairidôđa kể, bà liếc nhìn mặt trăng rồi lầm bầm khấn:
– Tự do không phải thứ quà tặng mà phải đánh đổi nó bằng máu.
– Bằng máu của Tuy Líp ? – Phairidôđa sợ hãi kêu lên.
– Phải, bằng máu của Tuy Líp, bằng máu của tất cả bảy chị em nhà ngươi. Mà không chỉ có thế, còn bằng chính cả máu của tất cả những người bạn quí, của những đứa bé nghèo nàn của các ngươi nữa. Hãy nghe ta nói đây.
Sau hai đêm nữa, đến đêm thứ ba, khi mặt trăng bắt đầu mọc lúc nửa đêm, Hamít sẽ tổ chức tại dinh cơ nhà lão một bữa đại tiệc. Như thường lệ, bọn lính gác bao giờ cũng là những kẻ bị chuốc rượu say trước nhất, mặc dù sáng hôm sau họ phải trả giá bằng một cái đầu. Ngay đêm ấy, trước lúc trăng lên, chị em các ngươi và các bạn gái của Tuy Líp phải lọt được vào dinh cơ, còn chim bồ câu sẽ chỉ cho các ngươi cửa sổ phòng giam các cô gái. Hãy đi chân đất đến gần cửa sổ mà mở ra. Ta nói là phải đi chân đất. Bàn chân các ngươi sẽ bị thương vì mảnh kính. Bây giờ ta sẽ nói tại sao. Hamít nhanh chóng phát hiện ra bầy nô lệ của gã chạy trốn và gã sẽ đuổi theo. Căn cứ vào một vài vết máu, gã có thể biết một cách rõ ràng bầy nô lệ trốn đi đâu, nhưng nếu dấu vết đó lại quá nhiều thì gã sẽ lúng túng, trong khi đó có người lại đang leo lên một sườn dốc đứng mà ngựa của gã không leo được.
Phairidôđa làm tất cả những việc mà Turơxun chỉ vẽ. Những tên lính canh bị chuốc rượu say mềm không còn nhận ra các cô gái đang lén lút bỏ trốn. Sau khi bị mảnh kính cứa nát bàn chân, các cô mở cửa sổ ra và khẽ gọi Tuy Líp. Tuy Líp nhảy ào qua cửa sổ, mặc dù hai bàn chân bị thương đau nhói nàng vẫn không dám kêu ca. Các bạn gái của nàng cũng chịu những đau đớn như thế.
Các cô gái chạy toán loạn theo sườn núi. Dù hai bàn chân bị thương, phải chạy một cách khó khăn, các cô vẫn không dám rên rỉ, vì nếu để lộ, các cô sẽ mất tự do, một món quà mà các cô phải đổi bằng một giá quá đắt. Các cô cứ men theo sườn núi đá còn phủ tuyết mà chạy cho đến khi nghe rõ những tiếng vó ngựa dồn dập.
– Hamít đang đuổi theo chúng ta đấy!
– Tuy Líp hét lên, giục mọi người
– hãy chạy nhanh lên!
Các cô gái chạy trốn dường như có gió giúp sức cho họ. Tuy vậy Tuy Líp đã bắt đầu đuối sức, nàng bị rớt lại sau. Ngựa của Hamít đã ập đến sau lưng nàng. Chẳng lẽ nàng lại trở thành tù nhân của gã điền chủ không đội trời chung này, và lại không được trông thấy mặt trời cùng núi rừng nữa hay sao? “Không, thà chết trong tự do còn hơn là sống đời nô lệ!” Và, thế là Tuy Líp gieo mình xuống dưới vó ngựa. Cả bốn vó ngựa xéo lên người nàng, nhưng chính con vật đã bị khuất và bị gẫy một chân. Hamít bị thương lết về nhà lúc trời còn chưa sáng, hối hả giục lũ gia nhân đuổi bắt những kẻ trốn chạy.
Tuy Líp người đẫm máu cố gượng đứng lên, nhưng mới đi được vài bước, nàng đã khựng lại và ngã sấp xuống tuyết.
Sáng hôm sau, Hamít cùng lũ lâu la mò lên đỉnh núi cao tuyết phủ. Trước mắt chúng hiện ra một cảnh tượng kì lạ: trên bãi tuyết trắng lạnh có cơ mang những bông hoa đỏ đã bừng nở.
– Chuyện đời tôi như vậy đấy, do đó tại sao tôi lại có tên là Tuy Líp. Tuy Líp nói xong liền im lặng. Cây hoa Tuyết cũng lặng thinh.
Tôi cảm thấy sống lưng ớn lạnh. Tôi đứng dậy lấy khăn chùm kín cổ, bước ra vườn.
Lạ chưa kìa, những bông tuyết mảnh mai kia đã kịp rơi xuống và trải khắp khu vườn một lớp trắng mỏng tự khi nào vậy? Còn một chậu hoa, gần bức tường nhà có một bông Tuy Líp đỏ rực đã nở hết cỡ. Tôi cúi xuống và phát hiện ra một giọt nước mắt khá to, trong suốt, dính chặt vào chiếc cánh dưới của bông hoa Tuyết.
Hoa phụng tiên
Hoa phụng tiên
Hoa phụng tiên truyện hoa phụng tiên xem truyen hoa phụng tiên doc truyen hoa phụng tiên truyen tranh hoa phụng tiên truyen hay hoa phụng tiên hoa phung tien nhà hoa lữ phụng tiên
Niềm vui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy – nước da rám nắng, hay lam hay làm, tính tình xởi lởi. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa, chiều đến, trên đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.
Việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bông hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng không có bông hoa nào sánh được với nàng. Chính người làm vườn của trang trại cũng rất thích được ngắm nghía rừng hoa của Rôta đang độ khoe sắc. Mặc dù tên điền chủ đã mang về nhà đủ loại hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rôta thì y lại không có. Vậy nàng đã kiếm đâu ra? Rôta vừa mỉm cười vừa đáp:
>>> Kể truyện bé nghe Ba người bạn
>>> Công chúa và hạt đậu, kể truyện bé nghe
>>> truyện cổ tích Sự tích ông đầu rau
– Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho tôi đấy. Tôi không nói dối ngài đâu.
Về mùa Xuân, khi đàn chim én bay đến sớm, hy vọng tìm nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng, đưa vào trong nhà nuôi dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bầy chim thơ dại muốn đền đáp ơn huệ của nàng Rôta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười, nói:
– Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ. Chim hãy mang về cho ta!
Bầy chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với chị em vì sự phong lưu của mình. Người thì nàng cung cấp hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non. Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà nàng càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở bên cạnh là nàng không bao giờ cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.
– Con ngặt nghèo với láng giềng gần như thế để làm gì? – Mẹ phàn nàn với Rôta, nhưng nàng lại đáp, giọng dứt khoát:
– Con sẽ không cho mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.
