Archive
Ba anh em
Ba anh em
ba anh em phim ba anh em ba anh em tap 1 xem phim ba anh em truyen ba anh em ba anh em sieu nhan truyen co tich ba anh em ba anh em ho luu ba anh em full
Một người có ba con trai, cả cơ nghiệp có một cái nhà. Người con nào cũng muốn sau này, khi bố mất, nhà sẽ về mình. Ông bố thì con nào cũng quí, thành ra rất phân vân, không biết tính sao cho các con vừa lòng. Bán nhà đi thì có tiền chia cho chúng, nhưng là của hương hỏa nên ông không muốn bán. Sau ông nghĩ được một kế, bảo các con:
>>> Hoa phụng tiên
– Chúng mày hãy đi chu du thiên hạ, thử gan thử sức một phen. Mỗi đứa học lấy một nghề. Đứa nào giỏi nhất, bố cho cái nhà.
Ba người con lấy làm thích lắm. Người con cả muốn trở thành thợ đóng móng ngựa, người thứ hai muốn làm thợ cạo, còn người em út muốn làm thầy dạy võ. Ba anh em hẹn nhau ngay về, rồi chia tay ra đi.
Cả ba người đều gặp được thầy giỏi truyền cho biết hết bí quyết nhà nghề. Người đóng móng ngựa được làm việc cho nhà vua và nghĩ bụng: “Phen này, chắc nhà không thoát khỏi tay mình”. Người thợ cạo được sửa tóc cho những nhà quyền quí nên chắc mẩm là được nhà. Anh học võ bị đấm nhiều miếng nhưng vẫn cắn răng chịu, nghĩ bụng: “Nếu sợ bị đấm thì bao giờ được nhà?”.
Đến hẹn, ba anh em trở về nhà. Nhưng chẳng ai biết làm thế nào để thi thố tài nghệ của mình, bèn ngồi bàn với nhau. Đương lúc ấy chợt có một chú thỏ băng qua cánh đồng. Anh thợ cạo reo lên: “May quá, thật là vừa đúng dịp”. Anh liền cầm đĩa xà phòng, đánh
bọt, đợi thỏ ta đến gần, anh vừa chạy theo vừa quét xà phòng, cạo râu thỏ mà không hề làm thỏ xầy da chút nào. Người bố khen: “Khá lắm! Nếu hai thằng kia không làm được trò gì hay hơn thế thì cho mày cái nhà”.
Một lát sau có một cỗ xe ngựa chạy qua như bay. Anh đóng móng ngựa nói: “Bố xem tài con nhé!”. Anh liền chạy đuổi theo cỗ xe, tháo bốn móng sắt của một con ngựa và thay luôn bốn móng mới trong khi ngựa vẫn phi đều. Người bố lại khen: “Mày giỏi lắm! Mày chẳng kém gì em mày. Không biết cho đứa nào cái nhà đây!”.
Lúc bấy giờ người con út mới nói:
– Thưa bố, bây giờ đến lượt con, bố cho con thử tài.
một giVừa lúc ấy trời bắt đầu mưa. Anh ta rút ngay gươm múa kín trên đầu, người không dính ọt nước nào. Trời mưa ngày càng to, anh ta múa càng hăng, áo quần vẫn khô như đứng nơi kín đáo. Người bố ngạc nhiên quá reo lên:
– Con thật là tài nhất! Thôi con được cái nhà rồi.
Hai anh cũng phục người em út lắm và đồng ý với cha. Ba anh em rất mực thương nhau nên ở cùng một nhà, mỗi người làm nghề của mình. Họ tài khéo nên kiếm được nhiều tiền. Họ sống sung sướng như vậy mãi cho đến lúc tuổi già, một người ốm chết, hai người kia buồn rầu cũng chết theo. Cả ba anh em vừa khéo vừa giỏi, lại vừa quí mến lẫn nhau, đều được chôn chung một mộ.
Chọn vợ truyện cổ grim bản gốc
Chọn vợ truyện cổ grim bản gốc
Chọn vợ kinh nghiệm chọn vợ 10 tiêu chuẩn chọn bạn đời 10 tiêu chuẩn chọn vợ chọn vợ chọn chồng tuổi canh ngọ chọn vợ như thế nào chọn vợ chọn chồng tuổi quý hợi cách chọn vợ thơ chọn vợ
Một chàng chăn chiên muốn hỏi một trong ba chị em nhà kia làm vợ. Ba cô đều xinh, anh chàng phân vân mãi, không biết nên chọn cô nào. Chàng liền hỏi ý kiến mẹ. Bà bảo:
>>> Đồ dùng đồ chơi trong lớp mầm non
– Con cứ mời cả ba cô đến ăn. Con đem đặt trước mỗi cô một miếng phó mát và để ý xem các cô cắt phó mát thế nào.
Chàng nghe lời mẹ.
Chàng thấy cô cả ăn phó mát cả cùi. Cô hai cắt cùi vội quá, để sót nhiều ruột mà cứ thế vứt đi. Cô út gọt cùi cẩn thận, không quá dày cũng không quá mỏng. Chàng chăn chiên kể lại cho mẹ nghe. Mẹ bảo:
– Con nên lấy cô út.
Chàng nghe lời, quả nhiên sống với vợ rất là sung sướng.
Câu chuyện chỉ đơn giản kể về một chàng trai được bà mẹ mách cho một diệu kế để chàng có thể chọn được một người vợ tử tế. Nhưng đã nói lên được sự khôn khéo và tế nhị của bà mẹ, đồng thời ca ngợi tính chăm chỉ, cẩn thận của người con gái.
Hanxơ sắt Truyện cổ Grim
Hanxơ sắt Truyện cổ Grim
Hanxơ sắt truyen tranh hanxơ sắt truyện tranh hanxơ sắt xem truyen hanxơ sắt đọc truyện hanxơ sắt doc truyen hanxơ sắt truyen hay hanxơ sắt xem phim hanxơ sắt
Xưa có một ông vua. Quanh cung điện của vua là một khu rừng lớn trong đó có đủ các loài dã thú. Một hôm, có một người thợ săn được vua phái vào rừng để bắn một con nai, nhưng không thấy anh ta trở về vua bảo:
– Có lẽ hắn gặp tai nạn rồi.
>>> Bàn nghế mầm non nhập khẩu, thiết bị mầm non nhập khẩu
>>> Đồ dùng đồ chơi trong lớp mầm non
Hôm sau, vua sai hai tên thợ săn khác vào rừng để tìm người thứ nhất, nhưng rồi cũng chẳng thấy ai về. Ngày thứ ba, vua cho triệu tất cả các thợ săn trong xứ đến bảo:
– Các ngươi hãy đi sục khắp khu rừng tìm ra kỳ được ba người mới thôi.
Đoàn người đi rồi lại cũng không thấy ai về. Cả đến đàn chó săn mà họ dắt theo cũng biến đâu hết cả. Từ hôm đó chẳng ai dám vào rừng nữa. Khu rừng càng thêm âm thầm hiu quạnh. Họa hoằn mới thấy bóng một con chim ưng, hoặc một con diều hâu bay ngang qua. Cứ thế cho mãi đến mấy năm sau mới có một người thợ săn lạ mặt đến yết kiến vua, xin chu cấp và tình nguyện vào khu rừng nguy hiểm nọ. Nhưng vua không muốn nhận lời bèn phán:
– Trong đó chẳng an toàn đâu, ta chỉ ngại nhà ngươi sẽ còn phải gặp chuyện rủi ro hơn cả mấy tên trước nữa, khó mà về thoát được.
Người thợ săn đáp:
– Tâu bệ hạ, xin cứ cho tôi thử một phen. Tôi không sợ đâu.
Người thợ săn dắt chó vào rừng. Đi mới được một lát. Chó tìm thấy vết thú. Nó muốn lần theo nhưng chưa được mấy bước đã thấy một cái đầm rất sâu chắn trước mặt, không thể nào đi tiếp được nữa. Liền đó một cánh tay trần trụi từ dưới nước ngoi lên túm lấy nó kéo xuống.
Người thợ săn thấy thế quay về ngay. Anh ta lấy thêm ba người nữa, đem thùng theo định tát cạn cái đầm kia. Lúc đã nhìn được suốt xuống tận đáy đầm, họ thấy có một người rừng nằm dài dưới đó, mình hắn toàn bộ màu nâu như sắt gỉ, tóc phủ qua mắt xõa xuống đến tận đầu gối. Họ lấy thừng trói gô hắn lại rồi điệu về cung điện.
Nhân dân xôn xao kinh ngạc về người rừng. Vua cho nhốt hắn vào một cái lồng sắt đựng ở ngoài sân chầu và nghiêm cấm không ai được mở cửa lồng. Kẻ trái lệnh sẽ bị tử hình và hoàng hậu đích thân giữ chìa khóa. Từ hôm đó, mọi người lại có thể yên tâm vào rừng.
Vua có một Hoàng tử lên tám tuổi. Một hôm, Hoàng tử đương chơi bóng ngoài sân bỗng quả bóng vàng lăn vào trong cái lồng. Hoàng tử chạy theo đòi:
– Trả lại bóng cho ta đây.
Người rừng đáp:
– Hãy mở cửa cho ta rồi ta sẽ trả.
Hoàng tử nói:
– Không được, điều đó thì không được, cha ta đã có lệnh cấm.
Nói xong, Hoàng tử chạy đi. Nhưng hôm sau, Hoàng tử lại đến đòi quả bóng. Người rừng lại dỗ:
– Mở cửa cho ta.
Hoàng tử không chịu. Ngày thứ ba, giữa lúc vua đi săn vắng, Hoàng tử lại tới bảo:
– Cho dù ta có muốn cũng chẳng mở được, vì ta không có chìa khóa.
Người rừng đáp:
– Chìa khóa ở dưới gối mẹ mi ấy, vào đó mà lấy.
Hoàng tử còn nhỏ tuổi, muốn lấy lại quả bóng quá, không kịp suy nghĩ chạy vào lấy luôn chìa khóa đem ra. Mở mãi mới được cái cửa, hoàng tử lại bị kẹp một ngón tay. Cửa mở rồi, người rừng bước ra, trả cho hoàng tử quả bóng rồi đi thẳng. Chú bé hoảng sợ, kêu gọi ầm ĩ:
– Trời, người rừng ơi, đừng đi, ta sẽ bị đòn mất thôi.
Người rừng bèn quay lại, bế bổng Hoàng tử lên vai, rảo bước đi vào rừng.
Lúc vua về nhà, thấy cái lồng trống không, vội hỏi hoàng hậu xem sự thể thế nào. Hoàng hậu vẫn chưa biết chuyện mới đi tìm chìa khóa thì chìa khóa đã mất. Hoàng hậu vội lên tiếng gọi con, không thấy ai trả lời. Vua sai người ra ngoài thành tìm mà không thấy. Vua đoán biết là có chuyện gì rồi. Trong triều, không khí nặng nề buồn bã.
Lúc người rừng đã vào tới quãng rừng sâu rồi. Hắn đặt chú bé xuống đất mà bảo chú:
– Mi sẽ không được thấy lại bố mẹ nữa đâu. Tuy vậy ta sẽ giữ mi ở với ta, ta thương mi vì chính mi đã giải thoát cho ta. Mi cứ theo đúng lời ta dặn thì sẽ được đối đãi tử tế. Vàng ngọc ở đây không thiếu, ta có nhiều của cải hơn bất kỳ ai trên thế gian này.
Người rừng dọn cho chú bé một ổ rêu làm chỗ ngủ. Hôm sau, hắn dẫn chú bé đến một cái giếng và bảo:
– Này, cái giếng vàng này sáng và trong như pha lê ấy. Nhiệm vụ của mi là ngồi đây mà canh, không được để cho một thứ gì rơi xuống đó, bằng không, giếng sẽ mất thiêng. Cứ chiều chiều ta sẽ đến xem mi có làm đúng lời dặn không?
Chú bé ngồi bên cạnh giếng, chốc chốc lại thấy một con cá vàng hoặc một con rắn vàng
xuất hiện dưới đó. Chú cũng để ý giữ, không cho bất kỳ thứ gì rơi xuống giếng. Nhưng ngồi được hồi lâu, ngón tay bị kẹp đột nhiên đau dội lên, chú vô tình nhúng nó xuống nước. Chú vội rút lên thật nhanh, song ngón tay đã bị phủ toàn vàng mất rồi, chú ra sức lau mà không tài
nào sạch được. Chiều tối. Hanxơ sắt – tên người rừng, đến nhìn chú bé hỏi:
– Có chuyện gì xảy ra ở giếng thế?
Chú bé đáp:
– Không, không.
Chú cố giấu ngón tay ra sau lưng cho người rừng khỏi thấy. Nhưng người rừng đã bảo chú:
– Mi đã nhúng ngón tay xuống nước rồi. Lần này ta tha, song mi cứ liệu, không được để bất kỳ cái gì rơi xuống nước nữa nhé!
Hôm sau, mới mờ sáng, chú bé đã trở dậy ra ngồi cạnh giếng. Ngón tay lại đau, chú vuốt nó lên đầu cho dịu đi. Không may có một sợi tóc đứt rơi đúng xuống giếng. Chú vội nhặt lên nhưng đã muộn, sợi tóc đã chói một màu vàng. Hanxơ sắt đến, biết ngay là có chuyện.
– Mi lại để một sợi tóc rơi xuống giếng rồi. Phen này ta bỏ qua cho mi, nhưng nếu còn để xảy ra chuyện đến lần thứ ba, cái giếng kia mất thiêng đi, mi sẽ không còn được ở đây với ta nữa.
