Bạn Đang xem Trò chơi mầm non Category
Thơ truyện mầm non chủ đề gia đình
Thơ truyện mầm non chủ đề gia đình
thơ truyện mầm non chủ đề gia đình thơ truyện mầm non chủ đề bản thân truyện mầm non chủ đề nghề nghiệp truyện mầm non chủ đề trường mầm non truyện mầm non người bạn tốt truyện mầm non hay truyện mầm non hai anh em truyện mầm non đôi bạn tốt truyện mầm non giấc mơ kỳ lạ
Đồng dao, ca dao, thành ngữ, tục ngữ: thơ truyện dạy trẻ hiểu biết và cách sử dụng năng lượng trong gia đình
Lạy ông nắng lên
Cho trẻ nó chơi
Cho già bắt giận
Cho tôi đi cày
* * *
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy bát cơm đầy
Lấy rơm tôi thổi.
* * *
Trời mưa quả dưa vẹo vọ
Con cua méo mó
Con cò kiếm ăn.
* * *
Mùng chín tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mùng chín tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn.
2.2. Thơ ca:
– Cây dây leo:
Cây dây leo
Bé tí teo
Ở trong nhà
Lại bò ra
Ngoài cửa sổ
Và nghển cổ
Lên trời cao
Hỏi: Vì sao?
Cây trả lời:
Ra ngoài trời
Cho dễ thở
Tắm nắng gió
Gội mưa rào
Cây mới cao
Hoa mới đẹp.
Xuân Tiến.
– Ông mặt trời óng ánh:
Ông mặt trời óng ánh
Tỏa nắng hai mẹ con
Bóng con và bóng mẹ
Dắt nhau đi trên đường
Ông nhíu mắt nhìn em
Em nhíu mắt nhìn ông
Ông ở trên trời nhé
Cháu ở dưới này thôi
Hai ông cháu cùng cười
Mẹ cười đi bên cạnh
Ông mặt trời óng ánh
Ngô Thị Bích Hiền
– Gió:
Tên tôi là gió
Đi khắp mọi nơi
Công việc của tôi
Không bao giờ nghỉ
Tháng ngày chăm chỉ
Tôi dài hơn sông
Suốt đời mênh mông
Rộng hơn biển cả
Tên tôi là gió
Các bạn nhớ không
Tôi không dáng hình
Tên tôi là gió…
Xuân Quỳnh
– Nước:
Nước ơi! Nước ơi
Lại đây với bé
Cho bé rửa mặt
Cho bé rửa tay
Cho bé sạch sẽ
Rồi bé đi chơi
Mắt bé sáng ngời
Miệng cười xinh xắn
Bé cắn rất đau.
Sưu tầm.
– Tiết kiệm nước:
Kìa! Tí tách! Tí tách
Vòi nước bị chảy rồi
Bé chạy lại ngay thôi
Đưa tay khóa vòi lại
Bới vì nước rất quý
Bé ngoan nhớ giữ gìn.
Thu Thủy
– Rửa tay:
Kéo cao tay áo
Sát xà phòng thơm
Bé rửa tay sạch
Rồi mới ăn cơm.
Tâm Giao
– Tắm gội:
Mùa hè nóng nực
Ra lắm mồ hôi
Lúc học lúc chơi
Áo, quần bụi bẩn
Nước này mát lắm
Ta phải bảo nhau
Tắm rửa gội đầu
Cho người sạch sẽ.
Nhược Thủy
– Uống:
Mẹ cho rau uống nước
Bằng cái bình tưới hoa
Trời cho lúa uống nước
Bằng cả trận mưa to.
Phạm Hổ
– Nước:
Mưa mưa mưa
Rơi rơi rơi
Từng hạt một
Bộp bộp bộp
Trên mái nhà
Thành chùm hoa
Dưới hồ nước
Ướt ướt ướt
Trên lá cây
Lay lay lay
Cánh cửa sổ
Sạch đường phố
Mát đôi chân
Trời tạnh dần
Em yêu mưa lắm!
Xuân Tửu
`
2.3. Trò chơi:
– Trò chơi: Phân loại hành vi nên, không nên: Giúp trẻ nhận biết và phân biệt các hành vi nên và không nên về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Trẻ biết được đâu là hành vi nên hay không nên.
+ Cô chuẩn bị sẵn cho mỗi đội những hình ảnh về hành vi tiết kiệm năng lượng như: Đóng cửa khi bật điều hòa, máy sưởi, tắt điện khi ra khỏi phòng… và hình ảnh về hành vi không có ý thức tiết kiệm năng lượng như: để quạt chạy khi không ngồi, để ti vi khi không xem….
+ Cô đặt yêu cầu cho mỗi đội: Đội 1 tìm hình ảnh có hành vi tiết kiệm năng lượng. Đội 2 tìm hình ảnh hành vi không tiết kiệm năng lượng
+ Cô cho 2 đội thi đua tìm ra các hành vi nên làm và không nên làm.
– Trò chơi: Nối nhiên liệu với các đồ dùng điện: Giúp trẻ phân biệt được nhiên liệu của các đồ dùng.
+ Cô chuẩn bị sẵn bài tập có các hình ảnh về đồ dùng điện và các nhiên liệu mà các đồ dùng đó sử dụng.
+ Yêu cầu trẻ nối để tìm ra các nhiên liệu đúng dùng cho các đồ dùng đó.
– Trò chơi: Khoanh tròn các cách tiết kiệm năng lượng: Giúp trẻ phân biệt được cách nào sử dụng năng lượng tiết kiệm.
+ Cô chuẩn bị sẵn bài tập có các hình ảnh về cách sử dụng năng lượng tiết kiệm và không biết tiết kiệm năng lượng.
+ Yêu cầu trẻ khoanh tròn các cách sử dụng năng lượng tiết kiệm.
2.4. Câu chuyện: Tôi đã sáng tác một số câu chuyện để kể cho trẻ, nhằm mục đích giáo dục trẻ sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả
– Chủ đề thực vật :
Truyện: Cây bắp cải thiếu nước
(Tự sáng tác)
Các bạn ạ, tôi là một cây bắp cải. Tôi được trồng ở góc thiên nhiên ở lớp B1. Hàng ngày tôi vươn mình đón ánh nắng mặt trời làm cho màu sắc của tôi càng thêm xanh mát, nhanh lớn và tôi thở ra rất nhiều khí ôxi làm cho không khí trong lành. Tôi rất vui vì hàng ngày có rất nhiều bạn nhỏ lớp B1 chăm sóc, tưới nước bắt sâu. Một hôm có một bạn nhỏ mang tới tặng lớp một cây hoa Dạ Yến Thảo rất nhiều màu sắc rực rõ.Tôi cảm thấy rất buồn vì các bạn nhỏ B1 đã không còn yêu quý, bảo vệ chăm sóc tưới nước như ngày nào nữa. Một thời gian sau tôi rất khát nước làm tôi bị héo, vàng rất nhiều nhìn tôi rất xấu xí. Các bạn ạ tôi rất mong các bạn hãy yêu quý tôi, hãy chăm sóc và bảo vệ, tưới nước cho chúng tôi hàng ngày vì chúng tôi góp phần rất lớn làm cho môi trường của các bạn trong lành đấy không những thế tôi cũng là một loại thực phẩm quan trọng trong những bữa ăn hàng ngày của các bạn.
– Chủ đề động vật:
Truyện: Mèo con quên tắt điện
(Tự sáng tác)
Sáng nay, mẹ đi chợ dặn mèo con ở nhà chơi ngoan. Mèo con đang chơi, bạn thỏ đến rủ mèo con đi chơi, mèo con thích lắm liền ra sân chơi cùng với các bạn mà quên tắt điện. Thấy mẹ đi chợ về mèo con liền chạy lại ôm mẹ và kể với mẹ những trò chơi mà mèo con đã được chơi cùng với các bạn. Mèo con và mẹ vào đến nhà thấy điện trong nhà chưa tắt, mẹ liền hỏi mèo con: Hôm qua cô giáo gà đã dạy mèo con điều gì vậy nhỉ?Mèo con trả lời: Cô giáo gà dạy con tắt điện khi không dùng ạ. Mẹ hỏi: Thế con đã nhớ lời cô giáo dạy chưa?Mèo con trả lời: Con …con xin lỗi mẹ, con biết lỗi rồi ạ. Mẹ xoa đầu mèo con và nói: Con của mẹ rất ngoan đã biết nhận lỗi, mẹ tin rằng mèo con sẽ rút râ được bài học của mình. Còn các con các con đã nhớ những điều cô giáo dạy khi sử dụng điện và nước chưa?
– Chủ đề trường mầm non:
Truyện: Lớp Bin mất điện
( Tự sáng tác)
Hôm nay, Bin dạy từ rất sớm tự giác đánh răng rửa mặt chuẩn bị đi học. Đến lơp Bin chào cô,chào mẹ rồi cất đồ dùng vào lớp. Tới giờ học Bin và cả lớp đang say sưa tô màu thì : Bụp! Một tiếng.Cả lớp tối om, Bin và các bạn nhốn nháo: mất điện rồi, mất điện rồi! Cô giáo mới nhẹ nhàng lên tiếng: Các con thấy mất điện thì lớp mình như thế nào? Bin và các bạn cùng nói: lớp rất tối ạ. Cô giáo: Đúng rồi ! Khi mất điện lớp rất tối các con sẽ không nhìn thấy được nên không học được bài, cũng không xem ti vi và cũng không sử dụng được các thiết bị điện nữa. Chính vì thế các con phải nhớ tiết kiệm điện không được lãng phí vì điện giúp ích các con trong cuộc sống rất nhiều đây. Sau khi nghe cô giáo giảng Bin đã hiểu và có ý thức tiết kiệm điện ở trường và ở nhà.
Xem thêm: truyện cổ tích việt nam
Thơ truyện mầm non Đồng dao ca dao thành ngữ tục ngữ
Thơ truyện mầm non Đồng dao ca dao thành ngữ tục ngữ
Đồng dao, ca dao, thành ngữ, tục ngữ:
thơ truyện mầm non thơ truyện mầm non chủ đề bản thân thơ truyện mầm non chủ đề gia đình bé em mầm non vui học mầm non chuyện mầm non truyện mầm non người bạn tốt truyện mầm non hay truyện mầm non hai anh em
Mồng chín tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn.
* * * * *
Thâm đông, hồng tây, dựng mây
Ai ơi đợi đến ba ngày hãy đi.
* * * * *
Kiến đen tha trứng lên cao
Thế nào cũng có mưa rào rất to.
* * * * *
Mồng bốn cá đi ăn thề
Mồng tám cá về, cá vượt vũ môn.
* * * * *
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
* * * * *
Tháng bảy kiến đàn, đại hàn hồng thủy
Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước.
* * * * *
Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
* * * * *
Nhiều sao thì nắng, vắng ao thì mưa.
* * * * *
Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa.
* * * * *
Cơn đằng đông, vừa trông vừa chạy
Cơn đằng nam, vừa làm vừa chơi.
* * * * *
Gió bắc hiu hiu, sếu kêu trời rét.
* * * * *
Ráng mỡ gà , ai có nhà phải chống.
* * * * *
Sấm động gió tan
Cầu vồng móng cụt, không lụt thì mưa.