Kexta không phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con rắn độc trong nhà và lần lượt cho chúng bú sữa của mình.
Một hôm, sau khi đã bú no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ :
– Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, còn hoa nhà bà thì không?
Kexta nổi cơn tam bành, dẫm nát hết vườn hoa của Rôta, thậm chí cả hàng rào cao bao quanh khu vườn mụ cũng phá đi.
Con rắn thứ hai ỉ eo :
– Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào là tiền!
“Ôi, tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!” Kexta như một kẻ điên khùng. Lúc ấy có một người lạ mặt đói rách ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn thứ ba xúi:
– Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!
Người lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ năm lại phun phì phì vào tai mụ những lời đường mật:
– Mẹ bà đã còng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối nhung kia mà nghỉ cho khoẻ.
Kexta nằm ườn ra giường. Con rắn thứ sáu lại khích bác bà:
– Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.
Thế là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà ở Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba toác, ruột để ngoài da.
– Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng mi hay trèo qua cửa sổ sang nhà con Rôta đó.
Mới nghe nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bên. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình địch. Nhưng con rắn thứ bảy mới là đáng gờm nhất. Nó luôn luôn rủ rỉ bên tai Kexta:
– Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn đêm họ không thể sống yên.
Và mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt cách con vật không xa lắm một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa ông ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không sao chịu nổi.
Bà chủ rắn là một con người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được. Còn Rôta, lẽ ra nàng đã lấy chồng, đã sinh con, đẻ cái và được hưởng một cuộc đời hạnh phúc, nếu không có đợt săn lùng phù thuỷ do đám chức sắc trong vùng dấy lên. Sự cố này như một làn sóng rất xa, bắt đầu từ xứ sở mặt trời lặn và kết thúc ở nơi mặt trời mọc. Lũ sai nha trong làng Rôta đem chiếu chỉ của quan trên về lập danh sách những người bị coi là phù thủy. Nhưng phù thủy ở đâu? Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho người nào có công phát giác phù thủy.
Lập tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:
– Thế là bà có dịp trả thù con Rôta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và tâu rằng chính nó là phù thủy. Bà còn được thưởng tiền nữa đấy.
Bà chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt lời vu cáo Rôta:
– Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép tà đấy! Vì sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hỏng?
Các vị chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thủy, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin bất kỳ một lời nói trung thực nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở làng quê đã trở lại bình thường.
Mùa xuân tới, bầy chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta cùng với rất nhiều loại giống hoa. Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.
Mađara, mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người ta thấy có những bông hoa đỏ như lửa mọc lên.
– Những bông hoa đáng yêu của ta! Các người khác nào cặp má hồng hào của Rôta! Các ngươi sẽ là phương thuốc thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.
Từ đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng dày vò, bà mẹ Rôta lại đem giống dầu thơm đó phân phát cho họ. Chẳng bao lâu trên khắp các cửa sổ các gia đình nghèo đều nở óng ánh những bông hoa đỏ tươi
– đấy chính là Hoa Phụng Tiên. truyện cổ thế giới
Nhà họ Đường đả hổ
Nhà họ Đường đả hổ
(Cổ tích Trung Quốc)
Xưa kia, tỉnh An Huy có một thôn ở cạnh một hòn núi nhỏ, dân cư ở đây chừng trăm nóc nhà, nhà nhà sống về nghề nông, đốn củi; họ ăn no mặc ấm, cuộc sống kể ra cũng thảnh thơi. Chẳng dè năm nọ có một con hổ dữ xuật hiện, cứ năm ba ngày bao nhiêu người và vật phải chết dưới móng vuốt của nó. Từ đó, người đốn củi sợ lên núi, người làm ruộng sợ ra cửa, nhà nhà hoảng loạn đóng cửa ở bên trong.
truyện cổ tích thế giới chọn lọc, sách truyện cổ tích giới, truyện cổ thế giới hay, truyện cổ thế giới hay nhất nghìn lẻ một đêm ebook, nghìn lẻ một đêm truyện tranh, nghìn lẻ một đêm toàn tập, nghìn lẻ một đêm audio, phim nghìn lẻ một đêm, truyện nghìn lẻ một đêm
Nhưng ngày rộng tháng dài, cứ ở mãi trong nhà cũng không thể được. Và nếu muốn có cuộc sống thảnh thơi như cũ thì chỉ còn cach phải giết con hổ dữ này. Nghe đồn có nhà họ Đường nổi tiếng giết hổ, thôn làng bèn đề cử mấy người đại diện đi mời thỉnh.
>>> truyện kể mầm non, thơ truyện mầm non
>>> Truyện mầm non chủ đề động vật
Người đánh hổ quả thực đã đến, ấy là hai cha con một già một trẻ. Cụ già thì đầu bạc phơ, lưng đã còng không có vẻ chi mạnh khỏe, còn người trẻ thì ý chừng chưa đầy mười tuổi, dáng vẻ nhút nhát thẹn thò. Bấy giờ, mọi người đều chẳng tin: Người thế này sao có thể đánh hổ, hay là họ tình nguyện đến đây để cho hổ nuốt? Song cũng không có cách chi, trước hết chỉ còn biết mời họ ở lại vậy thôi.
Sáng sớm hôm sau, cụ già cần có hai người khỏe mạnh gan dạ, một là dẫn đường, hai là dụ hổ. Mọi người tiễn họ đến ven thôn, mắt nhìn theo bốn người đi về phía trước mà trong lòng ai nấy đều lo cho ông cụ và đứa trẻ.
Bốn người đi được một đỗi, đường núi bắt đầu quanh co rậm rạp. Hai người đứng lại nói với ông cụ:
– Không dối chi lão anh hùng, con hổ ấy thường hay xuất hiện ở đây, chúng tội…
Cụ già thấy họ sợ sêt bèn mỉm cười, ông chỉ một hòn đá to, nói:
– Hai anh nấp phía dưới hòn đá ấy mà đợi, chúng tôi giết hổ xong sẽ gọi các anh.
Nói đoạn cụ dẫn đứa trẻ tiến vô phía núi sâu rừng thẩm.
Cụ già rẽ qua vòng lại quan sát trên mặt đất, rồi đi tiếp . Ông ngước đầu nhìn bốn bề, nói:
– Này con, con súc sanh ấy còn đang ngủ! Con gọi nó dậy đi.
Đứa bé chạy ra mấy bước, khom người, hay tay bưng miệng nhắm về phía rừng, cất tiếng gầm như hổ kêu “ú ùm ú ùm”.