Ngày thứ ba, chú bé ngồi bên giếng, ngón tay vẫn đau lắm mà không dám động đậy. Nhưng rồi ngồi yên mãi cũng chán, chú mới cúi xuống soi bóng mình dưới lòng giếng. Cúi mãi, cúi mãi, chú cứ muốn soi cho thật rõ, bất ngờ cả mái tóc dài của chú từ hai vai xõa xuống nhúng ngay vào nước. Chú vội đứng thẳng lên thật nhanh, song muộn mất rồi, cả mớ tóc đã nhuốm vàng, rực rỡ như vầng hồng. Chú khiếp đảm quá, rút khăn tay buộc lên đầu cho người khác khỏi nhìn thấy. Lúc Hanxơ sắt đến, hắn đã biết hết chuyện xảy ra nên bảo chú:
– Cởi cái khăn ra.
Tức thì những sợi tóc vàng thì nhau rủ xuống, chú bé ra sức kêu xin nhưng cũng vô ích.
– Mi đã không vượt qua được cơn thử thách nên không thể ở lại đây được nữa đâu. Giờ mi hãy đi ở với thiên hạ thôi. Mi sẽ biết thế nào là cảnh khổ. Song vì mi không có ác tâm và ta cũng mến mi nên ta cho phép mi một điều. Lúc nào gặp khó khăn, mi cứ vào rừng gọi: “Hanxơ sắt“, ta sẽ tới cứu mi. Quyền lực của ta rất lớn, lớn hơn mi tưởng nhiều: vàng, bạc ta đều có thừa.
Hoàng tử từ biệt khu rừng đó, cứ chiếu thẳng đường mà đi, đến một thành phố lớn. Hoàng tử định tìm việc làm nhưng không có, vả chăng bản thân cũng chưa từng học nghề gì để có thể kiếm ăn. Sau cùng, hoàng tử đến thẳng cung vua hỏi xem có ai muốn mướn chàng hay không. Triều thần không biết dùng chàng vào việc gì nhưng vì mọi người đều mến chàng nên giữ chàng lại. Chàng được giao việc phụ bếp, ngày ngày khuân củi, xách nước, quét tro. Một hôm, vì không tìm được ai khác, người đầu bếp sai chàng bưng thức ăn lên dâng vua. Chàng không muốn để lộ mớ tóc vàng nên cứ đội nguyên cả mũ mà vào hầu. Vua chưa từng gặp chuyện vô lễ như thế bao giờ, quở ngay:
– Mi mang thức ăn vào dâng vua thì phải bỏ mũ ra.
Chàng đáp:
– Tâu hoàng thượng, tiếc rằng thần không thể làm thế được, thần bị bệnh chốc đầu.
Vua bèn cho gọi ngay người đầu bếp tới, quở hắn sao dám mướn một kẻ như thế giúp việc. Vua hạ lệnh phải đuổi chàng đi ngay tức khắc. Người đầu bếp thương chàng, không nỡ đuổi, cho đổi việc với gã coi vườn. Từ đó, ngày ngày Hoàng tử trồng cây, tưới cây, xới đất, đào đất
ở ngoài vườn chẳng quản gió mưa.
Trời đã sang hè, một hôm đương lúc mải làm, oi bức quá, chàng bỏ mũ cho mát. Ánh nắng rọi vào mớ tóc sáng rực, tia vàng phản chiếu lọt vào đến tận phòng riêng của công chúa. Nàng nhỏm dậy, ra xem có chuyện gì lạ. Tức thì nàng thấy chàng trai, liền gọi lại:
– Này chàng kia, hãy mang lại đây cho ta một bó hoa.
Hoàng tử vội vã đội ngay mũ lên đầu, bó một bó hoa đồng mang lại. Chàng đương lên thang thì gặp người coi vườn bảo:
– Sao dâng hoa lên công chúa lại dám lấy rặt những giống hoa dại này? Xuống lấy bó khác ngay đi, chọn những giống hoa đẹp nhất và hiếm nhất ấy.
Chàng đáp:
– Không đâu, chính hoa dại lại thơm hơn, chắc chắn công chúa sẽ thích hơn.
Lúc chàng bước vào phòng, công chúa bảo chàng:
– Bỏ mũ xuống đi, đứng trước mặt ta mà đội mũ là không được.
Chàng lại đáp:
– Bẩm, thần không dám, vì thần bị chốc đầu.
Nhưng công chúa giơ tay nhấc luôn cái mũ khỏi đầu chàng. Tức thì mái tóc vàng kia rủ xuống đến tận vai chàng, nom rất đẹp mắt. Chàng định bỏ chạy, công chúa kéo tay chàng lại, cho chàng một nắm tiền vàng. Chàng cầm tiền đi ra. Nhưng vì chàng chẳng thiết vàng nên đem lại cho người coi vườn, và bảo:
– Tôi gửi tặng các cháu nhỏ đây, để chúng làm đồ chơi.
Hôm sau, công chúa lại sai chàng đi hái một bó hoa đồng. Chàng cầm bó hoa vừa bước qua cửa phòng, công chúa đã vội giật cái mũ định lấy. Chàng nắm cả hai tay giữ chặt mũ lại. Công chúa lại cho chàng một nắm tiền vàng và lần này chàng vẫn không muốn giữ tiền, đem cho người coi vườn mang về cho con chơi.
Ngày thứ ba cũng như hai ngày trước. Công chúa vẫn không lấy được mũ. Chàng cũng không muốn lấy vàng của công chúa. Ít lâu sau, xứ có giặc. Vua cho gọi trăm họ lại. Chính vua cũng
chưa biết liệu rồi có chống cự nổi hay không. Thế giặc mạnh lắm, chúng có một đạo quân rất lớn. Chàng coi vườn tâu vua:
– Thần cũng đã trưởng thành, nên muốn được đi tòng chinh, xin hãy ban cho thần một con ngựa.
Những người khác thấy thế đều cười rộ lên mà rằng:
– Hãy chịu khó đợi cho bọn ta kéo đi hết đã rồi hãy vào tàu ngựa mà chọn, bọn ta sẽ để lại cho một con.
Khi mọi người đã kéo đi hết cả rồi, chàng vào dắt ngựa ra thì thấy đó là một con ngựa què, khập khiễng bước cao bước thấp. Tuy vậy, chàng cũng vẫn lên ngựa, phóng vào rừng sâu. Đến bên cạnh rừng rồi, chàng cất tiếng gọi ba lần: “Hanxơ sắt!”. Tiếng gọi đập vào rừng cây nghe vang dội. Tức thì người rừng hiện ra hỏi:
– Mi muốn gì?
– Ta muốn có một con ngựa chiến thật khỏe để đi đánh giặc.
– Được, mi sẽ có ngựa và còn nhiều hơn thế nữa.
Người rừng quay trở vào. Chỉ một lát sau, đã thấy có người coi ngựa dắt một con ngựa chiến từ trong rừng đi ra. Lỗ mũi con vật thở phì phì tưởng chừng rất khó điều khiển được nó. Sau con ngựa là cả một đám quân lính mũ sắt giáp sắt, lưỡi kiếm sáng ngời dưới ánh nắng.
Chàng trai trao con ngựa què lại cho người lính coi ngựa, nhảy lên con chiến mã rồi vượt lên cả đoàn quân. Lúc chàng tiến tới gần chiến trường thì bên nhà vua đã bị chết nhiều người và đang sắp phải rút lui. Chàng liền thúc đoàn quân đầy đủ áo giáp và mũ trụ, như một cơn lốc đánh thốc vào giữa quân giặc, đập tan hết thảy mọi sức kháng cự. Giặc định rút chạy nhưng không kịp, chàng trai đã tiến sát sau lưng chúng rồi và chàng cứ thúc quân đánh, đánh mãi kỳ cho đến lúc không còn một tên giặc nào sống sót. Nhưng sau đó chàng chẳng quay về chỗ vua mà lại dẫn quân theo đường tắt trở lại khu rừng cũ, gọi Hanxơ sắt. Người rừng hỏi:
– Mi muốn gì?
– Nhận lại ngựa của mi đi, trả lại cho ta con ngựa què.
Mọi việc xảy ra sau đó như ý muốn của chàng. Chàng cưỡi con ngựa què trở về. Lúc vua về đến cung điện, công chúa ra mừng thắng trận. Vua nói:
– Không phải do ta đánh thắng trận, đó là công của một người kỵ sĩ lạ mặt đã đem quân đến giúp ta.
Công chúa hỏi người kỵ sĩ đó là ai, nhưng chính vua cũng không biết, nên vua chỉ nói:
– Người ấy còn mải đuổi theo quân giặc, nên ta cũng chưa được gặp lại.
Công chúa bèn hỏi thăm người coi vườn về tin tức chàng trai nọ. Bác ta cười mà thưa rằng:
– Anh ta cưỡi một con ngựa què vừa về đến nhà xong.
Mọi người đều giễu cợt và bảo:
– Anh chàng tập tễnh về kia rồi.
Họ còn hỏi mỉa gã:
– Này, suốt thời gian vừa rồi, cậu rúc vào ngủ ở xó nào đấy?
Nhưng gã chỉ ôn tồn đáp: “Ta đã làm hết sức mình, không có ta có lẽ đất nước đã nguy rồi”, khiến mọi người cười ầm lên. Đức vua phán bảo con gái:
– Ta định báo là sẽ mở hội lớn trong ba ngày liền. Nhân dịp ấy con sẽ ném một quả táo bằng vàng, biết đâu chàng kỵ sĩ lạ mặt kia sẽ đến.
Sau khi biết tin, chàng trai vội vào rừng gọi Hanxơ sắt. Gã hỏi:
– Mi muốn gì?
– Ta ước mong sẽ bắt được quả táo vàng của công chúa.
Hanxơ sắt đáp:
– Được, chắc mi sẽ toại nguyện, nhưng mi phải nhớ mặc một bộ giáp đỏ và cưỡi một con ngựa hồng thật oai phong.
Đến ngày hội, chàng trai cưỡi ngựa tới, đi lẫn vào trong đám kỵ sĩ mà không ai nhận ra được chàng, công chúa bước ra nhằm phía các kỵ sĩ mà ném quả táo vàng. Chàng bắt ngay được rồi thúc ngựa phóng luôn đi mất. Ngày thứ hai, Hanxơ sắt cho chàng một bộ áo giáp bạc trắng với một con ngựa bạch. Chàng bắt được quả táo và lại thúc ngựa phóng đi mất. Đức vua giận lắm phán:
– Không thể được, hắn phải ra chầu trước mặt ta để ta hỏi tên họ.
Vua ra lệnh:
– Kỵ sĩ nào bắt được quả táo mà bỏ chạy sẽ bị đuổi theo, nếu không tự ý quay lại sẽ bị đâm chết.
Đến ngày thứ ba, chàng trai được Hanxơ sắt cấp cho một bộ áo giáp đen với một con ngựa ô. Chàng lại bắt được quả táo. Lúc chàng bỏ chạy, đám quân sĩ của nhà vua hò nhau đuổi theo. Có một người đuổi rất sát, liền chém một nhát, mũi kiếm lướt ngang chân chàng khiến chàng bị thương. Chàng chạy thoát nhưng vì con ngựa phải nhảy dữ quá, chiếc mũ trụ của chàng bị tuột khỏi đầu rơi mất, mọi người đều trông thấy mái tóc vàng rực. Họ quay ngựa về nói lại cho vua biết. Hôm sau, công chúa hỏi thăm người coi vườn về chàng trai.
– Gã ta đang làm ở ngoài vườn. Thế mà gã ta cũng đi dự hội đấy, mãi tối qua mới về. Gã có cho các cháu nhà tôi xem ba quả táo vàng mà gã bắt được.
Vua cho đòi chàng. Chàng vào hầu, đầu vẫn đội mũ. Nhưng công chúa đã bước tới bỏ chiếc mũ xuống. Tức thì mái tóc vàng rủ xuống đến tận vai, đẹp quá, mọi người đều phải kinh ngạc. Vua hỏi:
– Có phải chính ngươi là người kỵ sĩ đến đám hội mỗi ngày trang phục một màu và đã bắt được ba quả táo vàng đó không?
Chàng đáp:
– Dạ thưa chính thần đó ạ, và đây là ba quả táo.
Chàng móc túi lấy ba quả táo dâng lên vua:
– Nếu như hoàng thượng còn đòi thần phải có vật chứng gì khác nữa thì xin hãy xem vết thương đây. Thần đã bị thương trong lúc bị đám quân sĩ đuổi. Nhưng thần cũng chính là người kỵ sĩ đã giúp hoàng thượng chiến thắng quân giăc bữa trước đó.
Vua phán:
– Ta thấy rồi, ta chịu ơn nhà ngươi, ta có thể làm gì để ngươi vui lòng.
Chàng đáp:
– Tâu hoàng thượng, thần chỉ xin được cùng công chúa kết duyên.
Công chúa cười mà rằng:
– Chàng thật không biết úp mở chút nào.
Nàng tiến lại ôm hôn chàng.
Hôm cử hành hôn lễ, cả cha mẹ chàng cũng đến, hai người rất vui mừng vì họ đã mất hy vọng gặp lại con từ lâu lắm rồi. Vừa lúc mọi người ngồi vào bàn tiệc xong, bỗng thấy ngừng tiếng nhạc, cửa lớn mở ra, một vị hoàng đế oai phong lẫm liệt bước vào, theo sau
không biết bao nhiêu là người hầu. Vị hoàng đế ấy bước thẳng đến chỗ chàng trai, ôm chàng bảo:
– Ta chính là Hanxơ sắt đấy. Ta đã bị phù phép biến thành một người rừng nhưng con đã giải thoát cho ta. Từ nay mọi thứ của cải mà ta có đều thuộc về con.
Câu chuyện giúp các em hiểu về tình nghĩa của con người đối với nhau. Chính sự giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn đã giải thoát được cả bùa mê và phù phép.