* * * * *
Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.
* * * * *
Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa cơn.
* * * * *
Gió heo may, chẳng mưa dầm thì bão giật.
* * * * *
Đêm trời tối, trăng sao không tỏ
Ấy là điềm mưa gió tới nơi
Đêm nào sao sáng xanh trời
Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày
Những ai chăm viêc cấy cày
Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm.
* * * * *
Nhiều chống càng tốt, nhiều cột càng bền.
2.2. Thơ ca: thơ truyện mầm non
– Không vứt rác ra đường:
Cái bánh có lá gói
Quả chuối cỏ rất trơn
Dẫm phải là ngã luôn
Nhớ bỏ vào thùng rác.
Vũ Thị Minh Tâm
– Chổi ngoan:
Sáng ra chổi đã quét nhà
Chiều chiều chổi lại cùng bà quét sân
Ước gì bé lơn thật nhanh
Để bé cùng chổi quét sân đỡ bà.
Vũ Thị Minh Tâm
– Hoa kết trái:
Hoa cà tim tím Hoa mận trắng tinh
Hoa mướp vàng vàng Rung rinh trước gió
Hoa lựu chói trang Này các bạn nhỏ
Đỏ như đốm lửa Đừng hái hoa tươi
Hoa vừng nho nhỏ Hoa yêu mọi người
Hoa đỗ xinh xinh Nên hoa kết trái.
Thu Hà.
– Bé quét rác:
Keng! Keng! Keng
Tiếng kẻng rất quen
Của bác quét rác
Đó là bác nhắc
Tất cả mọi nhà
Mang hết rác ra
Cho bác đi đổ
Tối nào cũng nhớ
Hễ nghe tiếng kẻng
Vội cùng mẹ em
Đến bên xe rác
Mẹ cùng với bác
Chất rác lên xe
Xe rác đầy ghê
Bác còng lưng đẩy
Và em nhìn thấy
Bác đẫm mồ hôi
Nhưng bác vẫn cười
Vì đường phố sạch.
Hoàng Thị Dân.
– Cây dây leo:
Cây dây leo
Bé tí teo
Ở trong nhà
Lại bò ra
Ngoài cửa sổ
Và nghển cổ
Lên trời cao
Hỏi: Vì sao?
Cây trả lời:
Ra ngoài trời
Cho dễ thở
Tắm nắng gió
Gội mưa rào
Cây mới cao
Hoa mới đẹp.
Xuân Tiến.
– Ghi nhớ:
Sáng nay chủ nhật
Bé không đến trường
Mẹ cha yêu thương
Cho đi dạo phố
Bé vào bách thú
Thấy chú khỉ ngồi
Vẻ mắt không vui
Hai tay bưng trán
Bé liền chạy đến
Gọi: Chú khỉ ơi?
Hôm nay đệp trời
Sao không chạy nhảy?
Khỉ liền vẫy vẫy
Chỉ bé đằng kia
Vứt chuối, vứt nho
Khắp vườn bừa bãi
Lại còn lấy gậy
Chọc cả vào người
Chắc bé quen rồi
Lời cô nhắc nhở
Bạn ơi ghi nhớ
Làm sạch môi trường
Việc làm thường xuyên
Hàng ngày của bé.
Hoàng Thị Dân.
– Chuyện bé Bin:
Bin có một cái rác
Không biết vứt vào đâu
Chỉ cho Bin thùng rác
Để Bin vứt vào thùng
Không vứt rác lung tung
Thi đua làm việc tốt
Để giữ sạch môi trường.
Trần Bích Hà.
– Thỏ bông bị ốm:
Thỏ bông bị ốm
Chốc chốc kêu la
Miệng cứ xuýt xoa:
Mẹ ơi đau quá !
Thỏ mẹ vội vã
Bé Bông trên tay
Đến bệnh viện ngay
Nhờ bác sĩ khám
Bác sĩ sờ nắn
Hỏi: Đau chỗ nào?
Thỏ Bông thều thào
Đau quanh chỗ rốn
Bác sĩ liền hỏi
Ăn uống gì nào?
Thỏ Bông thều thào:
Ăn me với sấu
Uống nước chưa nấu
Múc ở ngoài ao
Bụng sôi ào ào
Ruột đau như cắt
Bác sĩ gật gật
Đặt chiếc ống nghe
Nghe song liền ghi:
Đau vì ăn bậy.
Sưu tầm.
– Tâm sự của bức tường:
Muốn nói với bé
Đôi lời tâm sự:
Bé ơi nhớ nhé
Đừng làm xấu tôi
Tôi muốn sạch sẽ
Như khuôn mặt bạn
Xin đừng bôi bẩn
Sẽ làm xấu tôi.
Sưu tầm.
– Sân trường em:
Sân trường mát sạch
Nhờ bác lao công
Ngày ngày quét dọn
Em cũng góp phần
Giữ sân trường sạch
Này các bạn ơi
Cùng ra sân chơi
Ta cùng lượm lá.
Sưu tầm.
– Vệ sinh môi trường:
Chơi ở sân trường
Thấy lá vàng rơi
Vung vãi khắp nơi
Cùng đi nhặt lá
Bỏ vào trong giỏ
Sạch sẽ sân trường
Trong sạch môi trường
Em luôn hít thở
Cơ thể khỏe mạnh
Học giỏi, chăm ngoan.
Minh Châu.
– Thỏ nâu và thỏ trắng:
Thỏ Nâu ăn kẹo
Vứt giấy khắp nơi
Thỏ Trắng nhẹ nhàng
Nhặt từng chiếc giấy
Thấy mình có lỗi
Thỏ Nâu dọn ngay
Này các bạn thỏ
Đừng như thỏ Nâu
Hãy như thỏ Trắng
Giữ vệ sinh chung
Sưu tầm.
– Bé tự bảo vệ sức khỏe:
Mùa hè nóng bức
Ra đường bé đội
Chiếc nón nhỏ vào
Gặp cơn mưa rào
Bé dùng ô nhỏ
Khi trời trở gió
Tiết trời lạnh lên
Bé luôn giữ ấm
Cho thân thể khỏe.
Sưu tầm.
– Bé ngoan:
Bé biết giữ vệ sinh
Áo quần luôn gọn sạch
Tay chân không dơ bẩn
Có rác bỏ vào thùng
Không xả rác lung tung
Và khi đi tiểu tiện
Vào đúng nhà vệ sinh
Không ăn uống linh tinh
Như quả xanh nước lã
Chỉ ăn khi quả chín
Uống nước đã đun sôi
Bánh kẹo ăn ít thôi
Cho hàm răng xinh đẹp.
Quang Thị San.
– Thư của bé:
Hôm nay đi học sớm
Bé vẽ quả địa cầu
Và hai chú chim sâu
Miệng ngậm lá thư nhỏ
Chim thì tô màu trắng
Còn trái đất màu xanh
Đầu đội nón hòa bình
Miệng tươi cười hiền hậu
À, còn thư của bé
Gửi các bạn năm châu
Chúng mình hãy cùng nhau
Giữ môi trường trong sạch
Phố phường không vứt rác
Không bẻ lá, ngắt cành
Giúp ba, me, chị, anh
Trồng thêm cây mát ngõ
Bé tuổi này háy còn nhỏ
Nhưng cố sức hết mình
Cho trái đất mãi xanh
Tràn đầy niềm hi vọng.
Hoàng Thị Dân.
– Bé ngoan:
Trung thu sáng quá bạn ơi
Chị Hằng, chú Cuội cùng ngồi gốc đa
Hai người vui vẻ chia quà
Tặng bầy sao nhỏ cả nhà vui chung.
Hà Nội bé cũng ngắm trăng
Bên hồ Hoàn Kiếm chị Hằng thấy không?
Rước đền, phá cỗ múa lân
Vỉa hè, sân bãi tung tăng nô đùa
Không vứt lá, không bày bừa
Bánh kẹo, hoa quả xuống hồ, bồn hoa
Môi trường trong sạch của ta
Bé cũng phải giữ mới là bé ngoan.
Sưu tầm.
– Chuyện của bạn Bi:
Đông về gió rét căm căm
Bi đi học muộn quên khăn mất rồi
Vậy mà Bi vẫn mải chơi
Nhảy dây, đánh đáo mặc trời gió đông
Sau giờ học, chơi nhông nhông
Kéo co, bịt mắt mãi không về nhà
Chẳng nghe lời dặn mẹ cha
Tối về Bí sốt, họng đà xưng to
Hôm sau Bi vẫn nằm co
Đã phải nghỉ học còn ho suốt ngày
Cô dặn bé nhớ làm ngay:
Chớ theo bạn ấy có ngày ốm to.
2.3. Trò chơi: Dựa vào nhịp điệu bài đồng dao trong trò chơi dân gian tôi đã đặt lời mới một số trò chơi dân gian.
– Lộn cầu vồng: Lời tự biên
Lộn cầu vồng
Cây cam, cây quýt
Cây mít, cây dừa
Cây táo, cây dưa
Cây lê, cây ổi
Là cây ăn quả
Cho nhiều quả thơm
Cho bé bóng dâm
Làm sạch không khí
Các bạn nhỏ ơi
Trồng nhiều cây xanh
Chăm sóc, bảo vệ
Cho cây lớn nhé!!!
– Dung dăng dung dẻ: Lời tự biên.
Dung dăng dung dẻ
Vui vẻ cùng chơi
Giờ chơi đến rồi
Xếp nhà, xếp cửa
Trồng cây, bán quả
Dỗ bé chăm ngoan
Khi hết giờ chơi
Nhanh tay cất dọn
Đồ chơi xếp gọn
Cất thật nhẹ nhàng
Mới là bé ngoan
Xì xà xì xụp.
– Trò chơi về thời tiết và khí hậu: Giúp trẻ nhận biết đặc điểm của một số hiện tượng thời tiết.
+ Khi cô hô: Mưa nhỏ => Trẻ làm động tác gõ hai ngón tay trỏ vào nhau rồi nói to: Tí tách, tí tách.
+ Khi cô hô: Gió to => Trẻ làm động tác giơ tay lên cao, vẫy qua trái, qua phải rồi nói to: Ào ào, ào ào
+ Khi cô hô: Mưa lớn => Trẻ làm động tác dậm chân tại chỗ và nói to: Lộp bộp, lộp bộp.
+ Khi cô hô: Sấm => Trẻ làm động tác nắm tay, gõ gõ xuống bàn và nói: Ùng ùng, ùng ùng.
+ Khi cô hô: Sét => Trẻ làm động tác xòe lòng bàn tay giơ ra phía trước và nói to: Đoàng đoàng
+ Giáo viên hoán đổi thứ tự các câu hô, cho trẻ phản ứng theo hiệu lệnh.
– Trò chơi Nước biển dâng: Cung cấp cho trẻ biết biến đổi khí hậu làm băng tan, nước biển dâng lên làm ngập, mất nơi sinh sống của con người và các loài vật.
+ Chia trẻ thành các nhóm từ 5-8 trẻ. Cô phát cho mỗi nhóm một tờ báo.
+ Luật chơi: Tất cả trẻ của mỗi nhóm phải đứng dẫm chân đủ trên tờ báo
được thò chân ra ngoài vì xung quanh là biển, nếu thò chân ra sẽ bị ngã xuống biển.