Cụ già chậm rãi xăn tay áo, từ trong chiếc túi đeo lưng, ông lấy ra một chiếc búa, xem xét lại lưỡi búa, đoạn thủng thỉnh bước đi. Chính lúc ấy, một luồng gió nổi lên, lá cây sao động, từ trong rừng phóng vút ra một con mãnh hổ. Cụ già liền đứng lại, tay mặt ông giơ chiếc búa, hai mắt đâm đâm nhìn con hổ ấy. Đứa trẻ thì sớm đã lách tới sau lưng ông. Mãnh hổ thấy có người, hai chân trước nó chồm lên, gầm một tiếng lớn và liền nhắm cụ già vồ tới. Cụ già cầm lưỡi búa, hơi rạp người, cánh tay mặt khẽ đưa ra và lách nghiêng, chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, da bụng con mãnh hổ đã rách một đường, lại “bốp” một tiếng tiếp theo, con mãnh hổ đã nằm ngay đơ phía sau lưng ông cách năm sáu bước, máu đỏ phun đầy trên mặt đất. Cụ già chậm rãi lau sạch máu lưỡi búa, nhìn lại, đoạn giắt lưỡi búa vào túi đeo sau lưng. Ông bước tới dòm con hổ và bảo đứa con:
– Này, con hãy đi kêu họ tới khiêng đem về.
Đứa trẻ chạy đến chỗ hòn đá lớn, dáo dác tìm kiếm, nhưng chẳng thấy một ai. Chính trong lúc lạ lùng ấy, chợt nghe trong lùm cỏ có tiếng xào xạc, một chiếc đầu đầy bùn sình ló ra hỏi:
– Người bạn nhỏ, sao rồi ?
Đứa bé thấy mà không nhịn cười được, nói:
– Chú, chú ra khiêng hổ về đi !
Theo đó, một chiếc đầu khác cũng ló ra, rước lời hỏi:
-Thiệt sao ?
Đứa bé học chuyện lại, hai người bạnh miệng cười toe toét và theo cậu tới chổ đả hổ. Thoạt thấy con hổ chết nằm sóng soài to gần bằng con trâu nhỏ, hai người bất giác lè lưỡi, rúm người không dám bước tới. Lại nhìn kỹ con hổ ấy, thì ra bụng nó đã bị xẻ một đường dài, bây giờ vẫn còn ra máu.
Tin đã hổ chấn động cả thôn, già trẻ đều tới xem hổ và anh hùnh đả hổ. Mọi người hết nhìn con hổ lại nhìn cụ già và đứa trẻ đả hổ, vừa cảm kích vừa ngạc nhiên lại vừa mừng, ngạc nhiên là tại sao cụ già và đứa trẻ thế này mà có thể giết chết con hổ, mừng là đã trừ được hổ dữ, từ đây có thể sống cuộc đời yên vui.
Mọi người đều cảm kích cụ già và đứa trẻ vô cùng. Trở về thôn, họ đem tặng lễ vật rất nhiều, một mặt hỏi cách giết hổ. Cụ già nhắp một hớp trà, cười mà nói rằng:
– Nhà họ Đường đả hổ đã ba đời. Ban đầu, ông nội tôi lấy vợ không lâu, một hôm ông lên núi đốn củi, rồi bị hổ tha mất, bà nội tôi khóc đến chết đi sống lại, may là lúc đó bà đang mang thai, và không lâu bà sinh ra cha tôi. Khi cha tôi vừa biết nói, bà tôi sa lệ thuật lại tai họa về hổ cho cha tôi nghe, và khuyên cha tôi nên hạ quyết tâm vì mọi người trừ hại. Cha tôi lớn lên, người khổ công nghiên cứu cách giết hổ. Người đi thăm hỏi khắp nơi, ngày đêm dụng tâm nghiên cứu, cuối cùng đã nghĩ ra pháp môn chính mà tôi hiện đang dùng.
Nói đến đây ông cụ lấy từ trong túi ra cây búa. Búa này cán dài một thước rưỡi, lưỡi hình bầu dục, sắc bén vô cùng. Cụ già giơ cánh tay phải lên, nói tiếp:
– Cha tôi trước hết luyện cách tay, sau đó luyện mắt, luyện như vậy ròng rã trên mười năm, Không môt ngày biếng trể. Thế rồi mới bắt đầu ra tay giết hổ. Liên tiếp người giết chết ba con hổ lớn ở vùng phụ cận. Sau đó người lại đến khắp vùng núi sâu, khiến cho hổ trong vùng trăm dặm không còn dám héo lánh. Từ đó tiếng tâm cha tôi nổi như cồn, và rồi nhiều địa phương phái người tới mời, nhưng cha tôi chưa hề từ chối. Lúc cha tôi sấp mất, người căn dặn chúng tôi:
– Phải truyền bản lĩnh này lại cho đời sau. Ai không biết đã hổ, không phải là con cháu họ Đường!
Câu nói này mãi mãi được truyền, cho nên nhà họ Đường chúng tôi không ai là không biết đả hổ. Nhà họ Đường nổi danh chính là như thế.
Ông cụ kể xong, đứng lên nói:
– Các người tự do chọn mười người lực lưỡng, dùng dây kéo cánh tay tôi thử xem!
Quả thực có những thanh niên hiếu kỳ chạy đi tìm một sợi dây thừng to quấn lấy cánh tay ông cụ, và nhất tề dùng sức kéo nhưng cánh tay của ông cụ chẳng hề nhúc nhích.
Cụ già lại cười:
– Các người hãy dùng một bó chà quét qua lại trước mắt tôi xem, tôi chẳng hề nháy mắt.
Những thanh niên hiếu kỳ lại cầm bó chà tre quơ trước mắt ông cụ, có điều không đụng vào da mắt, chỉ thấy ánh mắt cụ loe lóe, tròng mắt theo bó chà quét qua quét lại mà chuyển động, không hề nháy.
Lại ở nán thêm một ngày, một già một trẻ từ biệt mọi người, họ không nhận lễ vật mà trở về nhà.
Lâm Sanh Xuân Nương
Lâm Sanh Xuân Nương
Lâm Sanh Xuân Nương cải lương lâm sanh xuân nương lâm sanh xuân nương khuyết danh phim lâm sanh xuân nương lâm sanh xuân nương 16 lâm sanh xuân nương 17 lâm sanh xuân nương tân cổ cổ tích lâm sanh xuân nương sự tích lâm sanh xuân nương
Ngày xưa, quan tổng đốc Lâm Phụng huyện Châu Thai nổi tiếng hìên đức bao nhiêu thì phu nhân Lý Phi Nương mang tiếng độc ác bấy nhiêu.
Khi quan tổng đốc qua đời, phu nhân cưới nàng Xuân Nương cho con trai là Lâm Sanh. Nhưng phu nhân không cho Lâm Sanh và Xuân Nương chung chăn gối bởi lẽ bà xem Xuân Nương như kẻtôi đòi. Thương vợ, Lâm Sanh lén mẹ đi gặp Xuân Nương ở nhà sau để an ủi, thở than.