Hoàng Anh và gấu
Hoàng Anh và gấu
Hoàng Anh và gấu truyện cổ grim hoàng anh và gấu doc truyen hoàng anh và gấu chuyện hoàng anh và gấu anh gấu bông sách truyện cổ grim, truyện cổ grim bản gốc, download truyện cổ grim, truyện cổ grim audio, truyện cổ grim bằng tiếng anh, phim truyện cổ grim, truyện cổ grim wiki, phim hoạt hình truyện cổ grim
Một ngày hè, gấu và sói đi dạo chơi trong rừng. Gấu nghe có tiếng chim hót véo von, liền hỏi bạn:
– Sói này, chim gì mà hót hay thế ?
Sói đáp:
>>> Thiết bị trong các trường mầm non, Bộ liên hoàn gỗ cao cấp
>>> Bộ liên hoàn nhà chòi cầu tuột
>>> Bể chơi cát hình con cua thiết bị dạy học mầm non
– Vua loài chim đấy. Bọn mình có gặp thì phải cúi chào đấy nhé.
Nhưng đó chỉ là chim hoàng anh. Gấu nói:
– Nếu quả như vậy thì tôi muốn xem cung điện của hắn ra sao. Anh dẫn tôi đi nhé.
Sói đáp:
– Đâu có dễ thế! Anh phải đợi vua và hoàng hậu đi đã chứ!
Gấu và sói để ý chỗ gốc cây có tổ chim rồi đi. Nhưng gấu đứng ngồi không yên, muốn xem cung điện cho kỳ được, nên một lát sau lại lộn lại. Đúng lúc vua và hoàng hậu vừa bay đi khỏi, gấu ngó vào thấy năm sáu con chim nhỏ nằm trong. Gấu kêu lên:
– Cung điện nhà vua gì mà thế này? Nhà ở tồi tàn quá! Hạng chúng bay thì con vua cháu chúa quái gì! Chúng bay chẳng qua là bọn con nhà đê tiện.
Mấy chú hoàng anh nghe thấy thế giận lắm quát:
– Đừng có nói láo! Bố mẹ chúng tôi dòng dõi quí phái cả. Thằng gấu kia, chuyện này nhất định phải làm cho ra nhẽ mới được.
Gấu và sói sợ quá quay về chui vào hang. Các chú hoàng anh vẫn kêu la rầm rĩ. Khi bố mẹ chúng tha mồi về, chúng mách:
– Chúng con không động đến một cái chân ruồi nhỏ đâu. Chúng con can tâm chết đói nếu bố mẹ không làm cho ra nhẽ: chúng con có phải là con vua cháu chúa hay không? Thằng gấu nó đến đây sỉ nhục chúng con.
Vua cha nói:
– Các con cứ yên tâm, cha sẽ làm chuyện này cho ra nhẽ.
Vua cùng hoàng hậu liền bay đến hang gấu gọi:
– Lão gấu già cảu nhảu kia, tại sao ngươi dám sỉ nhục con ta? Thật là vô phúc cho ngươi, ta sẽ đấu với ngươi một trận sống mái cho rõ trắng đen.
Thế là hoàng anh khai chiến với gấu. Gấu cầu cứu tất cả các loài thú. Bò này, lừa này, hươu này, nai này… tất cả các loài vật bốn chân trên mặt đất. Hoàng anh thì đi gọi các loài bay trên trời: không phải chỉ có chim chóc lớn nhỏ mà thôi đâu, mà còn có cả loài ruồi, loài nhặng, loài ong nữa.
Sắp đến ngày đánh nhau, hoàng anh phái trinh sát đi dò xem ai là tướng chỉ huy quân địch. Nhặng là trinh sát tinh khôn nhất bay vào rừng tìm nơi quân địch tập hợp. Quân địch đang bày mưu tính kế ở một gốc cây. Nhặng ẩn mình sau một chiếc lá trên cây nghe thấy gấu gọi cáo bảo:
– Cáo này, mày khôn nhất các giống vật, mày làm tướng chỉ huy đi.
Cáo nói:
– Được, nhưng giờ tao lấy gì làm hiệu nào?
Không con nào nghĩ ra. Cáo liền bảo:
– Tao có một cái đuôi đẹp, vừa dài vừa rậm, rõ là chùm lông đỏ. Hễ tao giơ đuôi lên nghĩa là mọi việc đều ổn, chúng bay cứ việc tiến; hễ tao hạ đuôi xuống, thì chúng bay lo mà chạy thoát thân cho mau.
Nhặng nghe thấy thế bay về báo cho hoàng anh. Trời tang tảng sáng, loài vật bốn chân ầm ầm kéo ra trận, mặt đất rung chuyển như có sấm động. Hoàng anh và quân của mình xuất trận trên không trung kêu vo vo, bay rào rào, nghe đến kinh hồn. Hoàng anh phái ong bầu đến bám sát đuôi cáo, ra sức đốt. Cáo bị đốt lần đầu giật bắn mình, giơ một chân lên, nhưng vẫn cố nhịn giơ đuôi lên thẳng. Bị đốt lần thứ hai, cáo đành hạ đuôi xuống một tí. Đến lúc bị đốt lần thứ ba thì cáo chịu không nổi nữa, kêu lên, cụp đuôi vào hai chân. Thấy vậy, các con bốn chân đều cho là mọi việc hỏng bét rồi, vội bỏ chạy về hang. Thế là chim được trận. Vua và hoàng hậu liền bay về tổ gọi con bảo:
– Các con thích nhé, thôi cứ ăn uống thỏa thê đi, chúng ta thắng trận rồi.
Các chim Hoàng tử đáp:
– Nếu bản thân gấu không chịu đến xin lỗi và nhận chúng con là con nhà dòng dõi thì nhất định chúng con không chịu ăn đâu.
Hoàng anh bay đến hang gấu quát:
– Đồ gấu cảu nhảu, muốn sống thì đến xin lỗi con ta, nhận chúng là con nhà dòng dõi, nếu không thì mày thịt nát xương tan bây giờ.
Gấu sợ quá, lết đến tổ chim xin lỗi. Lúc ấy các chim hoàng anh nhỏ mới chịu thôi và ăn uống vui chơi cho đến khuya.
Sáu con thiên nga
Sáu con thiên nga
Sáu con thiên nga truyện cổ grim sáu con thiên nga sách sáu con thiên nga làm sáu con thiên nga cách sáu con thiên nga đọc truyện sáu con thiên nga gấp con thiên nga cái chết con thiên nga cách làm con thiên nga bằng giấy
Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vì vua đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp. Tối đến, vua đứng lặng nhìn quanh, thấy mình đã bị lạc đường, không tìm được lối ra. Bỗng vua thấy có một mụ già, đầu lắc lư đi tới: đó là một mụ phù thủy. Vua bảo mụ:
– Này cụ, cụ có thể làm ơn chỉ cho tôi lối ra khỏi rừng được không?
>>> Đồ chơi mầm non thú nhún lò xo
Mụ đáp:
– Tâu bệ hạ, được chứ. Cái đó già làm được, nhưng với một điều kiện mà nếu bệ hạ không chấp nhận thì bệ hạ không bao giờ ra được khỏi rừng này và sẽ chết đói ở đây.
Vua hỏi:
– Điều kiện gì hở cụ?
– Già có một đứa con gái đẹp nhất đời. Bệ hạ chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu, thật xứng đáng làm vợ vua. Nếu bệ hạ đồng ý lấy nó làm hoàng hậu thì già sẽ chỉ đường cho bệ hạ ra khỏi rừng.
Trong lúc hoảng sợ, vua bằng lòng ngay. Mụ già dẫn vua đến ngôi nhà nhỏ của mụ. Con gái mụ ngồi bên lửa. Cô đứng dậy ra đón vua ngay, như đã sẵn sàng chờ vua đến. Vua thấy cô tuyệt đẹp nhưng không thích, nhìn cô, vua cảm thấy rờn rợn. Sau khi vua đặt cô lên mình ngựa thì mụ chỉ đường cho vua. Vua về đến cung điện làm lễ cưới.
Nguyên vua đã lấy vợ một lần và hoàng hậu sinh được bảy con, sáu trai một gái, vua yêu quí vô cùng. Sợ người dì ghẻ đối với con mình không tốt mà còn có thể làm khổ chúng nữa vua đưa chúng đến ở một tòa lâu đài hiu quạnh giữa rừng sâu. Lâu đài rất kín, đường đi đến khó mà tìm được, chính vua cũng không tìm ra đường nếu không được một bà lão cho một cuộn chỉ có phép lạ. Khi vua ném cuộn chỉ về phía trước, nó sẽ tự gỡ ra và chỉ đường cho vua.
Nhà vua luôn luôn đi thăm các con yêu dấu, nên hoàng hậu để ý đến sự vắng mặt của vua. Mụ dì ghẻ tò mò muốn biết vua đi vào rừng một mình làm gì. Mụ bèn cho thị vệ của vua nhiều tiền, chúng nói lộ bí mật cho mụ biết và nói cả đến cuộn chỉ biết đưa đường. Mụ bứt rứt không yên tâm, mãi cho đến lúc mụ tìm ra được chỗ vua để cuộn chỉ. Mụ bèn may một số áo lót bằng lụa trắng và khâu bùa vào vì mụ học được ít phép của mẹ.
Một hôm, vua ruổi ngựa đi săn vắng, mụ mang áo đi theo cuộn chỉ dẫn đường vào rừng. Bọn
trẻ thấy từ xa có bóng người đến tưởng là cha yêu dấu, vội vui mừng chạy lại đón. Mụ bèn tung trùm lên mỗi đứa một cái áo, áo vừa đụng vào người thì chúng biến ra thiên nga bay vượt qua rừng biến mất. Mụ hớn hở về nhà, tưởng là đã trừ được lũ con chồng. Nhưng mụ không ngờ là còn cô con gái không chạy ra đón cha cùng các anh.
Một hôm, vua đến thăm các con thì chỉ thấy con gái thôi. Vua hỏi:
– Các anh con đâu?
Cô đáp:
– Trời ơi, cha yêu dấu! Các anh con đi mất rồi, bỏ lại mình con.
Rồi cô kể cho vua nghe cô đứng ở cửa sổ nhìn thấy những gì, các anh cô hóa thiên nga bay qua rừng thế nào, và đưa cho vua xem những lông chim cô nhặt được ở ngoài sân. Vua rất buồn bã nhưng không ngờ là hoàng hậu làm việc độc ác ấy. Vua sợ cô gái cũng bị mất nốt nên định mang cô đi cùng. Nhưng cô sợ dì ghẻ nên xin vua hãy để cô ở lại tòa lâu đài trong rừng đêm ấy nữa. Cô gái đáng thương nghĩ bụng:
– Mình không thể ở đây lâu được nữa, mình phải tìm các anh mới được.
Đêm đến, cô trốn vào rừng. Cô đi suốt đêm hôm ấy cả ngày hôm sau, mãi đến lúc mệt quá không đi được nữa. Lúc đó, cô thấy một chiếc lều hoang. Cô bước vào thì thấy một căn buồng có sáu chiếc giường nhỏ. Nhưng cô không dám nằm vào chiếc nào, mà chui xuống nằm ở gầm giường, định ngủ đêm đó trên nền đất rắn.
Nhưng tới lúc mặt trời sắp lặn cô nghe có tiếng lào xào và thấy sáu con thiên nga bay qua cửa sổ chui vào. Chúng ngồi xuống đất, thổi lẫn cho nhau, cho bay hết lông; bộ lông thiên nga trút ra như một chiếc áo lót. Cô gái nhận ra các anh mình, mừng lắm, chui ở gầm giường ra. Các anh trông thấy em cũng mừng rỡ chẳng kém. Nhưng vui chẳng được bao lâu, các anh bảo em:
– Em không ở đây được đâu. Đây là sào huyệt của bọn cướp, chúng về thấy em sẽ giết em mất.
Em hỏi:
– Thế các anh có cách nào che chở em không?
Các anh nói:
– Không, vì mỗi tối, các anh chỉ có thể trút bộ lông thiên nga, hiện nguyên hình người trong một khắc đồng hồ, sau đó lại phải biến thành thiên nga.
Em khóc hỏi:
– Thế không có cách nào giải thoát các anh à?
Các anh đáp:
– Không được đâu! Khó lắm. Trong sáu năm, em không được nói được cười. Trong thời gian ấy, em phải may cho các anh sáu chiếc áo lót nhỏ bằng hoa thúy cúc. Nếu em nói nửa lời là công toi hết.
Các anh vừa nói xong thì một khắc đồng hồ đã qua, các anh lại biến thành thiên nga bay qua cửa sổ mất. Cô gái nhất định giải thoát cho các anh, dù có phải hy sinh tính mạng. Cô rời bỏ chiếc lều hoang, vào giữa rừng, leo lên cây ngủ đêm. Sáng hôm sau, cô đi hái hoa thúy cúc và bắt đầu khâu áo. Cô chẳng nói năng được với ai mà cũng chẳng buồn hé miệng cười. Cô chỉ ngồi một chỗ chăm chú làm.
Một thời gian đã qua. Vua xứ ấy cùng thợ săn vào rừng tìm thú, đến cây cô ngồi. Họ gọi cô:
– Cô hãy xuống đây với chúng tôi, chúng tôi không hại gì cô đâu.
Cô chỉ lắc đầu. Họ hỏi dồn mãi, cô liền ném xuống cho họ chiếc dây chuyền đeo cổ bằng vàng, tưởng làm như thế cho họ yên đi. Nhưng họ vẫn không chịu thôi, cô liền vứt chiếc thắt lưng của cô xuống. Thấy vẫn chưa ổn cô vứt thêm nịt bít tất, rồi dần dần vứt tất cả các thứ mặc trên người có thể vứt được, đến nỗi cô chỉ còn chiếc áo lót. Những người thợ săn không vì thế mà chịu lùi. Họ trèo lên cây, bế cô xuống đưa đến trước mặt vua. Vua hỏi:
– Nàng là ai? Nàng ngồi trên cây làm gì?