+ Cô mời một số trẻ làm trọng tài, xem đội nào sống an toàn khi đất liền bị thu hẹp do nước biển dâng lên.
+ Cô lần lượt hô: Băng đang tan, nước biển dâng len và làm ngập 1/4 đất
liền.
+ Cho trẻ trọng tài gấp 1/4 tờ báo lại và quan sát xem trẻ của nhóm đó đứng an toàn trên khu đất còn lại
+ Cô tiếp tục hô như trên và cho trẻ trọng tài gấp báo lại và quan sát trẻ của các nhóm đứng an toàn trên khu đất liền còn lại, đội nào có bạn thò chân ra ngoài trước sẽ bị thua cuộc.
– Trò chơi: Phân loại: Giúp trẻ nhận biết và phân biệt các hành động góp phần gây ra biến đổi khí hậu và các hành động có tác dụng ứng phó với biến đổi khí hậu. Trẻ biết được đâu là hành động nên hay không nên.
+ Cô chuẩn bị sẵn cho mỗi đội những hình ảnh về hành động góp phần gây ra biến đổi khí hậu như: đốt rừng, chặt phá rừng, đi ô tô, đi xe máy, đốt rác đốt than, xả khí thải, chặt phá rừng… và hình ảnh về hành động có tác dụng ứng phó với biến đổi khí hậu như: phân loại rác, tái chế rác, tiết kiệm điện, đi xe đạp, sử dụng các phương tiện công cộng, dùng bóng đèn compac….
+ Cô đặt yêu cầu cho mỗi đội: Đội 1 tìm hành động có tác dụng ứng phó với biến đổi khí hậu. Đội 2 tìm hành động gây ra biến đổi khí hậu.
+ Cô cho 2 đội thi đua tìm ra các hành động nên làm và không nên làm.
– Trò chơi: Trời mưa
+ Mục đích: Luyện phản xạ nhanh cho trẻ.
+ Chuẩn bị: Một cái xắc xô, một số ghế xếp hình vòng cung, cái nọ cách cái kia 30- 40 cm, mỗi trẻ phải trốn vào một gốc cây. Ai không tìm được gốc cây phải ra ngoài một lần chơi.
+ Cách chơi: Mỗi cái ghế là 1 gốc cây. Trẻ chơi tự do hoặc vừa đi vừa hát: Trời nắng, trời nắng thỏ đi tắm nắng…Khi cô ra lệnh: Trời mưa và gõ trống dồn dập thì trẻ phải chạy nhanh để tìm cho mình một gốc cây trú mưa (ngồi vào ghế). Ai chạy chậm không có gốc cây phải ra ngoài một lần chơi.
– Trò chơi: Mưa to, mưa nhỏ:
+ Mục đích: Luyện phản xạ nhanh cho trẻ.
+ Chuẩn bị: 1 cái xắc xô
+ Cách chơi: Trẻ đứng trong phòng. Khi nghe thấy cô gõ xắc xô to, dồn, dập, kèm theo lời nói: Mưa to. Trẻ phải chạy nhanh lấy tay che đầu. Khi cô gõ xắc xô nhỏ, thong thả và nói: Mưa tạnh. Trẻ chạy chậm, bỏ tay xuống. Khi cô dừng tiếng gõ thì tất cả đúng im tại chỗ.(cô gõ lúc nhanh, lúc chậm để trẻ phản ứng nhanh theo nhịp)
– Trò chơi: Nhảy qua con suối:
+ Mục đích: Rèn luyện sự khéo léo, tự tin, phản xạ nhanh của trẻ.
+ Chuẩn bị: Vẽ một con suối nhỏ, có chiều rộng 35 – 40 cm. Một số bông hoa bằng nhựa
+ Cách chơi: Một bên suối để các bông hoa rải rác. Cho trẻ đi lại nhẹ nhàng trong nhóm, nhảy qua suối hái hao trong rừng. Khi nghe hiệu lệnh: nước lũ tràn về . Trẻ phải nhanh chóng nhảy qua con suối chạy về nhà. Ai hái được nhiều hoa là người thắng cuộc, ai thua sẽ phải hát hoặc đọc thơ theo yêu cầu.
2.4. Câu chuyện: Tôi đã sáng tác một số câu chuyện để kể cho trẻ, nhằm mục đích giáo dục trẻ bảo vệ môi trường góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu.
– Chủ đề thực vật :
Truyện: Nỗi đau của lá
( Tự sáng tác)
Các bạn ạ, tôi là một chiếc lá. Tôi mọc ra từ cành của một cây rất to lớn. Hàng ngày tôi vươn mình đón ánh nắng mặt trời làm cho màu sắc của tôi càng thêm xanh mát và tôi thở ra rất nhiều khí ôxi làm cho không khí trong lành. Tôi rất vui vì hàng ngày có rất nhiều bạn nhỏ vui đùa dưới bóng mát của chúng tôi. Vậy mà một hôm có một bạn nhỏ đã dùng một chiếc gậy rất dài đập vào tôi và các bạn của tôi, làm cho chúng tôi bị rách hết cả. Tôi không còn là một chiếc lá xinh đẹp như ngày nào nữa. Tôi cảm thấy rất buồn vì có một số bạn nhỏ đã không biết yêu quý, bảo vệ chúng tôi. Một thời gian sau tôi và các bạn của tôi đã bị héo hết và rụng xuống. Thế là các bạn nhỏ không còn bóng mát để vui chơi nữa. Các bạn ạ tôi rất mong các bạn hãy yêu quý chúng tôi, hãy chăm sóc và bảo vệ chúng tôi vì chúng tôi góp phần rất lớn làm cho môi trường của các bạn trong lành đấy.
– Chủ đề động vật:
Truyện: Bạn cá vàng đáng thương
(Tự sáng tác)
Chú cá vàng xinh xắn sống trong một hồ nước rất trong xanh của công viên giữa thành phố. Hàng ngày cá vàng tung tăng bơi lội khắp hồ ngắm nhìn các bạn nhỏ vui chơi trong công viên. Thỉnh thoảng vui quá cá vàng lại quăng mình lên khỏi mặt nước khiến các bạn nhỏ chơi quanh hồ nhìn thấy rất thích thú. Nhưng thời gian gần đây không ai còn nhìn thấy cá vàng nữa. Suốt ngày cá vàng chỉ quanh quẩn ở một góc hồ, nó không còn bơi lội thoả thích như trước nữa. Vì trong hồ có rất nhiều rác thải nhất là vỏ bánh kẹo, túi ni lông, rác thải do những người đi chơi công viên ném xuống hồ. Một ngày cá vàng cảm thấy trong mình không được khoẻ, nó cảm thấy khó thở quá. Nó biết chắc mình không còn sống được bao lâu nữa vì nước trong hồ đã bị ô nhiễm quá nặng. Thế rồi một ngày kia cá vàng cảm thấy mình nhẹ bẫng, người nó dần dần nổi lên mặt nước, nhưng nó không bơi được nữa mà đã vĩnh viễn lìa xa cuộc đời.
– Chủ đề trường mầm non:
Truyện: Đồ chơi của ai
( Tự sáng tác)
Vào buổi sáng ngày thứ 2 đầu tuần cô giáo Hươu Sao nói với các bạn nhỏ lớp mẫu giáo nhỡ B1: Hôm nay là ngày thứ hai là ngày đầu tiên của một tuần mới, các con hãy cùng nhau thi đua phấn đấu chăm ngoan học giỏi để cuối tuần được nhận phiếu bé ngoan nhé. Các bạn nhỏ ai cũng phấn khởi vâng lời cô giáo. Giờ hoạt động góc hôm ấy cô giáo Hươu Sao tổ chức cho các bạn nhỏ lớp B1 chơi rất nhiều góc chơi. Nào là góc xây dựng, góc nội trợ, góc gia đình, góc bán hàng… Sau khi nghe cô Hươu Sao giới thiệu các góc chơi và dặn dò một số điều về quy định và các nội quy sau khi chơi, các bạn nhỏ đã cùng nhau thoả thuận và tự chọn góc chơi cho mình. Giờ chơi hôm ấy các bạn chơi rất vui vẻ, đoàn kết. Khi sắp kết thúc giờ chơi cô giáo Hươu Sao đã đến từng nhóm chơi của các bạn nhận xét và nhắc nhở các bạn nhỏ cất dọn đồ chơi mầm non gọn gàng. Nhưng khi các bạn nhỏ trong các nhóm chơi khác đang cất dọn đồ chơi của nhóm mình thì ở góc xây dựng bạn Cún Bông đã không cùng các bạn cất dọn đồ chơi mà dùng chân đá vào đồ chơi, làm đồ chơi bắn tung khắp lớp. Mèo Vàng thấy vậy liền nhắc nhở Cún Bông nhưng Cún Bông đã không nghe bạn mà còn nói lại rằng: Không phải đồ chơi của tớ thì tớ không cất. Cô Hươu Sao thấy vậy liền đến bên các bạn và nhắc nhở: Các con ạ! Đồ chơi ở lớp là dành cho tất cả các bạn nhỏ trong lớp chúng ta. Nếu các con biết giữ gìn đồ chơi thì chúng ta sẽ có nhiều đồ chơi để cùng chơi với nhau, còn nếu không biết giữ gìn thì đồ chơi sẽ nhanh hỏng và các con sẽ không còn đồ chơi để chơi khi đến lớp nữa. Các con thấy có đúng không nào?. Tất cả các bạn nhỏ đều vâng dạ đồng ý, nhưng chỉ có bạn Cún Bông là không nói gì mà chỉ cúi mặt xuống. Cô giáo Hươu Sao nhẹ nhàng cầm tay Cún Bông lên và nói: Cún Bông thấy cô nói có đúng không?. Bạn Cún Bông ngượng ngùng khoanh tay trước ngực, ngẩng mặt lên và nói: Thưa cô con biết lỗi rồi ạ, từ lần sau con sẽ không làm như thế nữa ạ! Cô Hươu Sao xoa đầu Cún Bông và bảo: Bạn Cún Bông đã biết nhận lỗi thế là tốt, các con hãy cùng vỗ tay động viên bạn nào. Tất cả các bạn nhỏ cùng vỗ tay và hô to: Đồ chơi là của tất cả chúng mình.
truyện thơ mầm non thơ truyện mầm non chủ đề bản thân thơ truyện mầm non chủ đề gia đình truyện mầm non người bạn tốt truyện mầm non hay truyện mầm non hai anh em truyện mầm non đôi bạn tốt truyện mầm non giấc mơ kỳ lạ truyện mầm non chủ đề nghề nghiệp
Các trò chơi của trẻ mẫu giáo
các trò chơi của trẻ mẫu giáo, đồng dao và trò chơi trẻ em, các trò chơi trẻ em, trò chơi trẻ em tập thể, tổ chức trò chơi trẻ em, thơ trẻ mẫu giáo, trò chơi… trò chơi cho trẻ mẫu giáo lớn
Các trò chơi của trẻ mẫu giáo
Trò chơi: Tay trái, tay phải của bé
Mục đích
Trẻ nhận biết được tay phải, tay trái.