>>> truyện kể cho bé từ nhà trẻ đến mẫu giáo
>>> Các làn điệu hát ru, dân ca, ca dao mầm non
>>> truyện mầm non sự tích hoa mào gà
Xuân Nương về làm dâu ở nhà họ Lâm đã ba năm mà chẳng có tin về, làm cho vợ chồng Tiều lão thêm lo lắng. Hai ông bà lặn lội xuống Châu Thai thăm con. Thấy vợ chồng Tiều lão nghèo, phu nhân ra chiều khinh rẻ, tiếp đón lạnh nhạt. Lúc lâu phu nhân mới cho Lâm Sanh dẫn Xuân Nương ra chào cha mẹ. Oâng bà Tiều lão sững sờ, chết lặng khi thấy Xuân Nương tìêu tuỵ, quần áo tả tơi. Tiều lão đòi bắt con về, nhưng phu nhân nào có chịu…
Không thể nào bắt Xuân Nương về được, vợ chồng Tiều lão lủi thủi ra về mà lòng già tan nát. Phu nhân tức giận quát hỏi:
– Xuân Nương, mày đã nói hành nói tỏi gì với cha mẹ mày mà ổng bả làm dữ đòi dẫn mày về?
– Xin mẹ tha thứ cho con, con đâu có dám.
– Con kia, chớ có qua mặt bà, gia nhân đánh nó cho ta.
Gia nhân nào dám cãi, đánh cho đến khi phu nhân hả giận thì Xuân Nương thịt nát xương tan. Trở về nhà, vợ chồng Tiều laõ buồn bã, thương thân con trẻ gặp bà mẹ chồng độc ác. Bỗng một đêm đang ngủ, vợ chồng Tiều lão thấy Xuân Nương hiện về báo mộng: “Cha mẹ ơi! Mẹ chồng con cho gia nhân đánh con tới chết rồi vùi xác con ngoài bờ ruộng. Con chỉ về thăm cha mẹ trong đêm daì giá lạnh mà thôi!”.
Oâng bà Tiều lão chỉ kịp kêu lên: “Lâm Sanh Xuân Nương con!…” rồi ngồi bật dậy, ông bà nhìn nhau khóc ròng.
Thương con bao nhiêu, càng giận phu nhân bấy nhiêu, con người sao quá hiểm sâu, độc ác. Vợ chồng Tiều lão làm cáo trạng lên huyện đường. Quan huyện đã nhận hối lộ của phu nhân nên xử ép vợ chồng Tiều lão:
– Con gái ông bà lâm bệnh bất kỳ tử mà chết, chứ phu nhân họ Lâm thương con dâu không hết, giết chóc làm chi, ông bà nên bỏ qua đi.
Không kêu oan đựơc ở cửa huyện đường, ông bà Tiều lão cương quyết đòi cáo trạng lên tiếp cửa trên…
Lòng thương con thúc đẩy ông bà Tiều lão vựơt qua vạn dặm đầy nguy hỉêm, thẳng tới Trường An dâng cáo trạng lên vua. Xem xong, đức vua truyền cho toà tam pháp công đồng xét xử. Đức vua truyền gọi Lâm Sanh, buộc chàng khai sự thật. Phu nhân tội ác rõ ràng, đức vua quyền đem ra xử trảm để răn kẻ ác tâm.
Động lòng hiếu tử, Lâm Sanh lìêu chết xông vào pháp trường cõng mẹ chạy thoát thân. Kiệt sức, Lâm Sanh té quỵ. Đốc tướng đem binh đuổi theo bắt đựơc, giải về trìêu.
Đức vua nổi trận lôi đình, truyền đem phu nhân chém ngay, còn Lâm Sanh giam vào ngục tối chờ ngày xét xử. Vào một đêm trăng sáng, công chúa nhàn rỗi ra dạo vừơn hoa, bỗng thấy hào quang sáng rực từ ngục tối. Công chúa bàng hoàng kinh ngạc, cùng thế nữ đến tận nôi dò xét, thấy một trang thư sinh khôi ngô tuấn tú… Vào triều, công chúa tâu lại với phụ vương những điều kỳ lạ mới thấy. Nhà vua truyền quân hầu vào ngục đem Lâm Sanh tới hầu. Muốn thử tài thơ văn của Lâm Sanh, đức vua liền ra đề. Lâm Sanh nhận lấy tờ hoa tiên, đặt bút thảo thành chương đem dâng lên. Xem xong đức vua khen ngợi vô cùng.
Đức vua ra lệnh ân xá và cho Lâm Sanh đựơc ứng thí. Lâm Sanh đỗ trạng nguyên đựơc gả công chúa. Được hiển đạt, Lâm Sanh về Châu Thai thăm nhà. Chàng thăm cố hương chưa đựơc bao lâu thì có Khâm sai đến triệu về kinh. Lúc qua trứơc mộ Xuân Nương, Lâm Sanh liền cúng hoa quả và khấn vái. Khâm sai lại giục giã lên đường, chàng đành gạt lệ ra đi.
Lòng chung thuỷ của Lâm Sanh Xuân Nương động đến trời cao. Xuân Nương nhập về với xác ở miễu đường chờ đợi sẽ được đoàn tụ với mẹ cha.
Một hôm vợ chồng Tiều lão định xuống Trường An thăm Lâm Sanh Xuân Nương. Đi một đoạn bỗng gặp một cô gái:
– Lạ quá, tôi thấy con nhỏ này sao giống tạc con Xuân Nương đó ông?
Ông cũng không tin, cho người giống con chớ con chết rồi làm sao sống lại đựơc. Nhưng Xuân Nương nhận ra cha mẹ, ôm lấy hai người mừng mừng tủi tủi.
Vợ chồng Tiều lão xuống tới Trường An, liền đưa Xuân Nương vào dinh. Tiều lão thử Lâm Sanh Xuân Nương:
– Liễu Hoa em ruột Xuân Nương, nay chị đã qua đời xin thế cô em.
Lâm Sanh Xuân Nương nói:
– Thưa nhạc phụ, một lời đã hẹn với Xuân Nương thì không khi nào con dám lỗi hẹn, để tủi lòng người đã khuất. Đây chính là vợ con.
Tiều lão khen thầm Lâm Sanh Xuân Nương quả là kẻ trượng phu son sắt một lòng. Xuân Nương cảm động kể hết sự tình. Hôm sau, Lâm Sanh đưa Xuân Nương vào bệ kiến đức vua tâu hết sự tình. Vua khuyên Lâm Sanh xử sao cho vẹn mối tình với Xuân Nương và công chúa. Nghĩ mình già yếu, đức vua chọn lấy ngày lành, truyền ngôi cho quốc trạng Lâm Sanh Xuân Nương.