Cô không đáp. Vua dùng đủ các thứ tiếng vua biết mà cô vẫn câm như hến. Nhưng cô đẹp quá khiến lòng vua rung động. Vua yêu cô tha thiết. Vua khoác áo ngực cho cô, đặt cô lên kiệu ngồi trước mình đưa về cung điện. Vua cho cô mặc quần áo sang trọng, cô đẹp lộng lẫy như một ngày nắng đẹp, nhưng cô vẫn không nói nửa lời. Vua đưa cô lại ngồi ở bàn ăn, cho ngồi bên mình. Dáng điệu nhu mì và e lệ của cô khiến vua rất hài lòng. Vua nói:
– Ta thiết tha muốn lấy cô này, ta không lấy một ai khác trong thiên hạ đâu.
Mấy hôm sau, vua lấy nàng. Vua có một bà mẹ ghẻ độc ác, không bằng lòng với đám cưới
này, và nói xấu hoàng hậu trẻ tuổi. Bà bảo:
– Không biết cái con này ở đâu ra mà nó không nói năng gì được. Nó không xứng đáng làm vợ vua.
Hơn một năm sau, khi hoàng hậu sinh con đầu lòng. Mụ bắt trộm đi và lừa khi nàng ngủ bôi máu vào mồm nàng. Rồi mụ tâu vua là nàng ăn thịt người. Vua không tin, không để ai làm hại
nàng. Lúc nào nàng cũng ngồi khâu áo lót, ngoài ra không để ý đến cái gì khác. Lần sau, nàng lại sinh một đứa con trai kháu khỉnh. Mẹ ghẻ quỉ quyệt lại lừa vua như lần trước. Vua vẫn nhất định không tin lời mụ. Vua bảo:
– Nàng trong sạch và tốt bụng, không thể làm việc ấy đâu. Nếu nàng nói được và có thể tự bênh vực được thì sẽ minh oan được. Nhưng đến lần thứ ba, mụ già lại ăn trộm đứa bé mới đẻ và lại tố cáo hoàng hậu. Nàng vẫn không nói nửa lời để minh oan. Vua không làm khác được phải đưa nàng ra tòa xử. Nàng bị kết tội chết thiêu.
Đã đến ngày hành hình, cũng là ngày cuối cùng của thời gian sáu năm không được nói, cười, ngày nàng sẽ giải thoát được các anh khỏi yêu thuật. Sáu chiếc áo lót đã khâu xong chỉ còn thiếu cánh tay áo chiếc cuối cùng. Khi nàng bị dẫn đến đống củi, ở dưới sắp châm lửa, nàng nhìn quanh thì thấy sáu con thiên nga bay trên không lại. Nàng cảm thấy mình sắp được cứu thoát, lòng mừng khôn xiết.
Thiên nga bay rào rào tới chỗ nàng, sà xuống thấp để nàng có thể ném áo lót lên tới được. Áo vừa đụng chim thì lông thiên nga rơi xuống liền, các anh nàng hiện lên hình người đứng trước nàng, vui vẻ, đẹp đẽ. Chỉ có người em cuối cùng là chiếc áo còn thiếu cánh tay trái vì vậy ở lưng còn có một cánh thiên nga. Anh em ôm nhau hôn trìu mến; hoàng hậu đến tìm vua, vua rất đỗi ngạc nhiên. Nàng nói:
– Tâu bệ hạ, giờ thiếp mới được phép nói và bộc lộ là thiếp đã bị oan.
Nàng kể lại âm mưu mụ già đã lấy trộm ba đứa con đem giấu đi. Vua tìm được con mừng rỡ lắm, còn mụ dì ghẻ cay nghiệt kia phải đền tội. Mụ bị trói trên đống lửa và bị thiêu ra tro. Vua và hoàng hậu cùng sáu anh hưởng hạnh phúc dài lâu.
Những người khôn
Những người khôn
Những người khôn truyện cổ grim những người khôn sách những người khôn các người khôn những người khốn khổ wiki đọc những người khốn khổ những người khốn khổ megastar những người khốn khổ vnthuquan những người khốn khổ ost
Một hôm, một bác nông dân rút ở xó nhà ra chiếc gậy gỗ trăn rồi bảo vợ:
– Này nhà ạ, tôi đi ba ngày nữa mới về đấy. Nếu lái bò có đến mua ba con bò nhà ta, thì nhà bán rẻ cũng được, nhưng phải lấy hai trăm đồng, kém thì đừng có bán nghe chưa.
>>> Đu quay mầm non Đồ chơi trẻ em
>>> Đồ chơi ngoài trời mầm non
Vợ đáp:
– Nhà cứ việc đi đi, cầu trời phù hộ. Tôi ở nhà sẽ làm đúng lời nhà dặn.
– Chà! Khi nhà còn bé đã có lần ngã đập đầu xuống đất, đến giờ vẫn còn bị ảnh hưởng. Nhưng tôi dặn nhà nhớ, nếu nhà làm gì vớ vẩn, tôi về sẽ đánh cho thâm tím mình mẩy bằng chiếc gậy tôi đang cầm trong tay đây này, đến một năm cũng vẫn còn vết lằn, tôi nói không ngoa đâu.
Nói rồi bác ta đi.
Sáng hôm sau, lái bò đến. Bác gái cũng không phải nói nhiều lời. Hắn xem bò xong, hỏi giá rồi nói:
– Tình giá ấy được thôi, thật là giá chỗ bà con. Để tôi mang bò đi ngay.
Hắn tháo dây buộc, lùa bò ra khỏi chuồng. Khi hắn dắt bò ra khỏi sân thì bác gái nắm lấy tay áo hắn bảo:
– Bác phải đưa tôi hai trăm đồng đã, không thì tôi không để cho đi đâu.
Lái bò đáp:
– Được, được thôi. Ấy tôi quên không mang theo hầu bao. Nhưng bác đừng lo. Bác cứ yên chí, thế nào tôi cũng trả sòng phẳng. Này nhé, tôi mang đi hai con bò thôi, còn con thứ ba tôi để lại làm tin.
Bác gái cho việc ấy là minh bạch, để cho tên lái mang bò đi và nghĩ bụng:
– Thầy nó thấy mình khôn ngoan thế chắc là mừng lắm đấy.
Đến ngày thứ ba, bác nông dân đúng hẹn về nhà, hỏi ngay xem bò đã bán chưa. Bác gái đáp:
– Dĩ nhiên là bán rồi, thầy nó ạ. Mà như thầy nó dặn, bán đúng hai trăm đồng. Bò nhà mình thì cũng chẳng đáng giá ấy đâu, nhưng bác lái thuận mua luôn, chẳng cò kè gì cả.
Bác trai hỏi:
– Thế tiền đâu?
– Tôi chưa cầm. Bác lái quên mang theo hầu bao nhưng bác ấy mang lại ngay đấy. Bác ấy có để vật làm tin rất chắc chắn.
Bác trai hỏi:
– Của tin gì thế?
– Bác ấy để lại đây một trong ba con bò làm tin, trả tiền xong mới dắt nốt đi. Tôi khôn lắm, thầy nó ạ! Tôi giữ lại con bé nhất vì nó ăn ít nhất.
Bác trai tức quá, giơ gậy lên định cho bác gái một trận đòn như bác đã bảo trước. Nhưng rồi bác lại hạ gậy xuống nói:
– Bu mày thật là ngu như bò, ngu nhất trần đời này. Nhưng tôi thương hại bu nó quá. Thôi để tôi đi ba ngày nữa xem có gặp ai ngu đần hơn bu mày không. Nếu gặp, thì sẽ tha cho bu mày. Nếu không gặp thì tôi nhất định cho bu mày một trận đòn nên thân.
Bác đi theo đường cái rồi ngồi trên một hòn đá, đợi xem sự việc ra sao. Bác thấy một chiếc xe đi tới. Trên xe chỉ có một người đàn bà đứng chứ không ngồi trên đống rơm ở ngay trên xe mà cũng không đi bộ dắt bò bên xe. Bác nghĩ bụng đây hẳn là người ngu đần mình đang tìm, liền nhảy xuống và chạy loăng quăng trước xe y như người mất trí. Người đàn bà bảo bác:
– Ơ bác kia! Tôi có quen biết gì bác đâu? Bác ở đâu đến đây?
Bác nông dân đáp:
– Tôi ở trên trời rơi xuống đấy. Không biết làm cách nào lên trời lại được. Bác có đưa tôi lên được không?
Người kia đáp:
– Không được đâu. Tôi có biết đường đâu. Nếu bác ở trên trời xuống thì bác làm ơn cho tôi hỏi thăm nhà tôi ra sao. Thầy nó đã chầu trời được ba năm nay. Chắc là bác có gặp thầy nó nhà tôi.
– Có, có tôi có gặp bác trai. Lẽ dĩ nhiên là mọi người không phải ai nấy đều ổn cả đâu. Bác trai chăn cừu cũng lôi thôi rắc rối lắm, nó nhảy lên núi, nó lạc vào bãi hoang, bác trai cứ phải luôn đi tìm để hợp đàn. Quần áo mắc vào bụi rậm rơi từng mảnh, phơi cả da thịt ra. Trên ấy không có tuyết, thánh Pêtrut không cho ai vào, như bà nghe chuyện cổ tích đã biết đấy.
Người đàn bà kêu lên:
– Chết chưa, có ai ngờ đâu nông nỗi ấy! Để tôi đi lấy bộ quần áo ngày chủ nhật còn treo trong tủ ở nhà, để thấy nó mặc cho lịch sự. Nhờ bác làm ơn mang giúp cho thầy nó nhé!
Bác nông dân đáp:
– Không được đâu. Không thể mang quần áo lên trời được đâu. Đến cổng trời là bị thu đấy.
– Này bác ạ, hôm qua tôi bán chỗ lúa tôi được khá tiền muốn gửi lên cho thầy cháu. Nếu bác giấu tiền hộ vào túi chắc chẳng ai biết đâu.
– Cũng được thôi! Để tôi giúp bác.
Bác kia nói:
– Thế bác ngồi đợi đây, tôi cho xe về nhà lấy tiền rồi trở lại ngay. Ấy tôi không ngồi trên đống rơm, mà đứng trên xe để cho bò kéo đỡ nặng đấy.
Bà ấy thúc bò đi. Bác nông dân nghĩ bụng:
– Bà này hẳn có máu dở người. Nếu bà ta về lấy tiền thật thì may cho mẹ đĩ nhà mình khỏi bị trận đòn.
Một lát sau, bà ta mang tiền chạy tới nhét vào túi bác. Trước khi đi, bà ta còn đa tạ lòng tốt của bác mãi.
Bà về nhà thì gặp con trai ở ngoài đồng về. Bà liền kể cho con gặp chuyện bất ngờ như thế nào và bảo:
– Mẹ mừng là gặp may gửi được cho thầy mày ít quà. Có ai ngờ được là ở trên trời mà cũng còn bị thiếu thốn!
Con ngạc nhiên quá bảo:
– Mẹ ạ, ít khi có người ở trên trời rơi xuống như thế. Để con đi ngay xem có gặp không. Để hỏi bác ta xem trên ấy ra sao, làm ăn thế nào.
Anh ta đóng yên ngựa vội vã ra đi. Anh thấy bác nông dân đang ngồi ở gốc cây liễu, định đếm tiền trong hầu bao. Anh gọi to hỏi:
– Bác có gặp người ở trên trời rơi xuống không?
Bác nông dân đáp:
– Có, bác ta lại đi về rồi, bác ta trèo lên đỉnh núi kia để đi cho gần. Anh chịu khó phi ngựa thì đuổi kịp đấy.
Anh thanh niên nói:
– Chà! Tôi làm suốt ngày, vất vả, lại phi ngựa đến đây thì mệt lử rồi. Bác biết người ấy, bác làm ơn cưỡi ngựa này đến nói khéo cho người ấy thuận lại đây hộ.
Bác nông dân nghĩ bụng gã này cũng lại tàng tàng. Bác bảo:
– Thôi thì để tôi giúp cậu vậy!
Bác trèo lên ngựa phóng nước đại. Gã thanh niên ngồi đợi đến đêm cũng không thấy bác nông dân trở về. Anh nghĩ bụng chắc là người kia vội vã về trời nên không muốn quay lại và bác nông dân đã đưa cả ngựa cho người ấy mang cho bố mình rồi. Anh quay về kể lại chuyện cho mẹ, nói là đã gửi ngựa cho bố để bố khỏi phải đi bộ. Mẹ bảo:
– Con làm thế là phải. Con có đôi chân còn vững, đi bộ cũng được.
Bác nông dân về đến nhà, nhốt ngựa vào chuồng cạnh con bò giữ làm tin. Bác bảo vợ:
– Bu mày ạ! Bu mày may lắm nhé! Tôi gặp hai người còn ngu đần hơn cả bu mày cơ. Lần này, tôi tha đánh bu mày, để dành dịp khác.
Rồi bác châm điếu hút thuốc, ngồi vào chiếc ghế bành tứ đại và bảo:
– Thật là món bở. Đổi hai con bò còm lấy một con ngựa béo, lại thêm một hầu bao đầy tiền. Nếu ngu đần mà lại như thế này thì mình cứ là trọng ngu đần mãi.
Bác nông dân nghĩ vậy, nhưng hẳn là các bạn còn thích những người đần độn hơn.
Bác nông dân và con quỷ
Bác nông dân và con quỷ
Bác nông dân và con quỷ bác nông dân và con quỷ 2010 truyện bác nông dân và con quỷ bác nông dân và con gấu thơ bác nông dân tả bác nông dân tả bác nông dân đang cày ruộng
Xưa có một bác nông dân khôn ngoan ranh mãnh, mẹo vặt của bác thì không sao kể hết được. Lý thú nhất là chuyện bác có lần lừa được cả quỷ.