Chuẩn bị
– Những đồ dùng đồ chơi mà khi sử dụng trẻ phải dùng bằng tay phải hoặc tay trái như: bàn chải đánh răng, lược chải đầu, bút vẽ, thìa xúc cơm, bát… hoặc những đồ vật khi sử dụng trẻ phải dùng cả hai tay như: dây nhảy dây, giày có dây buộc…
– Số đồ dùng, đồ chơi bằng với số trẻ ở mỗi nhóm chơi. Đồ chơi để cách vạch xuất phát khoảng 3 – 4 m.
– Vẽ một vòng tròn quy định nơi để đồ dùng của mỗi nhóm lấy được.
Cách chơi
Cô chia trẻ thành 2 nhóm. Khi có hiệu lệnh, hai trẻ đứng đầu hai nhóm cùng xuất phát. Trẻ phải sử dụng tay phải (hoặc tay trái) để lựa chọn đồ dùng, đồ chơi, sau đó đặt đồ chơi vào vòng tròn quy định của nhóm, rồi chạy về nhóm của mình. Về đến nơi, trẻ phải chạm vào tay phải của bạn tiếp theo để bạn đó được xuất phát rồi chạy xuống cuối hàng. Nhóm nào thực hiện nhanh, đúng luật chơi và về đích trước là thắng cuộc. Nhóm nào về đích chậm hơn hoặc chơi sai là thua cuộc. Nhóm thua cuộc phải giơ tay phải (hoặc tay trái) lên và nhảy lò cò 1 vòng vừa nhảy vừa nói: “Đây là tay phải (hoặc tay trái)”.
Trò chơi: Xếp hình
Mục đích
Rèn luyện sự khéo léo và khả năng sáng tạo.
Chuẩn bị
Bộ xếp hình theo mục đích của trò chơi (hột, hạt, que, hình vuông, hình tròn, hình tam giác) và hình mẫu.
Cách chơi
Cô cho trẻ xem hình mẫu đã xếp sẵn. Sau đó, trẻ tự xếp hình theo mẫu hoặc theo gợi ý của cô giáo. Khi trẻ xếp xong, cô hỏi trẻ: Cháu vừa xếp hình gì ?” và phát triển nội dung cuộc đàm thoại bằng các câu hỏi mở
Trò chơi: Vì sao bé buồn?
Mục đích
Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, khả năng nhận biết và biểu lộ cảm xúc.
Chuẩn bị
Bức tranh vẽ em bé có khuôn mặt buồn.
Cách chơi
Cô giáo đưa ra bức tranh vẽ em bé có khuôn mặt buồn và hỏi trẻ lí do vì sao em bé lại buồn. Cô giáo gợi ý để trẻ đưa ra lời giải thích (bé không có ai chơi cùng; bé không có đồ chơi; mẹ bé đi vắng…).
Tùy theo khả năng của trẻ trong lớp, cô khuyến khích trẻ đưa ra những ý tưởng và lời giải thích phù hợp. Ví dụ: “Em bé buồn vì không có đồ chơi”. Cô giáo gợi ý: “Vậy lớp mình phải làm gì để em bé khỏi buồn?” : tặng đồ chơi, chơi cùng em bé…
Sau đó, cô cho cả lớp làm đồ chơi để tặng bé.
Trò chơi: Bé mặc quần áo
Mục đích
Củng cố cho trẻ những hiểu biết về việc mặc quần áo phù hợp với thời tiết.
Chuẩn bị
– Một số tranh, lô tô về quần áo, đố dùng cho các thời tiết khác nhau (trời nóng, trời lạnh, trời mưa).
– 3 tranh vẽ về hình ảnh trong các thời tiết nóng, lạnh, trời mưa, mỗi biểu tượng có thể kèm theo một hình ảnh về cách ăn mặc phù hợp với thời tiết.
– Vẽ 3 vòng tròn hoặc 3 hàng. Mỗi vòng tròn ( hoặc mỗi hàng) tương ứng với một biểu tượng thời tiết. Mỗi hàng hoặc vòng tròn đó lại được chia thành 3 – 4 ô nhỏ hơn.
– Số trẻ chơi nhiều hơn tổng số các ô ở cả 3 vòng tròn từ 2 – 3 cháu.
Cách chơi
Cô gõ xắc xô hoặc ra hiệu lệnh: Tất cả trẻ “đi cửa hàng mua sắm quần áo, đồ dùng”. Cô yêu cầu trẻ chọn quần áo theo ý thích. Sau đó, cô nói ; “Dùng cho khi nào?”, trẻ phải nhanh chóng về đúng hàng có biểu tượng thời tiết tương ứng với quần áo, đồ dùng cho mình đã chọn (mỗi trẻ về một ô). Trẻ nào chạy chậm, không còn chổ đứng sẽ phải đứng trước lớp giới thiệu loại quần áo (đồ dùng) mà mình đã chọn sử dụng vào thời tiết nào.
Trò chơi: Tổ chức sinh nhật
Mục đích
Luyện cho trẻ các hành vi giao tiếp, ứng xử lịch thiệp.
Chuẩn bị
– Các đồ vật, đồ chơi để làm quà.
– Một số tiết mục văn nghệ: đọc thơ, kể chuyện.
– Bánh kẹo, hoa quả (do phụ huynh mang đến để tổ chức sinh nhật tại lớp).
– Trẻ cùng nhau trang trí lớp.
– Cô thông báo cho cả lớp biết những ngày sinh nhật của trẻ trong tuần (tháng) và cùng với trẻ bàn kế hoạch tổ chức sinh nhật cho bạn. Trẻ có thể tự làm những món quà (đồ chơi, vẽ tranh, nặn quả) để tặng bạn.
Cách chơi
– Tổ chức sinh nhật: Có thể tổ chức riêng cho từng trẻ vào đúng ngày sinh nhật của trẻ đó hoặc tổ chức chung cho tất cả trẻ có ngày sinh nhật trong cùng tuần hay tháng đó.
– Trong bữa tiệc sinh nhật của mình, trẻ phải tự giới thiệu và nó cảm xúc của mình về ngày sinh nhật trước cả lớp.
– Cả lớp tặng quà sinh nhật cho bạn và chúc những điều tốt đẹp.
– Biểu diễn văn nghệ và ăn bánh kẹo, trái cây.
– Kết thúc buổi sinh nhật: Trẻ được tổ chức sinh nhật , nói lời cảm ơn với các bạn đến dự rồi chia tay và chào tạm biệt khi các bạn ra về.
Trò chơi: Cửa hàng thực phẩm
Mục đích
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Chuẩn bị
Một số đồ chơi mô phỏng bánh, kẹo, rau, củ, quả, tôm, cá…(nếu có điều kiện cô có thẻ chuẩn bị rau, quả thật như: rau ngót, rau muống, củ cải, quả mận, quả quýt…).
Cách chơi
– Yêu cầu nhóm trẻ đóng vai người bán hàng sắp xếp thực phẩm theo từng loại.
– Các nhóm trẻ đóng vai người mua thực phẩm phải đưa ra yêu cầu. Ví dụ: “Bác ơi bán cho tôi mớ rau ngót; Bác bán cho tôi quả mận…”. “Người mua” trả tiền và nói cảm ơn. “Người mua” và “người bán” chào tạm biệt nhau.
Trò chơi: Tìm người nhà
Mục đích
Phát triển các giác quan và khả năng định hướng trong không gian trẻ.
Chuẩn bị
Mỗi trẻ một hình tròn hoặc tam giác.
Cách chơi
– Cô phát cho mỗi trẻ một hình
– Cô chia trẻ thành 2 nhóm theo dấu hiệu: hình tròn, tam giác.
– Cô gọi một trẻ lên, hỏi xem trẻ có hình gì và quan sát xem mình phải tìm đến nhóm nào là “người nhà” của mình. Sau đó, cô bịt mắt trẻ lại rồi cho trẻ đi tìm đúng hình cùng loại với hình của mình. Cô yêu cầu trẻ ở nhóm “người nhà” vỗ tay hoặc nói: “Chúng tôi đây” để trẻ bị bịt mắt định hướng được. Khi đến nơi, trẻ bị bịt mắt phải sờ tay vào các hình mà một trẻ đã cho để xem có đúng là “người nhà” của mình không. Khi nào nói đúng thì trẻ mới được bỏ khăn bịt mắt ra. Trò chơi tiếp tục tương tự với các nhóm khác, chỉ cần đổi vị trí đứng và đổi các hình cho nhau.
Trò chơi: Ngửi hoa
Mục đích
Trẻ biết được tác dụng của thính giác.
Cách chơi
– Cho trẻ đứng thành vòng tròn.
– Cô nói: “ Chúng ta hãy cùng làm động tác ngửi hoa nhé! Các cháu hãy hít thật dài, sau đó thở ra. Khi thở ra chúng ta nói khẽ: “Thơm quá!”. Cô làm mẫu cách hít sâu như đang ngửi hoa, cách thở ra và nói: “Thơm quá!”. Cô có thể cho trẻ chơi 5 – 6 lần.
– Trò chơi này có thể chơi sau các trò chơi, các hoạt động (vận động nhanh) hoặc để hít thở không khí trong lành vào buổi sáng sớm.
Trò chơi: Nhớ tên
Mục đích
Phát triển ngôn ngữ và khả năng ghi nhớ có chủ định cho trẻ.
Cách chơi
Trẻ ngồi thành vòng tròn theo từng nhóm ( khoảng 3 -5 trẻ). Cô giáo (hoặc trẻ trong nhóm) vỗ nhẹ vào trẻ ngồi bên cạnh và nói tên 1 trẻ nào đó trong lớp. Trẻ phải nhắc lại tên đó rồi lại vỗ nhẹ vào bạn bên cạnh và nói một tên khác (không được trùng với tên mà trẻ trước đã nói). Trẻ nào nói được nhiều tên các bạn trong lớp sẽ là người thắng cuộc.
Trò chơi: nhận biết một và nhiều
Mục đích
Nhận biết 1 và nhiều, kích thước to và nhỏ.
Chuẩn bị
2 hình tròn, 2 hình tam giác làm nhà, hình nhỏ chỉ đủ 1 người đúng vào chỗ và 1 hình to có thể đứng nhiều người.
Cách chơi
Nhà có hình tam giác có khuôn mặt hiển thị bé trai.
Nhà có hình tròn hiển thị khuôn mặt bé gái.
Cô cùng trẻ quan sát các nhà và cùng đưa ra nhận xét các nhà có hình giống hình ( hình tròn, hình tam giác) và hình nào to, hình nào nhỏ (hình tam giác to – nhà nhỏ).
Cô cho trẻ chạy xung quanh các nhà theo tiếng lắc của xúc xắc, đặt hiệu lệnh trẻ phải tìm về nhà. Bạn nào chậm chân không về được nhà, phải quan sát nhà nhỏ có bao nhiêu người (1 người) và nhà lớn có bao nhiêu người (nhiều người).
Trò chơi: Tên tôi là gì (thẻ tên của tôi)
Mục đích
Về đúng nhà theo giới tính; nhận biết thẻ tên và cả trẻ trong lớp.
Chuẩn bị
– Thẻ tên của trẻ và lô tô đồ vật, con vật tương ứng với kí hiệu trong thẻ tên của trẻ.