Lâm Sanh Xuân Nương phong cho Xuân Nương và công chúa là hoàng hậu ngang nhau.
Tags: đồ chơi mầm non
Truyền thuyết về trái Đào
Truyền thuyết về trái Đào
(Truyện cổ Trung Quốc)
truyền thuyết về trái đào truyền thuyết trái cấm truyền thuyết liêu trai truyền thuyết liêu trai 1 truyền thuyết liêu trai 2 truyện truyền thuyết liêu trai truyền thuyết liêu trai tập 1 truyền thuyết liêu trai phần ii 1997 truyền thuyết liêu trai 1996
Lâu lắm rồi ở miền Bắc Trung Quốc nọ có một làng nhỏ nằm heo hút trên một ngọn núi cao chỉ vài gia đình sống ở đó.Trong làng ấy có một chàng trai dũng cảm với trái tim tấm lòng nhân hậu tên là Đào tử. Mọi nguời trong làng đều rất yêu mến chàng. Cũng ở trong làng ấy có một cô gái tên là Tiểu Mỹ.
>>> Sự tích bánh chưng bánh giầy
>>> Truyện mầm non Lửa, nước Mưa và con Hổ kiêu ngạo
>>> Chọn lọc những truyện kể cho bé rất hay
Tiểu Mỹ xinh đẹp, thông minh lại đàn hay hát giỏi. Đào Tử coi Tiểu Mỹ như em gái mình. Họ hay cùng nhau nói chuyện và ca hát, dần dần họ yêu nhau từ lúc nào cũng không hay. Tiểu Mỹ và Đào tử yêu nhau lắm nhưng khổ một nỗi Tiểu Mỹ lại là một nàng tiên và chẳng bao lâu nữa sẽ phải về trời. Do Tiểu Mỹ rất yêu Đào Tử nàng không muốn làm chàng đau khổ cho nên một hôm Tiểu Mỹ lạnh lùng nói với Đào Tử rằng:Thực ra người mà em yêu phải là người cực kỳ dũng cảm, nhưng anh lại không khống chế nổi tình cảm của em điều này cho thấy anh không phải là người dũng cảm nhất. Khi nào anh trở nên dũng cảm nhất em sẽ quay lai với anh.Thế rồi từ đó họ không gặp nhau nữa.
Lời nói của Tiểu Mỹ in sâu vào trong lòng Đào Tử.Chàng ở vào thế tiến thoái luỡng nan: Yêu Tiểu Mỹ nhưng nàng không yêu, cố quên nàng đi nhưng không quên nổi. Trái tim chàng lúc đập rộn ràng lúc thì băng giá. Khuôn mặt chàng đã mất dần màu máu, trái tim chàng đã bị cứng lại. Một hôm họ tình cờ gặp nhau Đào Tử nói cho Tiểu Mỹ nỗi đau khổ của mình, chàng nói với Tiểu Mỹ: ‘”Trái tim anh đã băng giá và khô cứng. Anh rất yêu em, anh yêu em bao nhiêu thì tim cứng bấy nhiêu. Anh không tin là em không yêu anh, anh chỉ muốn xem xem, trái tim em có phải vì Tình yêu mà cũng băng giá. “Sống trên cõi đời này không còn ý nghĩa gì đối với đôi trai gái này cho nên họ cùng móc trái tim của mình ra cho nhau xem và cùng chết. Nguời dân cùng làng vì cảm động trước mối tình của đôi trai gái cho nên đã chôn hai người cùng với nhau. Cùng đêm đó có một trận mưa lớn suốt đêm, dân làng nghe thấy có tiếng nói chuyện ở ngoài đường cái nhưng chẳng ai dám ra xem là có chuyện gi? Thế rồi sáng hôm sau, trên ngôi mộ của đôi trai gái mọc lêm một cái cây nhỏ, trên cây mọc đầy những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt. Hoá ra là xác của Đào Tử mọc thành cái cây .Dân làng vì để tưởng nhớ tới Đào Tử chàng trai dũng cảm đã lấy tên chàng đặt cho cái cây ấy. Còn về Tiểu Mỹ,nàng đã hoá thành nhũng bông hoa màu hồng ấy. Sau khi chết linh hồn của nàng bay về trời nhưng nàng vẫn còn lưu luyến với mối tình ở duới trần gian Vương mẫu nương nương cảm động trước tình cảm ấy đã phong cho nàng cái tên Đào hoa nương nương tượng trưng cho Tình yêu.
Hè năm đó, trên cái cây ấy kết đày những quả có có hình trái tim gắn liền với nhau.Những người biết câu chuyện này thường sợ cây Đào đau cho nên họ đợi cho quả Đào có màu đỏ và trở nên mềm thì mới ăn. Kỳ thứ trong quả Đào còn có một cái hạt cứng bảo vệ trái tim đã hoá đá. Từ năm đó trở đi nguời dân ở đây coi hoa Đào là loại hoa tượng trưng cho Tình yêu, gỗ của cây Đào dùng làm bùa tránh tà.
Tags: đồ chơi mầm non
Sự tích cái yên ngựa
Sự tích cái yên ngựa
(Truyện cổ Trung Quốc)
truyện cổ tích thế giới chọn lọc, sách truyện cổ tích giới, truyện cổ thế giới hay, truyện cổ thế giới hay nhất,
Ngày xưa có một vị quan tên là Hồ Lưu rất hung ác. Năm 62 tuổi, ông ta chết. Diêm chúa lật sổ ra thấy tội trạng còn quá nặng nên bắt buộc ông ta đầu thai làm con ngựa. Ông Hồ Lưu (tức là con ngựa), lớn kên bị tên nài bạc đãi, thúc đầu gối vào hông, cỡi không cần yên. Hồ Lưu buồn bã quá, nhịn đói không ăn cỏ, ba bốn ngày sau thì chết.
>>> Sự tích con cóc
>>> Truyện cổ tích về người cha
Diêm chúa nổi giận:
– Thằng này trốn tội! Phải đền tôi cho đủ mới được trở về đây. Tự vận như thế là ăn gian!
Bèn cho Hồ Lưu hoá thai lần nữa, đầu thai thành con chó. Hồ Lưu tủi phận nhưng không dám tự vận như trước. Anh ta nghĩ ra một kế: “Mình cứ cắn ông chủ mình, ông chủ nổi quạu, sẽ đập mình chết”. Hồ Lưu thi hành như ý định. Chủ nhà ngỡ là chó điên nên đập chết. Diêm chúa hay được, bèn sai quỷ sứ đánh vong hồn Hồ Lưu 50 hèo rồi phán:
– Mày phải đầu thai trở lại. Tội mày chưa trả hết mà mày đòi trốn hoài. Lần này, phải đầu thai trở lại làm con rắn.