Một hôm, trời xẩm tối, bác cày ruộng xong, sửa soạn về nhà thì thấy ở trên mảnh ruộng của mình một đống than hồng. Bác lấy làm lạ đến gần thì thấy một con quỉ nhỏ đen xì ngồi trên lửa. Bác bảo:
– Mày ngồi trên đống của đấy à?
Quỷ đáp:
– Đúng rồi, ngồi trên đống của, chú mày suốt đời chưa thấy nhiều vàng bạc đến thế đâu!
Bác nông dân nói:
– Của cải trên đất của ta là thuộc về ta.
Quỷ đáp:
– Ừ, nó thuộc về chú mày, nếu chú mày làm ruộng hai vụ, hoa lợi được bao nhiêu chú mày chịu chia cho ta một nửa. Tiền thì ta có khối, ta chỉ thèm có ít hoa lợi thôi.
Bác nông dân nhận lời, bảo:
– Để sau này chia nhau khỏi lôi thôi, mày sẽ lấy cái gì mọc ở trên mặt đất, tao sẽ lấy cái gì mọc ở dưới.
Quỷ đồng ý. Bác nông dân đa mưu trồng củ cải. Đến mùa bới củ cải, quỷ hiện lên để lấy phần hoa lợi của mình thì chỉ thấy rặt có lá úa vàng, còn bác nông dân thì được bới củ, thích chí lắm. Quỷ bảo:
– Thôi được, chú mày đã lừa được ta một chuyến, chuyến sau thì đừng có hòng. Cái gì mọc trên mặt đất thì chú mày lấy, còn ta sẽ lấy cái gì mọc ở dưới.
Bác nông dân đáp:
– Thế cũng được.
Đến mùa, bác không trồng củ cải nữa mà gieo lúa. Lúa chín, bác ra đồng cắt lúa gần sát đất. Quỷ đến thấy chỉ có gốc rạ tức quá chui xuống vực. Bác nông dân nói:
– Ấy đối với cáo già thì phải cho một vố như thế.
Rồi bác đi lấy của.
Truyện cổ Grim Sáu người hầu
Truyện cổ Grim Sáu người hầu
Xưa có một bà hoàng hậu già, vốn là một mụ phù thủy. Mụ sinh được một con gái đẹp vào bậc nhất trên đời. Nhưng mụ vốn chỉ tìm cách hại người nên mụ vẫn bảo: Ai đến cầu hôn cũng phải làm một việc đã, làm được mụ sẽ gả con gái cho, mà làm không xong thì mất mạng. Đã nhiều người chỉ vì mê nhan sắc phải liều thân nhưng làm chẳng nổi các việc mụ giao đành chịu quì gối rơi đầu. Có vị hoàng tử nghe đồn về sắc đẹp của người con gái ấy, tâu vua cha:
– Cha cho con đi cầu hôn thử.
Vua khuyên hoàng tử:
>>> Nghìn lẻ một đêm – Chương 1
– Không khi nào cha ưng đâu con ạ. Con đi là đi vào cõi chết đấy!
Hoàng tử ốm tương tư nằm liệt giường suốt bảy năm không thầy thuốc nào chữa được. Vua thấy đã tuyệt vọng, buồn lắm, bảo con:
– Thôi thế con cứ đi mà cầu may vậy. Cha cũng chẳng còn cách nào khác để giúp con nữa.
Hoàng tử nghe cha nói, đứng dậy ngay. Chàng thấy trong người lại khỏe và hớn hở lên đường.
Một hôm chàng đang phi ngựa qua cánh đồng hoang, bỗng thấy ở xa lù lù một vật gì tựa đống cỏ lớn. Lại gần nhìn kỹ, hóa ra đấy là bụng một anh chàng đang nằm dài dưới đất. Cái bụng ấy bằng quả núi con. Gã béo thấy có người phi ngựa đến vội đứng lên thưa:
– Nếu như ngài cần người, tôi xin theo hầu.
Hoàng tử đáp:
– Cồng kềnh như ngươi, ta biết dùng làm gì đây?
Gã béo nói:
– Thưa, chưa thấm vào đâu, tôi mà phình người ra thật sự, còn lớn gấp ba ngàn lần nữa.
Hoàng tử bảo:
– Nếu quả như thế thì có cơ dùng được. Ngươi đi với ta.
Gã béo đi theo hoàng tử. Lúc sau, lại thấy một người nằm dài dưới đất ghé tai sát mặt cỏ.
Hoàng tử hỏi:
– Ngươi làm gì thế?
Người ấy đáp :
– Tôi đang lắng nghe.
– Nghe gì mà chăm chú thế?
– Nghe xem trên thế gian mới có chuyện gì xảy ra. Chẳng có gì lọt được khỏi tai tôi. Đến tiếng cỏ mọc tôi cũng nghe thấy.
Hoàng tử bảo:
– Thế ngươi thử nói xem, ngươi đã nghe thấy gì trong triều của bà hoàng hậu già có cô con gái đẹp nhất đời ấy?
Gã đáp:
– Tôi nghe có tiếng gươm chém soàn soạt: hẳn có kẻ đến cầu hôn bị chặt đầu.
Hoàng tử bảo gã:
– Đi với ta, có thể ta cần đến ngươi.
Ba người cùng đi. Lúc sau, họ thấy như có hai bàn chân ai ở trước mặt họ. Họ thấy cả bắp chân nhưng không nhìn được suốt hết. Họ lại đi một quãng đường nữa mới trông thấy thân người, rồi đi mãi mới trông thấy đầu. Hoàng tử thét lên:
– Chao ôi! Người đâu mà dài quá!
Gã người dài đáp:
– Nào đã thấm vào đâu! Tôi mà vươn ra thật sự thì còn dài đến gấp ba ngàn lần nữa, cao hơn quả núi cao nhất thế giới. Nếu người cần hỏi tôi, tôi xin theo hầu.
Hoàng tử bảo gã:
– Đi với ta, có thể ta cần đến ngươi.
Họ đi một quãng, thấy có người hai mắt bịt chặt ngồi bên lề đường. Hoàng tử hỏi:
– Mắt ngươi hỏng hay sao mà không dám nhìn ra ánh sáng thế?
Gã đáp:
– Không phải đâu! Tôi không dám gỡ khăn bịt mắt chính là vì nhãn quang mạnh lắm. Tôi đã nhìn vật gì, vật ấy ắt nổ tung. Nếu người dùng được tôi, tôi xin theo hầu.
Hoàng tử bảo gã:
– Đi với ta, có thể ta cần đến ngươi.
Họ lại đi và thấy một người đang nằm sưởi giữa nắng mà cứ run cầm cập, tay chân lẩy bẩy.
Hoàng tử hỏi:
– Trời đang nóng ngội ngạt mà sao người lại rét được?
Gã đáp:
– Trời ơi, cơ thể tôi nó rất lạ. Người ta càng thấy bức thì tôi càng thấy rét, rét thấu xương thấu tủy. Ngược lại trời càng giá thì tôi càng thấy oi bức. Tôi ngồi giữa đồng bằng mà thấy oi bức không chịu nổi. Lúc ngồi giữa đống lửa mà thấy rét không chịu nổi.
Hoàng tử bảo:
– Thật là người kỳ dị! Ngươi có muốn theo ta thì đi với ta.
Họ lại đi tiếp và gặp một người đang vươn cổ mà dòm qua các chỏm núi. Hoàng tử hỏi:
– Ngươi làm gì mà hăng thế?
Gã bảo:
– Tôi có cặp mắt rất sáng, nhìn thấu mọi núi cao, rừng rậm, đồng ruộng, lũng sâu, có thể thấy khắp cả thế gian.
Hoàng tử bảo gã:
– Nếu ngươi thuận thì đi với ta. Ta đang thiếu người có tài ấy.
Hoàng tử đem sáu người hầu đến thẳng thành đô, chỗ mụ hoàng hậu già ngự trị. Chàng không để lộ tung tích, chỉ nói:
– Nếu người định gả con gái cho tôi thì sai gì tôi cũng làm.
Mụ phù thủy thấy chàng đẹp trai, thế mà sa vào tay mụ thì mừng lắm. Mụ bảo:
– Tao sẽ giao cho mày ba việc, làm được cả thì ta gả con cho.
Chàng hỏi:
– Việc thứ nhất là việc gì?
– Trước tao có đánh rơi xuống Hồng Hải mất một cái nhẫn, mày đi tìm về cho tao.
Hoàng tử lẻn về bảo sáu người hầu:
– Việc thứ nhất không dễ đâu, ta phải tìm một cái nhẫn rơi ở Hồng Hải, biết làm sao bây giờ?
– Để tôi xem nó chỗ nào? – Gã mắt sáng nói.
Gã ngó một lúc rồi nói:
– Kia rồi! Nó bị mắc trên một mũi đá ngầm.
Gã người dài lưng nói:
– Tôi lấy được ngay, chỉ tiếc chưa nhìn thấy.
Gã béo hét:
– Chỉ cần thế thôi à?
Gã nằm phục xuống, ghé miệng sát mặt nước. Sóng biển xô nhau vào một hang ngầm. Gã uống một hơi dài cạn sạch nước, còn trơ đáy biển ráo khô như bãi cỏ. Lúc ấy, gã người dài mới cúi xuống, gã chỉ hơi nghiêng mình đã nhặt được nhẫn. Hoàng tử cầm nhẫn, mừng lắm, mang ngay về cho mụ già. Mụ kinh ngạc quá, kêu:
– Ừ, đúng cái nhẫn này rồi!
Rồi mụ nói tiếp:
– Việc thứ nhất may mắn đã xong, nhưng còn việc nữa. Mày có thấy ba trăm con bò mộng đang ăn cỏ ở ngoài bãi trước lâu đài không? Mày phải ăn được bằng hết ba trăm con bò ấy, phải ngốn cả da, lông, xương, sừng. Dưới hầm có ba trăm thùng rượu vang, mày cũng phải nốc cho bằng cạn. Không được để sót một sợi lông bò, một giọt rượu. Bằng không, mày sẽ không còn được hoàn mạng.
Hoàng tử hỏi:
– Liệu tôi có được mời bạn cùng ăn không? Ăn uống thiếu bạn phỏng còn thú vị gì.
Mụ già cười nham hiểm:
– Cho mày mời một đứa bạn, nhưng chỉ được một đứa thôi.
Hoàng tử ra tìm sáu người hầu và bảo gã béo:
– Hôm nay ngươi là khách của ta, cứ việc ăn thật no nhé.
Gã béo căng bụng ăn một lúc hết sạch đàn bò ba trăm con, đến sợi lông cũng không còn. Ăn xong gã còn hỏi liệu sau bữa điểm tâm ấy có gì nữa không. Gã tu cạn mấy trăm thùng rượu, chẳng cần rót ra cốc, chẳng bỏ sót một giọt.
Bữa ăn đã xong, Hoàng tử vào báo cho mụ già biết.
Mụ kinh ngạc lắm, bảo:
– Chưa có đứa nào làm được thế, nhưng còn việc nữa.
Mụ nghĩ bụng: “Đằng nào rồi mày cũng mất đầu, thoát khỏi tay ta sao được”. Mụ hẹn:
– Tối nay, tao sẽ cho con gái vào phòng mày. Mày phải ôm nó mà ngồi suốt đêm, cấm ngủ. Đúng nửa đêm, tao sẽ đến xem. Nếu lúc ấy mày buông tay ra rồi, tức là mày thua cuộc.
Hoàng tử nghĩ thầm: “Khó gì việc này, ta thức được”. Nhưng chàng vẫn gọi các người hầu vào, nói cho họ biết và bảo:
– Ai biết mưu sâu của nó thế nào! Cẩn thận vẫn hơn, các ngươi hãy thức canh và phải chú ý, chớ để nàng ra khỏi phòng.
Tối, mụ già đưa con lại, giao tận tay hoàng tử. Gã người dài vội nằm khoanh lại thành một cái vòng quanh hai người, còn gã béo đứng cạnh ngay trước cửa. Họ tưởng thế là chắc, không ai lọt vào nổi. Hai người ngồi trong, cô gái chẳng nói một câu nhưng nhờ ánh trăng rọi chếch qua cửa sổ soi tỏ khuôn mặt cô nên Hoàng tử vẫn thấy được dung nhan tuyệt vời ấy. Chàng cứ ngắm hoài, yêu thương, mừng rỡ tràn đầy, không hề thấy mỏi mắt. Khoảng mười một giờ khuya, mụ già niệm chú cho mọi người thiếp đi, rồi mụ hóa phép cướp người con gái. Họ thiếp đi cho đến tận mười một giờ bốn lăm. Khi ấy yêu thuật hết linh nghiệm mọi người tỉnh dậy. Hoàng tử kêu:
– Vạ đến nơi rồi! Ta thua cuộc rồi!
Mấy người trung thành cũng bắt đầu than thở, bỗng gã thính tai bảo:
– Im nào, để tôi xem nào!
Gã lắng tai nghe một lúc rồi bảo:
– Cô ấy đang ngồi than thân trong một quả núi đá, cách đây ba trăm giờ đi bộ. Cậu người dài là người duy nhất làm nổi việc này: cậu cứ duỗi dài người ra thì chỉ cần bước dăm bước là đến nơi.
Gã người dài bảo:
– Được, nhưng cậu mắt sắc phải đi với tớ, ta sẽ cùng dọn quả núi ấy đi.
Nói đoạn, gã xốc luôn gã bịt mắt lên vai và chỉ trong nháy mắt, chưa kịp trở bàn tay hai gã đã đứng trước quả núi yểm bùa. Gã người dài vội tháo cái khăn bịt mắt gã kia. Gã kia mới trừng mắt, cả quả núi đã nổ tan ra ngàn vạn mảnh. Gã người dài vội bế bổng cô thiếu nữ lên và chỉ trong nháy mắt, gã đã về đến nơi. Gã lại đi đón nốt bạn về, cũng nhanh như thế. Trước khi đồng hồ điểm mười hai tiếng, họ đã ngồi lại cả ở đó, tỉnh táo và hớn hở. Đúng nửa đêm, mụ già rón rén bước lại. Vẻ mặt mụ kiêu kỳ như muốn bảo: “Giờ thì mày ở trong tay tao rồi”.