– Giáo viên vẽ 2 đường vòng tròn làm nhà, mỗi vòng tròn có hiển thị hình ảnh bé trai – bé gái. 1 vòng tròn ở giữa lớp đủ rộng để các thẻ tên.
–
Cách chơi
Cô phát mỗi trẻ 1 thẻ tên và một lô tô có hình ảnh là con vật hay đồ vật tương ứng với kí hiệu thẻ tên của trẻ. Cho trẻ quan sát kĩ thẻ tên của mình và kí hiệu của thẻ tên. Cô hỏi tên của một trẻ trong lớp và cho trẻ nhắc lại tên của mình, sau đó cho trẻ đặt lại tất cả thẻ tên vào vị trí náo đó của lớp học ở hình tròn giữa lớp. Mỗi trẻ cầm lô tô tương ứng với kí hiệu của thẻ tên.
Cô và trẻ vừa đi vừa hát theo bài hát “trời nắng, trời mưa”, kết thúc bài hát mỗi trẻ so kí hiệu lô tô tương ứng với kí hiệu thẻ tên của mình, chọn đúng thẻ tên và về đúng nhà theo giới tính. Trẻ nào về chậm, không còn “nhà” để về phải tự giới thiệu thẻ tên và tên của mình với các bạn trong lớp.
Trò chơi: Nghe và đoán
Mục đích
Phát triển thính giác và ngôn ngữ của trẻ qua việc nghe và lặp lại tiếng động (tiếng kêu).
Chuẩn bị
Băng ghi âm tiếng kêu của các con vật và các tiếng động khác.
Cách chơi
Trẻ nghe tiếng động hoặc tiếng kêu của các con vật qua băng ghi âm ( hoặc do giáo viên tự tạo ra) và nói xem đó là tiếng động gì; tiếng kêu của con gì. Sau đó, cô yêu cầu trẻ lặp lại tiếng động hoặc tiếng kêu đó. Trẻ nào nhận biết đúng và thể hiện giống nhất sẽ là người thắng cuộc.
Trò chơi: Chó sói xấu tính
Mục đích
Rèn phản xạ nhanh, phát triển cơ chân cho trẻ.
Luật chơi
– 1 mũ hình đầu chó sói
– Vẽ một vạch chuẩn ở giữa lớp học để quy định ranh giới giữa “nhà” của “thỏ” và “sói”.
–
Cách chơi
Lúc đầu, cô đóng vai “chó sói”, các trẻ làm “thỏ”. “Chó sói” ngồi “ngủ” ở một góc lớp, “thỏ” ngồi ở ghế hoặc đứng ở một góc lớp cách “ chó sói” khoảng 5 m. Các “chú thỏ” nhảy đi chơi (chụm hai chân, hai tay giơ lên đầu vẫy vẫy), tiến về phía “ chó sói” nhưng không được chạm vào “chó sói” và nói: “Này chó sói xấu tính, hãy mở mắt ra mà xem chúng tôi đi chơi này! Dậy đi thôi!”. “Sói” mở mắt và kêu: “Hừm” rồi đứng lên, chạy đuổi theo các “chú thỏ”. “Thỏ” chạy nhanh về “nhà” của mình. “Chú thỏ” nào chạy chậm sẽ bị “sói” bắt và đổi vai làm “sói”. Nếu không bắt được “thỏ” thì “sói” lại nhắm mắt “ngủ” tiếp. Sau khi trẻ đã biết chơi, cô giáo có thể chọn một cháu nhanh nhẹn làm “sói” và cho trẻ chơi tiếp 3 – 4 lần.
Trò chơi: Đuổi bóng
Mục đích
Giúp trẻ rèn luyện và phát triển vận động nhanh, khéo.
Chuẩn bị
5 quả bóng.
Cách chơi
Cô cho trẻ đứng về một phía, cô tung cho bóng lăn phía trước mặt trẻ và trẻ phải đuổi theo bóng. Khi nào bóng dừng lại thì trẻ mới được dừng lại để bắt bóng, sau đó lại tiếp tục chơi.
Trò chơi: Trời mưa
Mục đích
Giúp trẻ rèn luyện phản xạ nhanh.
Chuẩn bị
– 1 cái trống lắc
– Xếp ghế thành hình vòng cung, mỗi ghế cách nhau khoảng 30 – 40 cm. Số ghế ít hơn số trẻ từ 3-4 cái.
Cách chơi
Cô quy định mỗi cái ghế là một “ngôi nhà”. Trẻ chơi tự do hoặc vừa đi vừa hát: “Trời nắng, thỏ đi tắm nắng…”. Khi cô ra hiệu lệnh: “Trời mưa” và gõ trống lắc dồn dập thì trẻ phải chạy nhanh đến một “ngôi nhà”( ngôi vào ghế) để tránh mưa. Trẻ nào chạy chậm không có “ngôi nhà” để tránh mưa thì “bị ướt” và phải ra ngoài một lần chơi.
Trò chơi: Tạo dáng
Mục đích
Giúp trẻ rèn luyện cách nhận biết và thể hiện các tạng thái khác nhau bằng những vận động biểu cảm.
Cách chơi
Cô yêu cầu trẻ bắt chước dáng đi của các con vật như: gấu, thỏ, chim, gà, vịt…Trẻ nào thể hiện giống nhất sẽ là người thắng cuộc.
Trò chơi: Đoán tên
Mục đích
Phát triển tai nghe, phân biệt và nhận ra giọng hát của bạn.
Chuẩn bị
Mũ chóp kín.
Cách chơi
Cô cho một trẻ đội mũ chóp kín. Gọi một trẻ trai hoặc một trẻ gái lên hát. Trẻ đội mũ sẽ phải đoán bạn đang hát là bạn trai hay bạn gái hoặc tên bạn, tên bài hát?
Trò chơi: Ai đoán giỏi
Mục đích
Phát triển tai nghe, phân biệt âm sắc của một số nhạc cụ.
Chuẩn bị
Trống, trống lắc, phách tre, chũm chọe, mũ chóp kín.
Cách chơi
– Cô gọi bạn A lên bảng, đầu đội mũ chóp kín mắt. Cô gọi cháu B đứng tại chỗ hát kết hợp gõ một nhạc cụ. Đố trẻ tên bài hát? Tên nhạc cụ gõ?.
– Tăng số lượng trẻ hát và gõ nhạc cụ.
Trò chơi: Cào cào giã gạo
Mục đích
Phát triển tai nghe, đoán đúng âm thanh của các bộ phận trên cơ thể.
Chuẩn bị
Mũ chóp kín.
Cách chơi
Cô cho trẻ đội mũ chóp kín, cô ngồi ở một chỗ bất kì trong lớp.
– Cô vỗ tay và đố trẻ đó là tiếng gì?
– Cô dùng ngón cái bịt một bên lỗ mũi, ngón rỏ bật ra bật vào, giọng ư ư. Đố trẻ biết đó là âm thanh của bộ phận nào?
– Hai tay cô vỗ vỗ vào hai bên má. Đố trẻ biết đó là âm thanh của bộ phận nào?
– Hai tay vỗ vào hai đùi. Đố trẻ biết đó là âm thanh của bộ phận nào?
– Hát, đố trẻ âm thanh của giọng hát.
Trò chơi: Cặp kè
Mục đích
Phát triển vận động.
Cách chơi
Tất cả trẻ tham gia chơi nắm tay vừa đi vừa đung đưa tới trước rồi ra sau theo nhịp bài đồng dao sau:
Cặp kè
Ăn muối mè
Ngồi xuống đất
Ăn rau muống
Đứng lên.
Cứ đến câu: “Ngồi xuống đất” thì tất cả cùng ngồi xổm xuống và khi đến câu: “ Đứng lên” thì tất cả lại đứng lên. Tiếp tục hát đi hát lại.
Trò chơi: Nu na nu nống
Mục đích
Trẻ biết chơi cùng nhau, luyện kĩ năng đếm.
Cách chơi
5 -6 trẻ ngồi duỗi thẳng chân, cô cho trẻ đếm bàn chân, ngón chân của mình, cả bạn. Cô giáo hỏi trẻ phía bên phải (trái) của trẻ có bao nhiêu chân, trẻ ngồi cạnh bạn nào, bạn ngồi giữa những bạn nào…Sau đó cô giáo vừa hát “Nu na nu nống” vừa vỗ vào chân từng trẻ. Từ “trống” cuối cùng kết thúc ở chân nào thì chân đó co lại. Cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất cả các chân đều co hết. Những lần chơi sao, cô để trẻ tự chơi với nhau.
Lời 1
Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi phật khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Lời 2
Nu na nu nống
Đánh trống phất cờ
Mở cuộc thi đua
Thi chân đẹp đẽ
Gót đỏ hồng hào
Không bẩn tí nào
Được vào đánh trống.
Tay xòe chân rụt.
Trò chơi: Kéo cưa lừa xẻ
Mục đích
Phát triển ngôn ngữ.
Chuẩn bị
Trẻ thuộc lời bài đồng dao
Đưa, đẩy tay theo đúng nhịp của bài đồng dao
Cách chơi
Lời 1
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ.
Lời 2
Kéo cưa, lừa kít
Làm ít, ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cưa
Lấy gì mà kéo.
Trẻ ngồi từng đôi một đối diện nhau nắm tay nhau, vừa đọc lời ca ( lời 1 hoặc lời 2) vừa làm theo động tác kéo cưa theo nhịp của bài đồng dao, đọc tiếng “kéo” thì trẻ A đẩy cháu B ( người hơi chúi về phía trước), trẻ B kéo tay trẻ A ( người hơi ngã về phía sau), khi đọc tiếng “cưa” thì trẻ B đẩy trẻ A và trẻ A kéo trẻ B. Đọc đến tiếng “lừa” thì trở về vị trí ban đầu. Cứ như vậy vừa đọc, vừa làm động tác cho đến hết bài theo đúng nhịp.
Trò chơi: Thêm, bớt vật gì?
Mục đích
Phát triển khả năng quan sát
Chuẩn bị
Đồ dùng, đồ chơi có sẵn trong lớp
Luật chơi
Trẻ nói nhanh và đúng tên một số đồ dùng, đồ chơi của lớp được thêm hoặc bớt trong lúc thêm bớt đồ dùng, đồ chơi nào trẻ phải nắm lại.
Cách chơi
Giáo viên đưa từng đồ dùng, đồ chơi của lớp cho trẻ quan sát và gọi tên. Sau đó cho tất cả vào túi. Khi bắt đầu chơi, giáo viên yêu cầu trẻ nhắm mắt lại (dùng hiệu lệnh) đồng thời đưa các đồ vật sau khi đã thêm hoặc bớt ra bày trước mặt trẻ. Cho trẻ mở mắt (dùng tín hiệu) và nhận xét có đồ dùng đồ chơi nào được thêm hoặc bớt đi. Trẻ nói đúng được tất cả nhóm vỗ tay hoan hô.
Trò chơi: Xếp hình
Mục đích
Luyện kĩ năng khéo léo, sáng tạo, ghi nhớ có chủ định.
Chuẩn bị
Que tính dài, ngắn khác nhau, các loại hạt (na, bưởi, gấc, bí….)
Luật chơi
Xếp theo mẫu hoặc theo yêu cầu của cô giáo.