Hồ Lưu liền bị nhốt trong ngục, bò tới bò lui. Sau rốt anh ta khoét hang vựơt ngục. Biết rằng tự tử hay cắn người đều là trọng tội, anh ta bèn giả bộ bò ra ngoài, nằm giữa đường mà ngủ. Tình chờ một chiếc xe ngựa chạy qua, cán rắn đứt làm đôi.
Diêm chúa phán:
– Bấy lâu nay mi cực khổ nhìêu quá rồi. Ta không nỡ hành tội nữa. Vậy thì mi đựơc phép đầu thai về dương thế để làm quan mà cai trị dân, lấy tên là Lưu Công.
Lưu Công lớn lên, học hành rất giỏi, đậu thủ khoa. Ông thường răn các người tuỳ thuộc, muốn cưỡi ngựa thì phải mang yên, mang nệm. Ý của ông là khuyên răn các người bên dưới nên tử tế đối với dân, đừng hà lạm quyền hành thúc ép mà đau khổ dân lành.
Tags: đồ chơi mầm non
Cô gái vàng
Cô gái vàng
Cô gái vàng cô gái vàng của thể thao việt nam lê bích phương cô gái vàng cô gái vàng việt cô gái vàng có nhiều tết vàng của cử tạ việt nam cô gái áo vàng cô gái tóc vàng hoe flickr cô bé tóc vàng
Ngày xưa có một nguời thợ rèn nghèo, không có nổi một túp liều để ở. Vo con anh thường xuyên đói rét. Một hôm quá quẫn trí người thợ rèn đem mấy đồng tìên cuối cùng ra mua một đoạn dây thừng, định chấm dứt cuộc đời của mình.
>>> Đôi giầy đỏ (truyện cổ Andersen)
Nguời thợ rèn vào rừng, tìm một cành cây to và treo sợi dây thừng lên. Trứơc khi cho đầu vào chiếc thòng lọng, bỗng nhiên anh ta thấy ở dưới đất hiện lên một người đàn bà da đen. Bà ta nói với người thợ rèn:
– Anh chàng thợ rèn ơi! Hãy dừng tay lại!
Người thợ rèn giật mình, buông dây thừng. Ngay lúc đó, người đàn bà da đen biến mất. Người thợ rèn không biết bà ta đi đâu, bèn cho đầu vào thòng lọng; liền đó người đàn bà da đen xuất hiện và lấy ngón tay đe doạ người thợ rèn:
– Ta đã nói với anh rồi, anh chàng thợ rèn tội nghiệp ạ! Anh phải sống chứ!
Nghe vậy, người thợ rèn tháo dây thừng quấn lại và quay về nhà. Trên đường về, anh ta tự nghĩ thầm là hiện nay ở nhà chỉ có đói khát đang chờ đợi anh. Tốt nhất là treo cổ chết còn hơn là phải chết đói! Bởi thế, người thợ rèn lại quay vào khu rừng tìm một cành cây to và ném sợ dây thừng lên, rồi buộc một chiếc thòng lọng.
Vừa lúc ấy, ở dưới đất lại xúât hiện người đàn bà da đen. Lần này, bà ta nghiêm khắc nói:
– Tại sao anh không nghe lời ta, hỡi anh chàng thợ rèn?
Người thợ rèn buồn rầu trả lời:
– Bà là ai mà tôi phải vâng lời bà? Gia đình tôi sắp chết cả rồi!
– Không phải chết đói cả đâu mà sợ! Tôi sắp sửa cho anh nhìêu tiền, nếu như anh muốn. Nhưng anh phải trả lại ta một cái gì trong nhà của anh mà anh chưa biết.
Quả thật, người đàn bà da đen đưa cho anh chàng thợ rèn một túi tiền. Túi quá nặng, khiến anh không thể nào vác đi một cách dễ dàng được. Anh vui vẻ cám ơn người đàn bà da đen rồi vội vã mang túi tiền về nhà.
Thấy người thợ rèn bước đi, người đàn bà dặn với:
– Anh thợ rèn ơi, đừng quên lời hứa đấy. Cái gì ở trong nhà mà anh chưa biết là thuộc về ta đấy nhé!
Người thợ rèn về đến nhà. Anh hồi hộp mở cái túi ra, thấy có rất nhìêu tìên vàng. Anh mừng rỡ không sao kể xiết.
– Cái túi tiền này đủ làm chúng ta sống hạnh phúc! Vợ người thợ rèn trông tiền vàng kêu lên và vui vẻ chỉ cho chồng thấy một đứa bé gái có mái tóc bằng vàng nằm trên tay: Đó là đứa con gái nhỏ của họ vừa mới ra đời. Trông thấy đứa bé, người thợ rèn buồn rầu, vì anh biết người đàn bà mong muốn điêu gì rồi.
Thấm thoát, đứa bé đã lên bảy tuổi và có tên là cô gái vàng. Một hôm, người dàn bà da đen đi chiếc xe ngựa cũng màu đen, đến nhà người thợ rèn.
– Ta đến đón con gái anh đây! – Bà ta vừa nói với người thợ rèn và lôi tay cô gái vàng lên xe ngựa. Mặc cho cha mẹ và chị gái các cô gái vàng khóc lóc, van xin, người đàn bà da đen vẫn không động lòng thương xót. Bà ta lấy roi đánh ngựa và chiếc xe đen chuyển bánh.
Người đàn bà da đen đưa cô gái vàng đi mãi, đi mãi. Họ đến một khu rừng rậm rạp và dừng lại trứơc một toà lâu đài màu đen đồ sộ. Bà ta nói với cô gái vàng:
– Trong lâu đài có một trăm căn phòng. Con chỉ được phép vào chín mươi chín căn phòng, trừ căn phòng cuối cùng, nếu con vào căn phòng thứ một trăm, con sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Bảy năm nữa ta sẽ quay lại đây kiểm tra sự trung thực của con.
Nói xong, người đàn bà da đen đi thẳng.
Cô gái vàng sống một mình trong lâu đài không đến nỗi khổ sở. Cô có đầy đủ thức ăn và chín mươi chín căn phòng. Cô không bước vào căn phòng thứ một trăm. Bảy năm đã trôi qua và cô không hề gặp tai nạn gì.
Một hôm, người đàn bà da đen đến và hỏi cô gái vàng:
– Con có vào thử căn phòng thứ một trăm không?
Cô gái vàng trả lời:
– Không ạ!
– Con ngoan lắm. Con đã biết nghe lời khuyên của ta. Bảy năm nữa, ta sẽ quay lại đây. Nếu con giữ được lời hứa, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Nếu con bước vào căn phòng thứ một trăm thì con sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp hơn cả cái chết đấy!