Mụ cứ tưởng con gái vẫn còn ngồi trong núi cách đây ba trăm dặm. Ngờ đâu mụ thấy con vẫn ngồi nguyên trong tay hoàng tử. Mụ kinh hãi quá, kêu:
– Thằng này thật cừ hơn ta!
Mụ còn biết nói sao nữa, đành phải gả con gái cho Hoàng tử nhưng mẹ khẽ rỉ tai con:
– Thật là nhục cho con, không kiếm được tấm chồng tương xứng, để từ nay cứ phải vâng theo một đứa thường dân.
Người con gái bị tổn thương lòng kiêu kỳ sinh căm giận, nghĩ cách báo thù. Sáng hôm sau, nàng sai chở ba trăm thước gỗ đến rồi nói với hoàng tử: “Mặc dầu ba việc đã làm xong, ta sẽ chỉ lấy chàng khi nào có kẻ dám ngồi giữa đống gỗ cháy mà chịu được lửa”. Nàng nghĩ chẳng kẻ hầu nào chịu thiêu mình vì chủ đâu và vì yêu nàng tất chàng sẽ phải đích thân ngồi vào, thế là nàng thoát. Sáu người hầu bàn nhau: “Bọn mình ai cũng đã được một việc, chỉ có cậu rét run chưa làm gì, giờ đến lượt cậu ấy”. Họ đã khiêng gã rét run lên đống gỗ rồi đốt lửa. Lửa cháy suốt ba ngày, cả đống gỗ ấy ra tro. Nhưng lửa vừa mới lụi đã thấy người rét run đứng dậy giữa đống tro run rẩy như tầu lá mà bảo.
– Đời tôi chưa khi nào thấy rét như thế này, rét thêm tý nữa chắc là chết cóng mất!
Người con gái đẹp không còn kế nào khác, đành nhận lời lấy chàng trai lạ mặt. Nhưng lúc họ lên xe ra nhà thờ làm lễ cưới, mụ già lại nói:
– Tao không chịu được cái nhục này!
Mụ sai binh tướng đuổi theo, hạ lệnh chúng phải giết sạch và đem bằng được con gái về cho mụ. Không ngờ gã thính tai nghe được cả những lời dặn dò kín đáo ấy. Gã hỏi gã béo:
– Làm thế nào đây?
Nhưng gã này đã có kế rồi, gã nhổ ngay nước biển đã uống khi trước, mới nhổ vài bãi đã thành cái hồ lớn chặn đường cỗ xe. Đám binh tướng của mụ già không sao tiến được và bị chết đuối rất nhiều. Mụ già biết tin lại cho một đội giáp binh nữa đuổi theo. Nhưng gã thính tai đã kịp nghe thấy tiếng đồ binh giáp va nhau lách cách. Gã giật cái khăn bịt mắt gã mắt sắc. Gã này mới chỉ hơi trừng mắt, quân thù đã tan tành như mớ thủy tinh vụn. Đoàn người yên chí đánh xe đi tiếp.
Khi cặp vợ chồng vào nhà thờ làm phép cưới đã xong, sáu người hầu nói với chủ:
– Giờ Người đã toại nguyện, không cần đến chúng tôi nữa. Chúng tôi xin đi nơi khác tìm vận hội.
Ở trước cung điện của hoàng tử, cách độ một nửa giờ đi bộ, có một cái thôn nhỏ. Lúc họ đi ngang đấy, thấy một người đang chăn lợn ngoài thôn. Hoàng tử bảo vợ:
– Nàng có biết thật ta là ai không? Ta không phải là con vua đâu mà chỉ là con của một người chăn lợn. Người chăn lợn kia chính là cha ta đấy. Rồi đôi ta cũng sẽ phải giúp cha một tay.
Nói đoạn, chàng xuống xe. Dắt ngang vào quán trọ. Chàng rỉ tai bảo kẻ hầu trong quán, đợi đêm lấy trộm quần áo sang trọng của hai người đi. Sáng hôm sau, lúc hai người thức dậy, quần áo mất sạch chẳng còn gì mặc. Mụ chủ cầm vào cho nàng một cái áo cũ với đôi tất đen cũng đã cũ. Mụ còn làm như món quà lớn lắm, mụ bảo:
– Không có chồng cô, tôi chẳng cho cô tí gì đâu!
Nàng lại càng tin: “Đúng chồng mình chỉ là anh chăn lợn”. Nàng cũng đi chăn lợn với chồng và nghĩ bụng: “Cũng là đáng đời mình, cứ hay kiêu kỳ ngạo nghễ”. Như thế được tám hôm, chân
nàng đau nhức quá không thể chịu được nữa. Khi ấy có một người đến hỏi nàng có biết chồng nàng là ai không. Nàng đáp:
– Có chứ! Là anh chàng chăn lợn. Nhà tôi vừa ra xong, hình như đi mua dây bán rợ gì đấy.
Nhưng mấy người nọ bảo:
– Lại đằng này đi, chúng tôi sẽ đưa chị đến nơi. Họ dẫn nàng lên cung điện. Lúc nàng vào đến phòng lớn thì chồng nàng đã ở đấy, mình khoác hoàng bào, nhưng nàng không nhận ra. Mãi đến lúc chồng bá cổ hôn nàng mới biết. Chàng bảo:
– Ta chịu khổ vì em đã nhiều, nên em cũng cần chịu khổ vì ta.
Đám cưới được tổ chức ngay và người kể chuyện này cũng rất muốn đến dự.
Ngọn đèn xanh
Ngọn đèn xanh
sách truyện cổ grim, truyện cổ grim bản gốc, download truyện cổ grim, truyện cổ grim audio, truyện cổ grim bằng tiếng anh, phim truyện cổ grim, truyện cổ grim wiki, phim hoạt hình truyện cổ grim
Ngày xưa, có một người lính tận tụy với nhà vua bao nhiêu năm trời ròng rã. Hết thời chinh chiến, người ấy bị thương nhiều, không phụng sự được nữa, vua phán rằng:
– Bây giờ ta không cần đến ngươi nữa, cho ngươi về. Mà ta cũng không thể cho ngươi tiền của gì vì ta chỉ trả công cho kẻ nào phụng sự ta thôi.
>>> Nghìn lẻ một đêm – Chương 4
>>> Nghìn lẻ một đêm – Chương 3
>>> Nghìn lẻ một đêm – Chương 2
Người lính già chẳng biết làm gì để sinh nhai, buồn bã, đi thơ thẩn suốt ngày, buổi chiều đến một khu rừng. Trời tối, bác thấy ở đằng xa có ánh đèn, bác lại gần thì ra là nhà một mụ phù thủy. Bác nói với mụ:
– Xin bà làm ơn cho tôi ngủ nhờ đêm nay và cho tôi ăn uống một chút vì tôi đói quá.
Mụ già đáp:
– Chao ôi! Có ai hơi đâu mà chứa một tên lính lạc đường như mày. Nhưng thôi, ta làm phúc cho, miễn là ngươi giúp ta một việc.
– Việc gì hở bà?
– Mai xới vườn cho ta.
Người lính bằng lòng và hôm sau làm cật lực, mà đến chiều tối vẫn không xong. Mụ già nói:
– Ta biết hôm nay mày làm được đến thế là cùng. Ta muốn để ngươi ở đây đêm nay nữa, nếu mai ngươi chịu chẻ củi cho ta.
Người lính ra công làm suốt ngày. Tối đến mụ già lại bảo bác ở lại đêm nữa. Mụ nói:
– Ta chỉ nhờ mày tí việc: lấy ở dưới giếng cạn sau nhà lên cho ta ngọn đèn ta đã đánh rơi xuống đấy. Ngọn đèn đó sáng xanh le lói, không bao giờ tắt.
Hôm sau, mụ già đưa người lính ra giếng, bảo ngồi vào thúng, rồi ròng dây xuống. Lấy được ngọn đèn sáng xanh rồi, bác ra hiệu cho mụ già kéo lên. Khi mụ kéo bác đến miệng giếng, mụ giơ tay đỡ lấy ngọn đèn. Nhưng bác nhận thấy mụ có tà ý, bèn bảo:
– Không, không, để ra khỏi giếng tôi mới đưa đèn cho bà.
Mụ già nổi giận, buông dây ra, để cho người lính rơi xuống giếng, rồi bỏ đi. Người lính rơi xuống đất ẩm nên không việc gì. Ngọn đèn vẫn cháy, nhưng biết làm thế nào cho thoát. Bác chắc mình thế nào cũng chết.
Bác ngồi một lúc lâu, trong lòng buồn bã. Tình cờ thò tay vào túi, bác thấy cái điếu đã nhồi một nửa thuốc. Bác nghĩ bụng: “Đây là cái thú cuối cùng của ta đây”, rồi rút điếu châm vào ngọn đèn xanh, và hít vài hơi. Khi khói thuốc tỏa ra khắp giếng, một người bé nhỏ, đen xì
bỗng hiện ra hỏi bác:
– Thưa thầy, thầy sai gì con ạ?
Người lính ngạc nhiên hỏi:
– Ta có điều gì sai anh đâu?
– Thầy muốn gì, con phải làm nấy.
– Nếu vậy thì trước hết giúp ta ra khỏi giếng.
Người bé nhỏ đen xì bèn dắt người lính, đưa qua một con đường hầm, không quên cầm theo ngọn đèn xanh le lói. Đi đường người ấy trỏ cho bác biết kho vàng mà mụ già giấu ở đấy. Bác lính tha hồ mà lấy của. Lên đến mặt đất, bác lính bảo người kia rằng:
– Bây giờ anh đi trói con mụ già lại và dẫn nó đến tòa án cho ta.
Chỉ lát sau, bác thấy mụ cưỡi mèo rừng phóng qua, miệng thét kinh hồn. Người bé nhỏ lại hiện ngay đến, nói rằng:
– Thưa thầy, mọi việc đã xong cả rồi, mụ phù thủy bị tống giam. Thầy còn sai gì con nữa không?
– Bây giờ thì thôi, anh cứ về nhà, nhưng hễ ta gọi thì đến ngay nhé.
– Thầy chả cần gọi, thầy chỉ việc châm điếu vào ngọn đèn xanh là con đến ngay tức khắc.
Nói xong người ấy biến mất. Còn bác lính lại quay về kinh. Bác sắm quần áo đẹp, vào nhà trọ sang trọng nhất. Xong xuôi, bác gọi người bé nhỏ đen thui tới bảo:
– Ta đã phụng sự nhà vua trung thành mà nhà vua nỡ tống ta đi, bỏ ta chết đói, ta phải trả thù mới được.
Người bé nhỏ hỏi:
– Thầy sai gì con?
– Đêm khuya, khi công chúa ngủ say, anh đem công chúa về cho ta để ta bắt nó hầu ta như đầy tớ vậy.
Người bé nhỏ đáp:
– Việc đó đối với con thì dễ thôi, nhưng nếu chuyện vỡ lở ra thì rất nguy hiểm cho thầy.
Đúng nửa đêm, cửa mở, người bé nhỏ mang công chúa vào. Người lính quát:
– Hừ! Cô đã đến đấy à? Đi làm việc ngay đi. Lấy chổi quét buồng ngay.
Công chúa quét xong, bác lính gọi lại, giơ chân ra, bắt công chúa tháo giầy ủng, ném giầy vào mặt bắt nhặt đem lau bùn và đánh bóng. Nàng im lặng làm tất không cưỡng lại, hai mắt lim dim. Khi gà gáy lần thứ nhất, người bé nhỏ lại đem nàng về cung và đặt nàng vào giường.
Sáng dậy, công chúa vào tâu với vua rằng đêm qua nàng nằm mơ rất lạ:
– Con bị mang đi qua các phố nhanh như chớp, đến buồng một người lính. Con đã phải hầu hắn như đấy tớ. Con đã phải làm những việc nặng như quét buồng, đánh giầy. Tuy đó chỉ là một giấc mơ, nhưng con cũng thấy nhọc mệt như làm công việc ấy thật.
Vua nói:
– Chiêm bao có thể là sự thật. Cha khuyên con lấy đỗ nhỏ bỏ đầy túi áo. Nếu con lại bị mang đi thì đỗ sẽ vãi suốt dọc các thành phố mà con qua, và sẽ có dấu vết trên mặt đường.
Người bé nhỏ đứng nấp ở chỗ gần vua nghe trộm được những lời vua dặn con gái. Đến đêm khi người ấy lại mang công chúa đi thì đỗ rơi ở túi áo công chúa ra đường thật, nhưng đỗ đó không thể làm dấu được vì người bé nhỏ đa mưu đã rắc đỗ trước ở khắp các phố. Công chúa lại phải làm công việc con đòi cho đến khi nghe tiếng gà gáy thứ nhất.
Hôm sau, vua sai bộ hạ lần theo hạt đỗ đi tìm nhưng chỉ uổng công, trẻ con ở khắp các phố đang ngồi nhặt đỗ, phao đồn rằng đêm qua mưa ra đỗ.
Vua nói:
– Con ơi, phải tìm kế khác. Con sẽ đi ngủ cả giầy, rồi khi họ đem con đến đâu, con sẽ dấu một chiếc ở đấy, nhất định cha sẽ tìm được.
Người bé nhỏ đem thui lại nghe trộm được. Ngay tối hôm ấy, người lính lại sai đi bắt công chúa về cho mình. Nhưng tớ can thầy, bảo thầy là không nghĩ ra được mưu gì và e rằng người ta sẽ tìm thấy chiếc giầy ở nhà thầy thì thầy sẽ nguy hiểm đến tính mệnh. Nhưng bác lính không chịu:
– Tôi đã sai thì anh cứ làm đi.