Cách chơi
Cô cho trẻ xem hình mẫu, trẻ cùng các vật liệu kể trên xếp theo hình mẫu. Có thể cất mẫu đi, cho trẻ tự nhớ lại để xếp đúng hình. Nếu trẻ đã biết xếp thành thạo thì để trẻ tự xếp theo ý trẻ. Khi nào trẻ xếp xong, cô hỏi trẻ xếp hình gì? Bằng vật liệu gì? Màu nào?
Trò chơi: Đi siêu thị mua sắm
Mục đích
Phát triển ngôn ngữ, nhận biết đồ dùng
Chuẩn bị
Cửa hàng bày bán các loại đồ dùng học tập, đồ chơi (bút chì, hộp màu, bảng, vở, truyện tranh, búp bê, gấu bông…).
Cách chơi
Nhóm trẻ phục vụ trong cửa hàng xếp đồ chơi theo công dụng. Trẻ ở nhóm khác đến chọn mua.
Những thứ cần thiết cho vào giỏ và ra quầy trả tiền. Người bán và người mua cảm ơn và chào nhau sau khi mua hàng.
Trò chơi: Cửa hàng quần áo
Mục đích
Phát triển ngôn ngữ
Chuẩn bị
Búp bê, quần áo búp bê, các loại (áo bông, áo khoác, sơ mi dài tay, cộc tay, may ô, quần soóc, quần dài, váy, mũ len, khăn len…). Bàn để bày quần áo, những tờ giấy nhỏ giả làm tiền.
Cách chơi
Chỉ bán khi người mua mô tả được quần áo mình muốn mua (quần áo mùa đông, quần áo mùa hè, và quần áo lót…). Gia đình búp bê đi mua quần áo cho búp bê. Trẻ tới cửa hàng mua quần áo phải nói đúng tên quần áo mình cần mua, cám ơn sau khi mua. Ví dụ: “Bác bán cho tôi cái mũ len màu đỏ, cái áo dạ màu trắng kia”. Người mua trả tiền, người bán nhận tiền…
Trò chơi: Chuyền bóng
Mục đích
Rèn luyện kĩ năng vận động
Luật chơi
Ai làm rơi bóng phải ra ngoài một lần chơi.
Chuẩn bị
Từ 2 đến 3 quả bóng.
Cách chơi
Cho trẻ đứng thành vòng tròn ( nếu lớp đông có thể chia thành nhiều vòng tròn). Cứ 10 trẻ thì có một trẻ cầm bóng. Khi giáo viên hô “bắt đầu” thì trẻ cầm bóng đầu tiên sẽ chuyền bóng cho bạn bên cạnh, lần lượt theo chiều kim đồng hồ. Vừa chuyền vừa hát theo nhịp:
Không có cánh
Mà bóng biết bay
Không có chân
Mà bóng biết chạy
Nhanh nhanh bạn ơi
Nhanh nhanh bạn ơi
Xem ai tài, ai khéo
Cùng thi đua nào.
Khi trẻ đã chơi thành thạo có thể chia làm hai hoặc ba nhóm và thi đua cùng nhau, nhóm nào ít bạn làm rơi bóng sẽ thắng cuộc.
Trò chơi: Một số trò chơi giúp trẻ phát triển trí tuệ
Chơi cát: có những cha mẹ không cho con nghịch cát vì sợ bẩn. Đừng quá lo. Giây bẩn là sự phát triển tự nhiên của tính thích khám phá của trẻ. Với đống cát, trẻ có thể xây núi, đào hang, xây cầu, làm đường, có thể lấy đá cuội và que làm vườn vui chơi. Có thể gạt bằng mặt cát để trẻ tự vẽ viết tùy ý thích. Ngoài ra, bạn có thể dạy trẻ dùng cát ướt để nặn mô hình hay dùng cát đã rửa sạch để làm bình lọc nước. Khi nhìn thấy nước đục sau khi lọc qua cát sẽ làm nước trong, trẻ thấy thích thú và sẽ có những gợi mở suy nghĩ mới.
Gấp giấy: là hoạt động vui chơi đơn giản, thực dụng, và vô cùng phong phú. Một tờ giấy nho nhỏ, qua bàn tay khéo léo có thể biến thành quần áo, thuyền, máy bay và các con vật có hình thù khác nhau. Trẻ chơi gấp giấy sẽ được củng cố khái niệm hình học một cách tự nhiên, nhận biết được các sự biến đổi từ đơn giản đến phức tạp. Bạn hãy biến trò chơi gấp giấy thành một trò chơi vừa rèn kỹ năng của tay lại vừa giúp cho trẻ động não.
Chơi nước: trẻ đặc biệt rất thích nghịch nước. Nhiều bậc cha mẹ sợ con nghịch nước làm ướt quần áo, nhất là về mùa đông dễ bị cảm lạnh. Đừng quá lo lắng như vậy. Hãy cho nước vào chậu, thả con vịt nhựa, bóng nhựa hoặc gấp thuyền bằng giấy… hay thổi bóng xà phòng. Đơn giản nhưng lại mang lại hiệu hiệu quả rõ rệt về phát triển trí tuệ.
Trò chơi: Trò chơi phát triển tư duy cho trẻ
Khái quát hóa là một năng lực đặc thù của tư duy con người. Đó là hình thức phản ánh những dấu hiệu và phẩm chất chung của các sự vật hiện tượng. Khả năng khái quát hóa được hình thành và phát triển từ lứa tuổi mầm non thông qua hoạt động của bản thân đứa trẻ, trong đó vui chơi là hoạt động chủ đạo đóng vai trò quan trọng.
Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt hướng dẫn bạn một số trò chơi đơn giản giúp trẻ phát triển tư duy. Trò chơi trong kỳ thứ nhất là: Chiếc hộp kỳ diệu.
* Chuẩn bị:
– Một số thẻ hình để trong một cái túi vải. Trên mỗi thẻ có vẽ một trong các hình sau đây: hình cầu, hình lập phương, hình nón, hính chop, hình khối chữ nhật, hình lăng trụ tam giác…
– Một hộp to được đậy kín, bên trong đựng các đồ vật có hình cầu, hình nón, tương tự với các hình trong các thẻ nói trên.
Ví dụ: Trong hộp đựng quả bóng (hình cầu), mái nhà (hình lăng trụ), hộp kẹo (hình khối chữ nhật), khối gỗ hình lập phương.
* Cách chơi: Chơi theo nhóm hoặc cả lớp
Để các đồ chơi trước mặt trẻ. Cho hai trẻ lên chơi, cả lớp quan sát. Một trẻ lấy một trẻ ra khỏi túi và đặt lên bàn. Trẻ kia quan sát thẻ đó và cho tay vào hộp kín, không nhìn, chỉ dùng tay sờ để chọn ra những đồ vật có đặc điểm hình dạng giống hình trên thẻ.
Tổng hợp những Câu đố dành cho trẻ mầm non
Tổng hợp những Câu đố dành cho trẻ mầm non 300 câu đố hay dành cho trẻ mầm non Câu đố dành cho trẻ mầm non Các câu đố dành cho bé yêu CÂU ĐỐ DÀNH CHO TRẺ MẦM NON Tuyển Chọn Câu Đố Dành Cho Trẻ Mầm Non Tuyển Tập Truyện, Thơ, Câu Đố Dành Cho Trẻ Mầm Non Tài liệu Câu đố dành cho trẻ mầm non
Tổng hợp những Câu đố dành cho trẻ mầm non
Câu đố 1 ; Bốn chân như bốn cột nhà
Hai tai ve vẩy, hai ngà trắng phau
Voì dài vắt vẻo trên đầu
Trong rừng thích sống với mhau từng đàn.
Là con gì ?
Con voi – elephant
Câu đố 2 ; Con gì nhảy nhót leo trèo
Mình đầy lông lá nhăn nheo làm trò ?
Con khỉ – monkey
Câu đố 3 ; Con gì cổ dài
ăn lá trên cao
Da lốm đốm sao
Sống trên đồng cỏ ?
Hươu cao cổ – giraffe
Câu đố 4 ; Con gì lông vằn mắt xanh
Dáng đi uyển chuyển, nhe nanh tìm mồi
Thỏ, nai gặp phải hỡi ôi !
Muông thú khiếp sợ tôn ngôi chúa rừng ?
Con hổ – tiger
Câu đố 5 ; Con gì chạy thật là nhanh
Có đôi sừng nhỏ giống cành cây khô ?
Con hươu – stag
Câu đố 6 ; Trông giống con hổ lớn
Đeo bơm thật oai phong
Dáng đi thật hùng dũng
Săn đuổi đàn hươu, nai.
Là con gì ?
Con sư tử – lion
Câu đố 7 ; Sống trên đồng cỏ rộng
Không đi, nhảy rất tài
Đeo túi mềm trước ngực
Địu con trên đường dài
Là con gì ?
Chuột túi – kangaroo
Câu đố 8 ; Cũng gọi là chó
Mà chẳng ở nhà
Sống tận rừng xa
Là loài hung dữ
Là con gì ?
Con chó sói – wolp
Câu đố 9 ; Chuyền cành mau lẹ
Có cái đuôi bông
Hạt dẻ thích ăn
Con gì thế nhỉ ?
Con sóc – squirrel
Câu đố 10 ;Con gì là loài ngựa
Nhưng lông vằn trắng, đen
ăn lá cây, cỏ dại
Sống từng đàn đông vui ?
Con ngựa vằn – zebra
` Câu đố 11 ; Đầu nhỏ mà có bốn chân
Lưng đầy tên nhọn, khi cần bắn ngay.
Là con gì ?
Con nhím – porcupine
Câu đố 12 ; Trên mình mặc áo hoa
Leo trèo nhanh thoăn thoắt
chỉ cần trong nháy mắt
giấu mồi trên ngọn cây.
Là con gì ?
Con báo – panther
Câu đố 13 ; Con gì luồn lách khắp nơi
Gà mà sơ hở là xơi tức thì ?
Con cáo – fox
Câu đố 14 ; Con gì da tựa mo lang
Sừng dọc sống mũi, lang thang trong rừng
Nhìn thấy bùn vũng là mừng
Thú hoang như thể con cưng bảo tồn ?
Con tê giác – rhinoceros
Câu đố 15 ; Con gì có bướu trên lưng
Trời nắng, cổ khát vẵn băng dặm dài ?
Con lạc đà – camel
Câu đố
Câu đố 16 ; Bình thờng em đọc là “u”
Khi em quay ngợc “u” ra chữ gì ?
(Chữ n)
Câu đố 17 ; Một nét thẳng đứng nghiêm chào
Trên thêm dấu chấm (.) cháu nào nói ngay !
(Chữ i)
Câu đố 18 ; Nét tròn em đọc chữ “o”
Khuyết đi một nửa sẽ cho chữ gì ?
(Chữ C)
Câu đố 19 ; Sừng sững đững thẳng một mình
Đọc lên uốn lỡi… đố bé chữ gì ?
(Chữ l)
Câu đố 20 ; Ba anh cùng giống cái mình
Tròn xoe nh trái trứng gà nhà ai ?