Người đàn bà da đen nói xong liền đánh xe đi và bảy năm sau mới quay lại lâu đài. Bảy năm lần thứ hai trôi đi rất nhanh. Ngày cuối cùng của kỳ hạn, người đàn bà da đen sẽ quay lại, cô gái vàng rất sung sướng vì cô đã vâng lời bà ta. Cô tin rằng, cô sẽ được bà ta trọng thưởng. Bỗng nhiên, cô gái vàng nghe thấy tiếng nhạc du dương.
– Ai chơi nhạc hay vậy?
Cô gái ngạc nhiên kêu lên. Cọ đi về phía tiếng nhạc và đến cửa căn phòng thứ một trăm, trong phòng vọng ra tiếng nhạc quyến rũ. Cô gái vàng như mất hồn, thẫn thờ mở cửa căn phòng và bỗng nhiên giật mình, đứng sững lại ở ngưỡng cửa. Trong phòng có mười hai người đàn ông da đen đang ngồi quanh bàn và người đàn ông da đen thứ mười ba đứng phía sau cánh cửa.
– Con bé kia! Con bé kia! Mày đã làm cái gì thế? Ai cho mày vào căn phòng này? – Gã đàn ông da đen thứ mười ba quát lên.
Cô gái vàng khiếp đảm, đứng nép vào cánh cửa và sợ hãi hỏi lại:
– Trời ơi, cháu phải làm gì bây giờ?
Gã dđµn ông da đen thứ mười ba gào lên:
– Mày không được nói với bất kỳ ai về chuyện chúng ta ở đây! Nếu mày không giữ mồm, giữ miệng thì mày sẽ phải chịu những hình phạt cực kỳ khủng khiếp! Thôi cút đi! Cút đi! Mày chỉ có câm lặng mới chuộc lại tội lỗi này của mày!
Cô gái vàng kinh hoàng đóng cửa lại. Ngay lúc đó, cô nghe tiếng xe ngựa ngoài sân. Người đàn bà da đen bước vào. Bà ta như đã đoán được chuyện gì, liền hỏi cô gái:
– Con đã nhìn thấy gì ở trong căn phòng thứ một trăm?
Cô gái vàng im lặng lắc đầu.
– Được rồi, nếu mày không muốn nói thì từ nay trở đi, mày sẽ trở thành một kẻ câm. Mày chỉ được phép nói với ta mà thôi!
Người đàn bà da đen đùng đùng nổi giận và đuổi cô gái vàng ra khỏi lâu đài.
Cô gái vàng ra đi mà chẳng biết mình đi đâu. Cô cứ bước đi hoài, cho đến bãi cỏ xanh. Cô ngồi xuống, nức nở khóc và thiếp đi vì mỏi mệt. Lúc ấy, nhà vua trẻ đang đi săn gần bãi cỏ. Ngài trông thấy cô gái vàng xinh đẹp đang ngủ. Nhà vua đem lòng yêu cô gái. Mặc cho cô gái bị câm, nhà vua cứ đưa về lâu đài của mình và phong nàng làm hoàng hậu.
Cô gái vàng sống hạnh phúc trong lâu đài nhà vua. Chưa đến một năm sau, cô sinh được một cậu con trai xinh đẹp, có mái tóc vàng và ngôi sao cũng bằng vàng trên trán. Cả lâu đài đều vui mừng vì có hoàng tử xinh đẹp. Ngay đêm ấy, người đàn bà da đen lần đến giường hoàng hậu và đe doạ:
– Nếu mày không thú nhận là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì ta sẽ giết chết đứa bé này!
Nghe người đàn bà da đen nói vậy, cô gái vàng hoảng sợ. Nhưng cô chỉ im lặng lắc đầu, vì cô còn nhớ rõ lo đe doạ của gã đàn ông thứ mười ba trong căn phòng thứ một trăm.
Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài hoảng sợ vì không tìm thấy hoàng tử nhỏ ở đâu. Mọi người thấy máu dính trên miệng hoàng hậu. “Có lẽ bà ta đã ăn thịt con chăng?”, những người hầu cận thì thầm nhận xét với nhau và chẳng có ai to gan nói lên những mối nghe ngờ đó. Nhà vua cũng chẳng thanh minh gì đựơc.
Năm sau, hoàng hậu sinh hạ một cô con gái có mái tóc vàng va có ngôi sao trên trán. Cả lâu đài vui mừng, nhưng ngay sau đó,ai cũng lo mất công chúa nhỏ. Nhà vua sai lính gác cẩn mật phòng hoàng hậu. Nhưng đều phí công. Đêm ấy, người đàn bà da đen lại xuát hiện. Bà ta doạ nạt hoàng hậu:
– Nếu mày không là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì tao sẽ giết con bé này!
Hoàng hậu dàn dụa nước mắt và lắc đầu. Người đàn bà da đen lìên mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài khiếp sợ. Tin đồn hoàng hậu ăn thịt con đến tai nhà vua. Nhà vua đùng đùng nổi giận và ra lệnh trị tội cô gái vàng. Nhà vua sai người đốt cháy cô gái ngoài thành phố. Cô gái vàng chỉ biết khóc. Cô bị câm nên không nói được nỗi oan ức của mình. Chẳng có ai thương hại hoàng hậu, dù hoàng hậu khóc lóc.
Tên đao phủ dẫn cô gái ra chỗ hành quyết, thì người đàn bà da đen xúât hiện. Bà ta nói với cô gái:
– Hãy thú nhận là đã vào căn phòng thứ một trăm, nếu mày còn chối thì mày phải chịu tội chết!
Cô gái vàng vẫn trơ trơ như đá, cô chỉ lắc đầu để trả lời người đàn bà da đen.
Tên đao phủ trói cô gái vào cột và chất củi đốt. Khi ngọn lửa bùng cháy dưới chân cô gái vàng, thì người đàn bà da đen bỗng nhiên quát to:
– Dập tắt lửa đi! Dập tắt lửa đi!
Nghe thấy tiếng quát, mọi người kinh ngạc. Tên đao phủ dập tắt ngọn lửa và cởi trói cho cô gái vàng. Người đàn bà da đen mang hai đứa trẻ có mái tóc vàng và có ngôi sao bằng vàng trên trán ra. Bà trao hai đứa trẻ cho cô gái vàng và nói:
– Ta nguyên là một vị tiên nữ. Vì ta đã phạm tội, nên thượng đế đày xuống trần. Ta phải tìm ra một cô gái biết im lặng trong nhiều năm, dù cô ta có bị giết, vẫn không nói một lời. Ta đã tìm ra được con. Con xứng đáng là người cùng ta trải qua nhiều thử thách dưới trần gian. Hai đứa con của con vẫn còn sống. Hôm nay ta trao lại cho con. Đó là hạnh phúc của con và cả của ta nữa, vì con đã biết im lặng. Con đã giải thoát cho các con của con và cho ta.