Đến đêm thứ ba, công chúa lại phải làm con đòi. Nhưng trước khi bị đem trả về cung, nàng giấu một chiếc giầy xuống gầm giường.
Hôm sau, nhà vua cho tìm chiếc giầy của con gái khắp tỉnh, thì thấy ở nhà người lính. Người bé nhỏ khuyên thầy trốn khỏi tỉnh, nhưng chưa kịp trốn đã bị bắt bỏ tù. Khi chạy đi, người lính bỏ quên ngọn đèn xanh và mất hết của, trong túi chỉ còn một đồng vàng.
Bác bị xích, đang đứng bên cửa sổ ngục, bỗng thấy người bạn cũ đi qua, liền đập vào cửa kính. Khi bạn đến gần thì bác nói:
– Anh làm ơn đến nhà trọ tìm hộ tôi một cái gói nhỏ, tôi sẽ biếu anh một đồng vàng.
Người bạn đi ngay và mang cái gói lại cho bác. Bác đợi cho bạn đi khuất, châm điếu. Người bé nhỏ đen thui hiện ra, thưa với thầy:
– Thầy đừng lo, cứ để chúng muốn điệu đi đâu thì điệu, làm gì thì làm, nhưng thầy chớ quên mang theo cây đèn xanh.
Hôm sau người lính bị đưa ra xử trước tòa án. Dù bác không phạm tội ác gì, quan tòa vẫn kết án tử hình. Khi đi ra pháp trường, bác xin vua một điều cuối cùng.
Vua hỏi:
– Ngươi muốn điều gì?
– Thần xin được hút thuốc ở dọc đường.
– Muốn hút ba điếu cũng được, nhưng ngươi chớ tưởng rằng ta sẽ ân xá cho ngươi đâu.
Người lính bèn rút ngay điếu ra và ghé điếu vào ngọn đèn xanh để châm lửa. Khói thuốc vừa tỏa lên thì người bé nhỏ, tay cầm gậy, đã đứng đó rồi, và hỏi:
– Thưa thầy bảo gì con ạ?
– Anh hãy nện thẳng tay vào bọn quan tòa giả dối kia và cả môn hạ của chúng, nện cả tên vua đã bạc đãi ta.
Nhanh như chớp, người nhỏ bé xông vào bọn chúng, đánh lia lịa, đứa nào mới bị gậy đụng phải cũng ngã lăn ra đất, không còn cựa quậy được nữa. Tên vua hoảng hồn, xin tha tội và dâng bác lính ngôi báu cùng công chúa làm vợ.
Anh chàng đánh trống
Anh chàng đánh trống
Anh chàng đánh trống đánh trống múa lân game đánh trống đánh trống hay đánh trống đám cưới đánh trống online đánh trống bỏ dùi đánh trống ngực là bệnh gì đánh trống đội
Một buổi tối, Anh chàng đánh trống trẻ tuổi đi một mình giữa cánh đồng. Tới bên một cái hồ, anh thấy trên bờ ba chiếc áo trắng của ai vứt đó. Anh khen: “Vải đẹp quá!”. Rồi nhét luôn một chiếc vào túi. Về nhà, anh cũng quên khuấy mất câu chuyện nhặt được của rơi. Anh lên giường nằm, sắp ngủ chợt nghe như có tiếng người gọi tên mình. Anh lắng nghe thì quả có tiếng gọi rất khẽ: “Anh đánh trống ơi, anh đánh trống ơi, dậy đi thôi”. Đêm tối quá, anh không nhìn thấy rõ người nhưng anh thấy rõ một cái bóng cứ lơ lửng trước giường anh nằm.
>>> Nghìn lẻ một đêm – Chương 7
>>> Nghìn lẻ một đêm – chương 6
>>> Nghìn lẻ một đêm – Chương 5
Anh hỏi:
– Mày muốn gì?
Tiếng người đáp:
– Trả lại cho tôi cái áo, cái áo anh đã lấy của tôi ở bờ hồ tối nay ấy.
Anh chàng đánh trống nói:
– Được, ta sẽ trả, song mày phải cho ta biết mày là ai đã.
“Trời!”, tiếng người đáp. “Tôi là con gái một ông vua hùng cường. Chẳng may tôi sa vào tay một mụ phù thủy và bị nó đầy lên ngọn núi Thủy tinh. Ngày nào ba chị em tôi cũng xuống hồ tắm. Hôm nay vì mất áo, tôi không về được nữa. Các chị đã bay đi cả rồi, riêng tôi phải ở lại. Tôi van anh, anh hãy trả lại áo cho tôi”.
Anh chàng đánh trống nói: “Cứ yên chí, cô bé đáng thương ơi, tôi sẵn lòng trả lại áo cho cô”.
Anh rút túi lấy áo trả lại cho người đứng trong bóng tối. Người con gái vội cầm lấy định đi ngay. Anh gọi cô ta lại:
– Hãy khoan đã, may ra tôi có thể giúp cô chăng?
– Muốn giúp tôi thì chỉ có cách là anh lên ngọn núi Thủy tinh mà cứu tôi thoát khỏi phép thuật của mụ phù thủy. Nhưng anh lên núi làm sao nổi, dù anh có lọt vào sát tới chân núi, anh vẫn không thể lên được.
Anh chàng đánh trống nói:
– Tôi thương cô và tôi không sợ gì hết. Nhưng tôi không biết đường đi.
Người con gái đáp:
– Đường đi qua một khu rừng lớn. Trong rừng có bọn khổng lồ ăn thịt người, tôi chỉ được phép nói với anh thế thôi. Nói xong cô gái biến mất.
Sớm hôm sau, trời vừa rạng sáng, Anh chàng đánh trống lên đường, đeo trống đi thẳng vào rừng không chút sợ hãi. Đi được một lát mà vẫn chưa thấy tên khổng lồ nào, anh nghĩ bụng: “Phải đánh thức cái bọn ngủ trưa này dậy”. Anh bèn xoay trống ra phía trước, khua vang một hồi, khiến chim chóc trên cây đều xao xác bay đi.
Chỉ một lát sau, thấy một tên khổng lồ nằm ngủ trong bụi cỏ nhỏm dậy. Hắn đứng cao lênh khênh như một cây thông. Hắn thét:
– Thằng nhóc kia, mày làm gì mà khua ầm lên, làm mất giấc ngủ ngon.
Anh đáp:
– Ta đánh trống để chỉ đường cho hàng vạn người còn đi sau ta và sắp kéo cả đến đây bây giờ.
Tên khổng lồ nói:
– Ui chao, tao sẽ giẫm chết bọn mày như giẫm chết đàn kiến ấy.
Anh chàng đánh trống tiếp lời:
– Mày tưởng mày chống cự nổi họ à? Mày cúi xuống định chộp một người thì người đó lập tức nhảy đi và ẩn nấp ngay. Nhưng đợi lúc mày đi nằm, ngủ lại rồi, từ khắp các bờ bụi, họ mới kéo ra và trèo lên người mày. Người nào cũng có một cây búa sắt giấu trong thắt lưng, họ sẽ đập vỡ sọ mày ra.
Tên khổng lồ thấy ngài ngại. Hắn nghĩ bụng: “Mình mà dây với lũ ranh ma này, kéo lại bị hại. Sói và gấu, ta bóp cổ chết tươi ngay, nhưng cái đám sâu đất này thì khó chơi đây”.
Hắn nói:
– Nghe này, thằng nhóc, mày hãy cút đi, ta hứa từ nay về sau không đụng đến mày và đồng bọn của mày. Và nếu như mày muốn gì nữa thì cứ nói, ta sẵn sàng làm mày vui lòng.
Anh chàng đánh trống nói:
– Chân mày dài, mày có thể chạy nhanh hơn tao, mày hãy đem ta lên ngọn núi Thủy tinh. Ta sẽ ra hiệu cho người của ta rút đi thì mày được yên ổn.
Tên khổng lồ nói:
– Lại đây, giống sâu bọ kia, leo lên vai ta mà ngồi, ta sẽ đem mày lên đó.
Tên khổng lồ nhấc anh lên. Ngồi yên trên đó rồi, anh lại bắt đầu khua trống rộn lên một hồi. Tên khổng lồ nghĩ bụng: “Có lẽ nó đang làm hiệu cho bọn kia rút”.
Đi được một quãng thì gặp một tên khổng lồ nữa. Hắn nhấc luôn Anh chàng đánh trống khỏi vai tên kia và mắc anh vào một khuy áo. Anh chàng đánh trống vội bám vào cái khuy, to bằng cái chậu sành ngồi chắc ở đó, ngó nhìn xung quanh, có vẻ rất thích thú. Lại gặp một tên thứ ba, tên này lôi anh ra khỏi cái lỗ khuy áo và giắt anh lên vành mũ của hắn. Anh đánh trống ngồi rập rình trên đó, nhìn qua các ngọn cây, thấy tít tắp phía xa xanh biếc có một trái núi. Anh nghĩ bụng: “Chắc là ngọn núi Thủy tinh”. Mà cũng đúng thế thật. Tên khổng lồ chỉ đi có vài bước nữa là tới sát bên chân núi, hắn đặt anh xuống đất. Anh đánh trống đòi hắn đưa luôn anh lên đỉnh núi, song hắn lắc đầu nói lẩm bẩm câu gì trong miệng rồi quay vào rừng.
Trước mặt anh chàng đánh trống đáng thương là một trái núi cao ngất, đến bằng ba trái núi thường xếp chồng lên nhau. Sườn núi láng như gương, không còn biết trèo lên bằng cách nào cho được. Anh cố trèo lên nhưng vô hiệu, lần nào cũng bị tuột. Anh nghĩ bụng: “Ước gì lúc này mình là chim”. Nhưng ước suông nào được ích gì, cánh vẫn không thấy mọc. Giữa lúc anh đứng ngây ra chưa biết làm gì bỗng cách đấy không xa lắm có hai người đang cãi nhau rất
hăng. Anh đi lại phía họ thì thấy họ đang tranh nhau một cái yên ngựa vứt trên mặt đất, người nào cũng muốn lấy cái yên đó.
Anh nói:
– Các anh mới ngốc làm sao, ngựa chẳng có, giành giật nhau cái yên để làm gì?
Một người đáp:
– Tranh nhau cái yên đó là có lý do, ai ngồi lên yên muốn đi đâu cũng được. Dù muốn đến tận cùng thế giới thì cũng chỉ nói một câu là sẽ tới ngay trong nháy mắt. Yên vốn là của chung chúng tôi, bữa nay đến lượt tôi cưỡi song gã nay lại không chịu.
Anh chàng đánh trống nói:
– Được để tôi phân xử cho.
Anh đi một quãng và cắm một cái gậy trắng xuống đất. Đoạn anh quay lại bảo:
– Giờ hai người cứ nhằm cái đích kia mà chạy, ai đến trước thì người đó sẽ được ngồi trước.
Hai người thì nhau chạy, song họ mới chạy được vài bước thì Anh chàng đánh trống đã nhảy tót lên yên ngựa. Anh ước được lên ngọn núi Thủy tinh, tức thì chưa kịp trở bàn tay, anh đã ở trên đó rồi.
Trên núi có một chỗ đất bằng. Ở đó có một ngôi nhà xây bằng đá đã cũ. Trước cửa có một cái ao cá lớn, phía sau là rừng rậm. Anh chẳng thấy người nào, vật nào cả. Khung cảnh yên lặng, chỉ có tiếng gió thổi vi vu trên ngọn cây và mây lững lờ trôi qua sát ngay trên đầu. Anh bước tới gõ cửa. Gõ đến lần thứ ba thì thấy một mụ già ra mở cửa. Mặt mụ đen xạm, đôi mắt đỏ ngầu. Mụ mang một cặp kính trên cái sống mũi dài thườn thượt, ngó anh trừng trừng và hỏi anh muốn gì. Anh đáp:
– Cho tôi vào ăn và ngủ nhờ
Mụ già nói:
– Được, nếu người chịu làm cho ta ba việc.
Anh đáp:
– Được thôi, tôi chẳng ngại việc gì hết, dù là việc nặng nhọc. Mụ già cho anh vào, cho anh ăn và tối hôm đó xếp cho anh một cái giường rất êm.
Sớm hôm sau, đợi anh đã ngủ no mắt rồi, mụ mới rút từng ngón tay khẳng khiu của mụ ra một cái đê khâu đưa cho anh và bảo:
– Giờ ngươi đi làm đi, ngươi hãy cầm lấy cái đê này tát cạn ao trước nhà cho ta, hẹn đến tối phải xong, và cá dưới nước đã bắt hết lên phải xếp theo từng giống cá và tùy theo cỡ lớn nhỏ.
Anh chàng đánh trống nói:
– Thật là một việc hiếm có.
Nhưng anh vẫn cứ ra ao và bắt đầu tát nước. Anh tát suốt sáng, nhưng với một đê khâu bé tẹo, sao tát cạn nổi một lượng nước lớn như vậy, dù có dài đến ngàn năm đi nữa?
Đến giữa trưa, anh tự nhủ:
– Thế là toi công, làm cũng như không làm.
Anh dừng tay rồi xuống. Vừa khi ấy, một người con gái từ trong nhà đi ra, xách một làn thức ăn đưa cho anh và hỏi:
– Anh ngồi thừ ra đấy trông buồn quá, có điều gì thế?
Anh ngước nhìn thấy người con gái thật là tuyệt đẹp. Anh nói:
– Chà, mới việc thứ nhất đã làm chưa xong, không biết rồi những việc khác sẽ ra thế nào? Tôi đi tìm một nàng công chúa ở đâu trong này song không thấy, tôi muốn đi nữa đây.
Người con gái bảo :
– Cứ ở đây, tôi sẽ giúp anh làm việc khó khăn này. Anh mệt rồi, hãy tạm ngả đầu vào lòng tôi đây mà ngủ. Lúc nào anh trở dậy, việc cũng sẽ vừa xong.