Một anh đội mũ thật hay
Anh kia làm biếng cô thời thêm râu
( Chữ o, ô, ơ )
Câu đố 21 ; Củ gì đo đỏ
Con thỏ thích ăn
(Củ cà rốt)
Câu đố 22 ; Con gì mải miết rong chơi
Tiếng kêu ra rả gọi mời hè sang
( Con ve)
Câu đố 23 ; Con gì không có cánh
Lại sống đợc hai nơi
Ngày đội nhà đi chơi
Tối úp nhà nằm ngủ
(Con rùa)
1. Cùng ngủ, cùng thức
Hai bạn xinh xinh
Nhìn rõ mọi thứ
Nhưng không thấy mình
(Eyes)
2. Cái gì bật sang trong đêm
Giúp cho nhà dưới, nhà trên sáng ngời?
(Lamp)
3. Được đan từ những nan tre
Mùa đông xếp lại, mùa hè lấy ra
Hôm nào trời nắng nóng nhiều
Có tôi bên cạnh, bao nhiêu gió về?
Là cái gì
4. Có chân mà chẳng biết đi
Quanh năm suốt tháng đứng ì một nơi
Bạn bè, chăn, chiếu gối thôi
Cho người nằm ngủ thảnh thơi đêm ngày
Là cái gì?
5. Một thân phình ở hai đầu
Phần cầm áp miệng, phần cắm áp tai
Dẫu cho muôn dặm đường dài
Vẫn nghe như thể ngồi ngay cạnh mình
Là cái gì? (telephone)
6. Người một nơi, tiếng một nơi
Hễ tôi cất tiếng mọi người lắng nghe
Là cái gì (Loa truyền thanh, đài)
7. Một mẹ thường có sáu con
Yêu thương mẹ sẻ nước non vơi đầy
Là cái gì (bộ ấm chén)
8. Miệng tròn, long tắng phau phau
Đựng cơm, đựng thịt, đựng rau hàng ngày
Là những thứ gì (bát, đĩa)
9. Ai cầm cái chổi
Chăm chỉ miệt mài
Quét dọn hàng ngày
Phố phường sạch sẽ
10. Ai nơi hải đảo biên cương
Diệt thù giữ nước coi thường khó khăn?
11. Ai dạy bé hát
Chải tóc hang ngày
Ai kể chuyện hay
Khuyên bé đừng khóc?
12. Hòn gì bằng đất nặn ra
Xếp vào lò lửa nung ba bốn ngày
Khi ra, da đỏ hây hây
Người ta dùng nó để xây cửa nhà.
14. Như chiếc vòi rồng
Mồm uống nước sông
Phun ra cánh đồng
Bọt tung trắng xoá
Là cái gì (máy bơm nước)
15. Xe gì hai bánh
Đạp chạy bon bon
Chuông kêu kính coong
Đứng yên thì đổ?
16. Thân hình bằng sắt
Nổi nhẹ trên song
Chở chú hải quân
Tuần tra trên biển
Là cái gì (tàu thuỷ)
17. Chẳng phải là chim
Mà bay trên trời
Chở được nhiều người
Đi khắp mọi nơi
Là cái gì
18. Cánh vàng, nhị lớn
Quay hướng mặt trời
Hạt thơm béo ngậy
Mời bạn thử xơi
Là hoa gì, hạt gì (hướng dương)
19. Cây gì thân cao
Lá thư răng lược
Ai đem nước ngọt
Đựng đầy quả xanh?
20. Quả gì nho nhỏ
Chín đỏ như hoa
Tươi đẹp vườn nhà
Mà cay xé lưỡi
21. Quả gì nhiều mắt
Khi chin nứt ra
Ruột trắng nõn nà
Hạt đen nhanh nhánh
22. Da có mà bọc trứng gà
Bổ ra thơm phức cả nhà muốn ăn
23. Hạt gì không nhuộm mà xanh
Dẻo thơm, ngon lành ai cũng muốn ăn?
23. Tên em cũng gọi là cà
Mình tròn vỏ đỏ, chín vừa nấu canh?
24. Tên em chẳng thiếu, chẳng thừa
Chín vàng ngon ngọt, rất vừa lòng anh?
25. Cây gì nhỏ nhỏ
Hạt nó nuôi người
Chín vàng khắp nơi
Mọi người đi gặt
26. Thân tròn nhiều đốt
Phất phơ lá dài
Róc hết vỏ ngoài
Bé ăn ngọt lắm
27. Con gì đẹp nhất loài chim
Đuôi xoè rực rỡ như ngàn cánh hoa
28. Con gì trắng muốt như bong
Nhìn ngắm ruột đồng thẳng cánh cò bay?
29. Nhu nắm tơ tròn
Lon ta lon ton
Quẩn quanh bên mẹ
Đôi chân tí xíu
Chiếc mỏ tẻo teo
Chiếp chiu, chiếp chiu
30. Có cánh mà chẳng bay xa
Đẻ trứng cục tác, cục ta từng hồi
Ấp trứng, khi trứng nở rồi
Suốt ngày cục cục kiếm mồi nuôi con
31. Bộ Lông sặc sỡ mượt mà
Trên đầu mào đỏ như là hoa tươi
Sáng tinh mơ gáy vang trơìư
Đánh thức mọi loài mau dậy đi thôi
32. Con gì lông mượt
Đôi sừng cong cong
Lúc ra cánh đồng
Cày bừa rất giỏi
33. Con gì thích các loài hoa
Ở đâu hoa nở dù xa cũng tìm
Cùng nhau cần mẫn ngày đêm
Làm ra mật ngọt lặng im tặng người
34. Lúc vươn cổ
Lúc rụt đầu
Hễ đi đâu
Cõng nhà đi đó
Là con gì?
35. Bốn chân như bốn cột đình
Hai tay vẻ vẩy, hai ngà trắng phau
Vòi dài vắt vẻo trên đầu
Trong rừng thích sống với nhau từng đàn
Là con gì?
36. Mùa gì gió rét căm căm
Đi học bé phải quàng khăn đi giày?
Mùa gì cho lá xanh cây
Cho bé them tuổi má hây hây hồng
Mùa gì bé đón trăng rằm
Rước đèn phá cố chị Hằng cùng vui
Mùa gì phượng đỏ rực trời
Ve kêu ra rả rộn ràng khắp nơi
37. Quả gì chẳng mọc trên cây
Vươn mình đứng giữa trời mây khác thường
Có chân, có đỉnh, có sườn
Nước roe vực thẳm, mây vươn non ngàn
38. Mùa nào mưa bụi liti
Đào mai đua nở bà đi hội chùa?
Mùa nào ánh nắng dư thừa
Bữa cơm thường có canhchua, quả cà.
Mùa nào lắm thị, nhiều na
Có hương cốm mới, có hoa cúc vàng?
Mùa nào cỏ úa lá vàng
Cả nhà quanh rá ngô rang thơm bùi?
39. Cầu gì chỉ mọc sau mưa
Lung linh bảy sắc bắc vừa tới mây?
40. Trong như hạt ngọc
Mọc trên lá xanh
Nắng rọi trên cành
Biến nhanh như chớp?
Là gì?
41. Quen gọi là hạt
Chẳng mọc thành cây
Nhà nhà cao đẹp
Dùng tôi để xây
42. Ai muốn chân sạch
Thì dùgn đến tôi
Nhưng phải một đôi
Đôi gì thế nhỉ?
43. Cái gì nho nhỏ
Mà có nhiều răng
Giúp bé siêng năng
Hàng ngày chải tóc
44. Lấp la lấp lánh
Treo ở trên tường
Trước khi đến trường
Bé soi chải tóc
Là cái gì
45. Có chân mà chẳng biết đi
Có mặt phẳng lì cho bé ngồi lên
Là cáig ì
46. Tôi thường làm bạn
Với em bé thôi
Khi ăn cầm tôi
Dễ hơn cầm đũa
Hướng dẫn 101 trò chơi dân gian
100 TRÒ CHƠI DÂN GIAN
* Dụng cụ:
+ Một cái khăn bất kì tượng trưng cho cờ
+ Một vòng tròn
+ Vạch xuất phát củng là đích của 2 đội
* Cách chơi:
+ Quản trò chia tập thể chơi thành hai đội, có số lượng bằng nhau mỗi đội có từ 5-6 bạn, đứng hàng ngang ở vạp xuất phát của đội mình. Đếm theo số thứ tự 1,2,3,4,5… các bạn phải nhớ số của mình.
+ Khi quản trò gọi tới số nào thì số đó của hai đội nhanh chóng chạy đến vòng và cướp cờ.
+ Khi quản trò gọi số nào về thì số đó phải về
+ Một lúc quản trò có thể gọi hai ba bốn số
* Luật chơi:
+ Khi đang cằm cờ nếu bị bạn vỗ vào người, thua cuộc
+ Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình không bị đội bạn vỗ vào người, thắng cuộc
+ Khi có nguy cơ bị vỗ vào người thì được phép bỏ cờ xuống đất để chánh bị thua
+ Số nào vỗ số đó không được vỗ vào số khác. Nếu bị số khác vỗ vào không thua
+ Số nào bị thua rồi (“bị chết”) quản trò không gọi số đó chơi nữa
+ Người chơi không được ôm, giữ nhau cho bạn cướp cờ
+ Người chơi tìm cách lừa đối phương để nhang cờ về, lựa chọn sân bải phù hợp để chánh nguy cơ, cờ ra khỏi vòng tròn, để cờ lại vòng tròn chỉ được cướp cờ trong vòng tròn
+ Khoảng cách cờ đến hai đội bằng nhau
* Cách chơi:
+ Một bạn đóng vai “chú chó”
+ một bạn đóng vai “ ông chủ”
+ các bạn còn lại đống vai “thỏ con”
+ các bạn cùng hát: “ve ve chùm chùm, cá bóng nổi lửa, ba con lửa chếp chôi, ba con voi thượng đế, ba con dế đi tìm, ù a ù ịch”
+ một bạn làm ông chủ xoè ngữa bàn tay phải, các bạn tập trung thành một vòng tròn bên xung quanh ông chủ và lấy ngón tay trái của mình đặt vào lòng bàn tay của ông chủ khi nghe có có câu “ù a ù ịch” thì các bạn sẽ rút tay ra ông chủ sẽ bốp tay lại* Luật chơi:
+ khi bạn nào bị ông chủ nắm ngón tay, sẽ đóng vai chú chó, các bạn còn lại sẽ làm thỏ
+ khi ông chủ tả một vật nào đó thì lập tức các chú thỏ sẽ chạy tới chạm vào trong một khoản thời gian nào đó và ông chủ sẽ thả chó
+ khi thấy chú chó xuất hiện thì ngay lập tức thỏ phải chại nhanh đến chổ vật ông chũ tả chạm vào. và quay về chạm ông chủ. khi thấy chú chó thì các chú thỏ phải đi về ở tư thế khum, 2 tay chéo nhau đặc lên lổ tay.nêu đi về ở tư thế khum mà không chéo tay thì bị chú chó bắt hoặc đứng lên để chạy về mà bị chú chó đụng sẽ bị đóng vai chú chó thay cho bạn làm chú chó
* Cách chơi:
+ Địa điểm :trong nhà ngoài sân
+ Số lượng:từ 5-10 em chơi 1 nhớm
+ Hướng dẫn:quản trò vẽ sẳn các vòng tròn nhỏ trên đất,số lượng vòng tròn ích hơn số người chơi,chơi1.