Nói xong người đàn bà da đen đánh xe đi thẳng.
Nhà vua kinh ngạc, không dám tin vào mắt mình. Cô gái vàng vội kể lại cho nhà vua nghe câu chuyện. Nghe xong, nhà vua cho mời hai vợ chồng người thợ rèn và các anh, các chị cô gái vàng về lâu đài. Từ đó, họ chung sống với nhau đến trọn đời.
Tags: đồ chơi mầm non
Sự tích con sư tử
Sự tích con sư tử
Sự tích con sư tử truyện tranh sự tích con sư tử đọc truyện sự tích con sư tử kể chuyện sự tích con sư tử sự tích về con sư tử con sư tử lớn nhất thế giới hình con sư tử tám con sư tử múa sư tử
Thuở xưa, có một hoàng tử mới mới lên ngôi hoàng đế. Ngay lập tức chàng muốn đi học phép thuật để củng cố đất nước. Chàng đi tìm một ông thầy bùa chú rất nổi tiếng về phép thuật để học.
Hoàng hậu rất buồn vì ý định của hoàng đế vì nàng sợ sự chia ly, vả lại trên đường đi có rất nhiều nguy hiểm, khó khăn. Nhưng chàng đã quyết và một ngày kia lên đường cùng với bốn người tuỳ tùng.
Đường đi rất khó khăn, vì phải qua những sa mạc rộng lớn và đi vào những vùng rừng sâu đầy thú dữ… nhưng vì họ quá khao khát phép thuật, quyền hành sau này, cho nên những khó khăn chẳng cản được họ.
Ba tháng cực khổ, đói và khát, hoàng đế và bạn hữu chàng đến chỗ của thầy tu. Vị thầy nầy cảm động vì sự dũng cảm của họ nên chấp nhận cho họ học nghề. Nhưng ông ra một điều kiện: họ phải hứa xử trí một cách đạo đức, không bao giờ giết sinh vật nào cả. Nếu tay họ chỉ một lần vấy máu thôi, thì tất cả phép thuật sẽ biến mất đi. Hoàng đế đồng ý.
Sau khi học những phép thuật, họ vui mừng, lên đường trở về cung điện. Nhưng đi một tháng sau, họ lạc trong một khu rừng dày đặc. Họ không nhận ra những đường xưa nữa, và thấy tất cả vật xung quanh họ đều lạ lùng. Lúc đó, hoàng hôn giăng bủa và đêm khuya bỗng nhiên ôm trùm cả phong cảnh rừng tối om. Những vòm lá ngàn cây che mịt mù cả trời đen thui, không cho thấy những ngôi sao nào để mà nhắm hướng. Xung quanh họ bắt đầu vang lên hàng trăm thứ tiếng của thú rừng.
Hoàng đế và các bạn hữu chàng bắt đầu sợ và bàn với nhau dùng phép thuật để biến thành một con thú vật rất mạnh bạo, to lớn, dữ tợn, có thể tự bảo vệ, và làm khiếp sợ những con thú khác. Vì thế, hoàng đế bắt đầu biến thành đầu một con vật, bờm tóc, như vương miện…
Ông đại tướng làm theo ngay và biến thành thân người của con động vật ấy… bốn người tùy tùng kia thì biến thành bốn chân… còn lại ông thầy địa, do dự một lúc, rồi biến thành cái đuôi. Con vật ấy có dáng đi hùng dũng như một vị vua nên các con thú rất sợ và không tấn công nó.
Hoàng đế và mấy bạn bè ở như vậy suốt cả đêm dài. Nhưng lúc gần sáng, thì có một con nai non đi qua gần đó. Con sư tử rất đói vì cả ngày chưa ăn, bỗng chìa cánh tay ra, bắt con nai bằng vuốt nhọn, và hai tay giữ mạnh, cắn cổ nai và xé thịt ăn ngon lành…
Mõm nó còn đỏ máu lúc mặt trời dần dần thức dậy. Nó muốn biến lại thành người để tiếp tục đi về cung điện. Nhưng đột nhiên nó nhớ lại là nó đã dùng phép thuật để giết một con thú vật rồi. Lúc đó nó mới biết là nó sẽ không bao giờ trở thành người lại được nữa, và luôn luôn phải sống làm kiếp con sư tử…
Sự tích hoa Antigon
Sự tích hoa Antigon
Hans Christian Andersen, bài hát truyện cổ andersen, sách truyện cổ andersen, truyện cổ andersen ebook, truyện cổ andersen toàn tập, truyện cổ andersen prc, andersen story, truyện cổ, co tich
Theo truyền thuyết Hy Lạp thì tiền thân của hoa Antigôn là một nàng công chúa xinh đêp con vua Ơđipơ và hoàng hậu Jocaxto. Ngày xưa ở vùng Thêbet, khi hoàng hậu Jocaxto sinh hạ hoàng tử Ơđipo thì nhà vua Laios được báo mộng rằng lớn lên hoàng tử sẽ giết vua cha và lấy hoàng hậu . Sợ hãi vua sai đem hoàng tử vứt bỏ một nơi thật xa. Ơđipơ được những người chăn cừu vùng Corintho đem về nuôi. Lớn lên, chàng trở thành một thanh niên tuấn tú, có sức khoẻ phi thường. Một lần vì bất hoà với một người đi đường, chàng không ngờ đó là vua cha của mình, chàng đã giết chết người đó.
>>> Sự tích hồ Gươm
>>> Cổ tích bóng đêm truyện cổ tích việt nam hay nhất
Lúc bấy giờ ở Thêbét, có một con quái vật đầu người mình sư tử (nhân sư) thường đến quấy nhiễu nhân dân. Vua Crêon, người kế nghiệp Laios trao giải thưởng: Hễ ai giết được con quái vật sẽ được truyền ngôi và lấy hoàng hậu làm vợ. Ơđipơ đã giết được con nhân sư và lên làm vua. Sau khi sinh hạ với Jocaxto được ba người con: một con gái tên là Antigôn và hai anh trai là Ereoclơ và Polynixơ, Ơđipơ được thần báo mộng về mối tình oan trái của mình.
Đau đớn và thất vọng ! Jocaxtơ treo cổ tự tử còn Ơđipơ thì chọc mù hai mắt và rời khỏi thành phố. Vua Crêon đem Polynixơ ra xử tử và cấm không một ai được đến gần. Vì thương em, Antigon đã dũng cảm đem xác em đi mai táng. Nàng bị vua Crêon giết chết. Cô vừa ngã xuống, một dây hoa rất mảnh trườn lên khỏi mặt đất. Xen giữa những chiếc lá xanh là những chùm hoa màu hồng rất đẹp, bất chấp tất cả mọi luật lệ hoa cứ vươn mãi ra khoe sắc.
Tags: thiết bị mầm non