Anh chàng đánh trống không đợi mời đến lần thứ hai. Anh nhắm mắt thì người con gái xoay chiếc nhẫn thầm nói:
– Nước lên đi, cá ra đi.
Tức thì nước lên hơi như sương trắng và cùng mây trôi đi. Cá quẫy lên, nhảy cả lên bờ nằm cạnh nhau xếp theo loại và theo cỡ lớn nhỏ. Đến khi tỉnh dậy, Anh chàng đánh trống ngạc nhiên thấy mọi việc đã đâu vào đấy. Nhưng người con gái bảo:
– Có một con cá không nằm cùng với đồng loại của nó, mà lại nằm riêng một mình. Chiều tối, mụ già đến, thấy mọi việc đã xong như ý mụ muốn, thế nào mụ cũng hỏi: “Tại sao có một con cá này?”. Khi ấy anh hãy ném ngay con cá vào mặt mụ mà nói: “Để phần mày đấy, con mụ phù thủy già ạ”.
Chiều tối, mụ già đến. Mụ vừa dứt lời hỏi, Anh chàng đánh trống ném ngay con cá vào mặt mụ. Mụ cứ lờ đi như không có việc gì xảy ra, chẳng nói một câu, nhưng mụ nhìn anh một cách rất nham hiểm.
Sớm hôm sau, mụ bảo:
– Việc hôm qua dễ quá, ta phải giao cho mày một việc nặng hơn. Bữa nay, mày phá cho cả khu rừng ngoài kia, phải bổ cây thành củi, bổ xong phải xếp thành từ thước một và cũng hạn cho đến chiều tối phải xong.
Mụ đưa cho anh một cây rìu, một con dao rựa với hai con nêm. Nhưng lưỡi rìu lại bằng chì, con dao với nêm đều bằng sắt tây. Anh vừa bắt tay vào việc, rìu đã bị quằn lưỡi, rựa và nêm đều bẹp rúm. Anh không còn biết xoay xở ra sao. Nhưng đến trưa, người con gái hôm trước lại đem thức ăn tới cho anh. Cô an ủi anh:
– Anh ngả đầu vào lòng tôi mà ngủ đi, khi nào anh tỉnh dậy, mọi việc sẽ xong cả.
Người con gái lại xoay chiếc nhẫn thần. Trong nháy mắt cả rừng chuyển mình răng rắc, rồi sập xuống, từng cây gỗ cứ tự tách ra thành củi, rồi những thanh củi nhỏ lại tự xếp thành từng thước. Dường như có những người khổng lồ vô hình nào đã làm việc đó. Lúc anh thức giấc, người con gái bảo:
– Anh thấy không, gỗ đã được bổ và xếp thành đống rồi. Chỉ còn mỗi một cành. Chiều nay mụ già có tới hỏi sao còn sót thì anh lấy cành cây quật cho mụ một cái mà bảo: “Để phần cho mày đó, mụ phù thủy ạ”.
Mụ già đến, mụ nói:
– Thấy không, việc thật là quá dễ. Nhưng còn cái cành kia để cho ai đó?
Anh đáp:
– Để cho mày đó, mụ phù thủy ạ.
Rồi anh quất cho mụ một roi. Nhưng mụ vẫn cứ lờ đi như không có gì xẩy ra. Mụ chỉ cười mỉa mai và bảo:
– Sớm mai mày phải đem hết gỗ chất lại thành một đống, nhóm lửa đốt đi cho ta.
Trời vừa sáng thì anh thức giấc và bắt đầu di chuyển gỗ. Nhưng chỉ có một mình anh thì làm sao chuyển nổi được cả một rừng gỗ. Công việc cứ ì ạch mãi. Nhưng người con gái không bỏ anh trong lúc khó khăn. Buổi trưa, cô đem thức ăn đến cho anh. Ăn xong, anh lại ngả đầu vào lòng cô mà ngủ. Lúc anh tỉnh dậy thì cả đống gỗ đã đỏ rực lửa, ngọn lửa liếm đến tận trời xanh. Người con gái nói:
– Anh ạ, lát nữa con mụ đến, thế nào nó cũng sẽ bắt anh làm nhiều thứ, nó bảo gì anh cứ nhận, đừng sợ, nó không làm gì được anh đâu. Anh mà sợ thì lửa sẽ bắt vào người anh và thiêu anh ra tro tức khắc. Cuối cùng, khi anh đã làm xong mọi việc rồi, anh hãy ôm luôn cả con mụ quẳng nó vào đống lửa.
Người con gái đi được một lúc thì mụ già rón rén tới. Mụ kêu:
– Chà, rét quá, nhưng đống lửa cháy to cũng làm ấm được nắm xương già; ta thấy dễ chịu quá. Nhưng còn khúc gỗ không cháy kia kìa, mày hãy khuân ra đây cho ta. Mày làm xong được nốt việc này, ta cho mày tự do muốn đi đâu thì đi. Cứ nhanh nhẹn mà bước vào đi.
Anh chàng đánh trống không nghĩ ngợi lâu, nhảy luôn vào giữa đống lửa, nhưng lửa không đụng gì đến anh, cũng không thiêu mất một sợi tóc của anh. Anh khuân khúc gỗ ra, đặt xuống. Khúc gỗ vừa chạm mặt đất thì biến thành người con gái đẹp đã từng giúp anh qua bao khó khăn. Thấy quần áo óng ánh như vàng của nàng anh nhận ngay ra đó là công chúa. Nhưng mụ già vẫn cười rất thâm độc. Mụ bảo:
– Mày tưởng con bé ấy đã ở trong tay mày rồi sao? Chưa đâu!
Mụ vừa định chạy đến chỗ người con gái để lôi cô ta đi thì mụ bị anh dang hai tay ôm lại, nâng bổng lên và ném vào giữa đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Lửa cuốn lấy mụ, dường như lửa cũng lấy làm mừng được kết liễu cuộc đời một mụ phù thủy.
Công chúa ngước nhìn Anh chàng đánh trống, thấy anh đẹp trai, lại nhớ đến anh đã không tiếc cả tính mạng để cứu mình, nàng bèn đưa tay cho anh và bảo:
– Chàng đã dám làm tất cả vì thiếp, thì thiếp cũng sẽ sẵn sàng làm tất cả vì chàng. Chỉ cần chàng hứa chung thủy, thiếp sẽ xin lấy chàng. Của cải không thiếu, riêng số của mụ phù thủy thu gom tại đây, cũng thừa đủ đối với chúng ta.
Công chúa dẫn anh vào trong nhà, hòm, rương đều đầy ắp của. Hai người không lấy vàng, không lấy bạc mà chỉ lấy châu báu. Họ không muốn ở trên núi Thủy tinh lâu nữa. Anh bảo công chúa:
– Nàng hãy ngồi ghé vào bên yên, chúng ta sẽ bay xuống như chim.
Nàng đáp:
– Thiếp không ưa cái yên ngựa cũ kỹ đó, thiếp chỉ cần xoay chiếc nhẫn thần này của thiếp thì đôi ta ở nhà rồi.
Anh chàng đánh trống nói:
– Tốt thôi, thế thì nàng hãy ước cho chúng ta đến trước cổng thành.
Trong nháy mắt, hai người đã ở đó. Anh chàng đánh trống bảo:
– Anh muốn về qua nhà cho cha mẹ biết tin đã. Nàng cứ đợi anh ở cánh đồng này, anh sẽ trở lại ngay.
Công chúa đáp:
– Trời ơi, thiếp xin chàng, chàng hãy lưu ý, về nhà chàng chớ có hôn cha mẹ chàng lên má bên phải; nếu không chàng sẽ quên hết mọi việc còn thiếp sẽ cứ phải bơ vơ chờ mãi ở cánh đồng này.
– Ta quên nàng sao được.
Anh nắm tay nàng hứa sẽ trở lại ngay tức khắc. Lúc anh về tới nhà, không người nào biết anh và anh đã thay đổi quá nhiều. Ba ngày trên núi Thủy tinh dài bằng ba năm. Anh phải tự giới thiệu, khi đó bố mẹ mới sung sướng ôm chầm lấy anh. Quá xúc động anh quên bẵng mất lời người con gái đã dặn, hôn luôn bố mẹ vào cả hai bên má. Sau khi anh hôn lên má bên phải bố
anh và mẹ anh thì anh không còn nhớ gì đến nàng công chúa nữa. Anh dốc túi lấy ra một nắm những hạt ngọc lớn nhất, để lên mặt bàn. Bố mẹ không biết dùng của cải đó vào việc gì. Ông cụ bèn làm một tòa lâu đài thật lộng lẫy; chung quanh nhà nào vườn, nào rừng, nào đồng cỏ, như dinh cơ của một ông hoàng vậy. Lúc đã xây nhà xong, bà cụ bảo:
– Mẹ đã kiếm cho con được một người con gái rồi đấy, ba hôm nữa sẽ làm lễ cưới.
Bố mẹ anh muốn sao, anh cũng bằng lòng hết. Còn nàng công chúa đáng thương kia vẫn đứng đợi ngoài ở ngoài cổng thành. Mãi đến tối, nàng mới tự nhủ: “Chắc là chàng đã hôn lên má bên phải của cha mẹ chàng nên đã quên ta mất rồi”. Trong dạ rất buồn nàng bèn ước được một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh trong rừng, nàng không muốn trở về triều đình vua cha nữa. Chiều
nào, nàng cũng vào thành, đi qua trước cửa nhà chàng. Đôi khi chàng cũng có trông thấy nàng nhưng không nhận ra được là ai. Sau nàng thấy thiên hạ bàn tán: “Mai sẽ làm lễ cưới anh ta đấy”, nàng tự nhủ: “Mình cứ cố xem, biết đâu không chiếm lại được trái tim chàng”.
Đợi tới ngày thứ nhất của lễ cưới, nàng xoay chiếc nhẫn và ước: “Một chiếc áo sáng như mặt trời”. Tức thì cái áo hiện ngay ra trước mặt nàng, rực rỡ lạ thường, như dệt toàn bằng ánh nắng vậy. Khi khách khứa đã đến đông đủ cả, nàng mới bước vào trong phòng. Anh rất ngạc nhiên về tấm áo đẹp, nhất là cô dâu. Xưa nay cô dâu vốn chỉ mê quần áo đẹp, vội tiến lại tiến về phía người khách lạ, hỏi xem khác có muốn bán áo chăng.
Công chúa đáp:
– Tôi không lấy tiền, chỉ cần đêm tân hôn cho phép tôi đứng ngay tại trước phòng chú rể ngủ, tôi sẽ cho không chiếc áo.
Cô dâu thích áo quá đồng ý ngay, nhưng sau đó cô đã tinh khôn trộn ngay ít thuốc ngủ vào cốc rượu của chú rể, làm chú rể ngủ li bì. Đợi lúc đâu đấy yên tĩnh cả, công chúa mới đến ngồi trước cửa phòng ngủ, khẽ mở cánh cửa gọi vọng vào trong:
– Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!
Nhưng nào có ích gì, Anh chàng đánh trống vẫn không tỉnh giấc. Rạng hôm sau, công chúa đành bỏ đi, không được gì cả. Tối thứ hai, nàng công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: “Một chiếc áo bằng bạc như ánh trăng”. Thấy nàng mặc chiếc áo thanh lịch như ánh trăng đi vào đám lễ, cô dâu lại nổi lòng tham và lại đồng ý cho nàng đứng một đêm nữa trước cửa phòng ngủ để đổi lấy chiếc áo. Đợi đến đêm khuya thanh vắng nàng lại gọi:
– Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!
Nhưng nàng không thể đánh thức được chàng đánh trống đã uống thuốc ngủ. Sớm hôm sau, công chúa lại đành trở về ngôi nhà nhỏ trong rừng, lòng buồn vô hạn. Có người ở trong nhà nghe được tiếng than của nàng đêm trước đã kể lại cho chú rể nghe. Họ cũng nói cho chàng rõ là vì chàng đã uống phải thuốc ngủ trong rượu nên không thể nghe thấy được những lời than đó.
Tối ngày thứ ba, công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: “Một chiếc áo lấp lánh như sao”. Thấy nàng mặc chiếc áo đó vào dự lễ, hai chiếc áo trước đã đẹp mà còn thua xa, cô dâu rất tức tối. Cô ta tự nhủ: “Ta phải lấy chiếc áo ấy và nhất định ta sẽ lấy được”.
Cũng như hai lần trước công chúa lại đổi chiếc áo để được phép qua một đêm ở trước cửa phòng chú rể. Nhưng lần này chú rể không uống cốc rượu đưa trước khi đi ngủ anh để rượu ra mé sau giường nằm. Và đến lúc trong nhà đã yên tĩnh đâu đấy cả, anh nghe có tiếng có tiếng người dịu dàng gọi anh:
– Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!
Anh chợt nhớ lại tất cả mọi chuyện. Anh kêu lên:
– Trời! Sao ta lại có thể ăn ở bội bạc như thế nhỉ? Nhưng lỗi chính là ở cái hôn, cái hôn giữa lúc bối rối ta đã đặt lên má bên phải của cha mẹ ta, nó đã làm cho ta u mê đi.
Anh vùng dậy, dắt tay công chúa dẫn đến trước giường nằm của bố mẹ. Anh nói:
– Đây mới là cô dâu thật, nếu như con lấy người kia thì con sẽ có lỗi vô cùng.
Bố mẹ anh nghe rõ đầu đuôi câu chuyện cũng bằng lòng. Tức thì trong phòng lớn đèn nến lại được thắp sáng trưng, tiếng kèn lại vang lên, bè bạn, họ hàng được mời ngay trở lại, đám cưới thật được tổ chức trong bầu không khí vui vẻ, tưng bừng. Cô dâu kia được giữ lại mấy chiếc áo đẹp coi như của bồi thường và cô ta cũng hài lòng.
Theo: truyện cổ thế giới