Khi chơi các bạn nắm áo tạo thành một hàng đi quanh các vùng tròn và cùng độc”dung dăng dung dè dắc trẽ đi chơi,đi đến cổng trời gặp cậu gặp mợ,cho cháu về quê, cho dê đi học,cho cóc ở nhà cho gà bới bếp,ngồi xệp xuống đây” khi đọc hết chử đây các bạn chơi nhanh chóng tìm một vòng tròn và ngồi xệp xuống.sẽ có một bạn không có vòng tròn để ngồi tiếp tục xoá vòng tròn và chơi như trên,lại sẽ có 1 bạn không có,trò chơi tiếp tục khi chỉ còn 2 người* Luật chơi
+ Trong 1 khoản thời gian bạn nào khống có vòng thì bị thua
+ Hai bạn ngồi cùng 1 vòng bạn nào ngồi xuóng dưới là thắng
* Cách chơi và luật chơi:
Người chơi có thể từ 3 người trở lên. Chọn một người đứng ra trước xòe bàn tay ra các người khác giơ ngón trỏ ra đặt vào long bàn tay vào. Người xòe bàn tay đọc thật nhanh:
Chi chi chành chành.
Cái đanh thổi lửa.
Con ngựa chết chương.
Ba vương ngũ đế.
Chấp chế đi tìm
Ù à ù ập.Đọc đến chữ “ập” người xòe tay nắm lại, những người khác cố gắng rút tay ra thật nhanh, ai rút không kịp bị nắm trúng thì vào thế chỗ người xòe tay và vừa làm vừa đọc bài đồng dao cho các bạn khác chơi.
* Cách chơi và luật chơi:
Tất cả các bạn chơi phải nắm tay lại và xếp chồng lên nhau. Tay người này xen kẽ tay người kia không được để hai tay của mình gần nhau.
Người nào để tay đầu tiên chỉ đặt một tay và cũng được xem là người bị đầu tiên , tay còn lại dùng để chỉ mỗi từ trong bài đồng dao tương ứng với một nắm tay. Tất cả cùng hát :Chùm nụm chùm nẹo
Tay tí tay tiên
Đồng tiền chiếc đũa
Hạt lúa ba bông
An trộm ăn cắp
Trứng gà trứng vịt
Bù xe bù xít
Con rắn con rít
Nó rít tay nàyĐến từ cuối cùng “này” trúng tay ai thì người đó phải rút nắm tay ra hoặc người chỉ chặt ngang nắm tay của người đó. Lúc này người bị phải chỉ thay cho người đầu tiên vừa hát vừa chỉ các nắm tay các bạn chơi. Cuộc chơi cứ thế tiếp tục đến hết các nắm tay thì trì chơi kết thúc.
* Cách chơi:
Người chơi chia làm hai đội trở lên thông thường thì từ hai đến ba đội, mỗi đội phải có số người bằng nhau.Mỗi đội có một ô hàng dọc để nhảy và có hai lằn mức một xuất phát và một mức đích. Mỗi đội sếp thành một hàng dọc.
Người đứng đầu bước vào trong bao bố hai tay giữ lấy miệng bao. Sau khi nghe lệnh xuất phát người đứng đầu mỗi đội mới nhảy đến đích rồi lại quay trở lại mức xuất phát đưa bao cho người thứ 2. Khi nào ngườithứ nhất nhảy về đến đích thì người thứ 2 tiếp theo mới bắt đầu nhảy. Cứ như vậy lần lượt đến người cuối cùng. Đội nào về trước đội đó thắng* Luật chơi:
Ngừơi chơi nào nhảy trước hiệu lệnh xuất phát là phạm luật, người nhảy chưa đến mức quy định mà quay lại cũng phạm luật. Nhảy chưa đến đích mà bỏ bao ra cũng phạm luật và có thể bị loại khỏi cuộc chơi.7. Trò chơi: ĐÚC CÂY DỪA, CHỪA CÂY MỎNG
Bây giờ tôi nhớ và ôn lại những kỷ niệm hồi còn nhỏ, tất cả trẽ em xóm tôi có những trò chơi dân gian, không biết phát xuất từ lúc nào ở Ninh Hòa.
Trò chơi sau đây rất vui, khi tụm năm tụm bảy được rồi thì chơi quên ăn, quên làm, chơi say mê như trò chơi “Đúc cây dừa, chừa cây mỏng”.
Bắt đầu trò chơi này không cần bao nhiêu người, có bao nhiêu người chơi cũng được.
Tất cả người chơi ngồi xếp hàng xuống thềm nhà, hai chân duỗi thằng ra phía trước, người ở đầu hàng đếm chuyền xuống đến người ở cuối hàng và tiếp tục người ở cuối hàng đếm chuyền đến người ở đầu hàng. Vừa đếm vừa đọc bài ca dân gian như vầy:
Đúc cây dừa
chừa cây mỏng
cây bình đỏng (đóng)
cây bí đao
cây nào cao
cây nào thấp
chầp chùng mùng tơi chín đỏ
con thỏ nhảy qua
bà già ứ ự
chùm rụm chùm rịu (rạ)
mà ra chân này
Khi đọc hết bài ca “mà ra chân này”, ở cuối câu tới chân người nào đó, thì thụt chân vào, người nào thụt hết hai chân thì thắng, còn lại người sau cùng người nào chưa thụt cân vào thì thua. Khi đó những người thắng cuộc chuẩn bị chạy để người thua cuộc rượt bắt, bắt được bất cứ người nào xả bàn làm lại.
8. Trò chơi: Tả CÁY
Nhiều người làng Sán Dìu ở vùng Thanh Lanh (Bình Xuyên) xưa có trò chơi “Tả cáy” (có nghĩa là “Đánh gà”).
Con gà làm bằng gỗ tiện tròn bằng quả bóng bàn. Có thể có từ 5 đến 10 người cùng chơi, mỗi người cầm một cái gậy dài hơn một mét bằng tre hoặc bằng gỗ. Đào một cái lỗ bằng cái bát con ở giữa bãi chơi để “Con gà” dưới lỗ. Người đứng cái cầm gậy đẩy con gà ra khỏi lỗ. Những người khác dùng gậy hối gà vào lỗ. Người đứng cái vừa dùng gậy hối và đi vừa phải để ý đỡ đòn kẽo gậy của người khác đập trượt vào chân mình. Người nào đứng cái giỏi giữ cái lâu nhất không có gà lọt xuống được coi là thắng cuộc. Khi để “gà” lọt xuống lỗ thì người “cái” phải làm “con” để người vừa hối gà xuống lỗ được đứng cái
9. Trò chơi: THI THỔI CƠM
Trong dịp lễ hội, một số làng ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam có tổ chức thổi cơm thi. Cuộc thi thổi cơm ở từng nơi có những luật lệ, nét đặc trưng riêng như nấu cơm trên thuyền, nấu cơm trông trẽ, vừa đi vừa nấu cơm…
Thi nấu cơm ở hội Thị Cấm (Từ Liêm – Hà Nội)
Cuộc thi nhằm diễn lại tích của Phan Tây Nhạc, vị tướng thời vua Hùng thứ 18, đã rèn luyện cho quân sĩ thực hành một cách thành thạo, đặc biệt là nấu được cơm ăn trong điều kiện khó khăn.
* Thể lệ cuộc thi: nguyên liệu là thóc, sẵn củi, chưa có lửa, chưa có nước. Các đội phải làm gạo, tạo ra lửa, đi lấy nước về nấu cơm. Cuộc thi có ba bước: thi làm gạo; tạo lửa, lấy nước và thổi cơm.
Mỗi nhóm 10 người (cả nam và nữ), họ tự xay thóc, giã gạo, dần sàng, lấy lửa, lấy nước và nấu cơm.
Bước 1, thi làm gạo: sau hồi trống lệnh, các đội đổ thóc vào xay, giã, dần sàng. Giáp nào có được gạo trắng trước nhất là thắng cuộc.
Bước 2, thi kéo lửa và lấy nước: Lấy lửa từ hai thanh nứa già cọ vào nhau (khó nhất là khâu này), áp bùi nhùi rơm khô vào cho bén lửa. Người lấy nước cách đó khoảng 1km, nước chứa sẵn vào 4 cái be bằng đồng, đợi người đến lấy mang về. Giáp nào lấy được lửa trước và lấy nước về đích trước thì giáp đó thắng cuộc.
Bước 3, nấu cơm: giáp nào thổi được cơm chín dẽo, ngon và xong trước thì thắng cuộc. Cơm của giáp đó được dùng để cúng thần.
Thi nấu cơm ở hội làng Chuông (Hà Tây)
Cuộc thi của nữ: Người dự thi thực hiện trong một vòng tròn đường kính 1,5m. Quy ước là vừa thổi cơm vừa phải giữ một đứa trẽ chừng 7 – 8 tháng tuổi (không phải là con đẽ của người dự thi) và canh chừng một con cóc không để nó nhảy ra khỏi vòng tròn. Lửa lấy từ bùi nhùi rơm, nhóm củi, đặt bếp, trông đứa trẽ không được khóc và con cóc. Thời gian là cháy hết một nén hương. Cơm chín trước, dẽo ngon hơn là người thắng cuộc.
Cuộc thi của nam: Bếp đặt sẵn bên bờ một cái ao hay bờ đầm. Mỗi người dự thi một bếp. Sau hồi trống lệnh, các chàng trai bước xuống một cái thuyền nan, bơi bằng tay sang bờ bên kia, áp thuyền vào bờ và thực hiện hết thảy các việc trên thuyền bồng bềnh. Tay ướt vẫn phải đánh lửa, thổi nấu và giữ thuyền ổn định. Ai thổi được nồi cơm thơm dẽo ngon, xong trước là người thắng cuộc.
Thi nấu cơm ở hội Từ Trọng (Hoàng Hóa – Thanh Hóa)
Người dự thi ngồi trên thuyền thúng tại một đầm rộng, lộng gió. Mỗi người một thuyền, kiềng, rơm ẩm, bã mía tươi và trang bị khác giống nhau. Sau hiệu lệnh, các thí sinh đưa thuyền rời bờ ra giữa đầm. Thuyền bồng bềnh, gió lộng, củi lửa lại khó cháy, thậm trí có lần bị mưa phùn gió bắc. Kết thúc cuộc thi ai có nồi cơm hoặc chõ xôi chín dẽo, ngon là người thắng cuộc.
Thi nấu cơm ở hội Hành Thiện (Nam Định)
Cuộc thi dành cho nam. Mỗi nhóm hai người, xếp thành hàng ngang. Một nguời buộc cành tre dài, dẽo dọc theo sống lưng ngọn cao hơn đầu, niêu đất có sẵn gạo và nước để nấu cơm treo trên ngọn cần về phía trước, người kia lo củi lửa và đun nấu.
Sau hiệu lệnh, người nấu phải tạo lửa từ hai thanh nứa già, sau đó châm lửa vào cây đuốc hơ dưới đáy niêu cơm. Cả hai người đều cùng phải bước đi quanh sân đình. Hết tuần hương là lúc kết thúc cuộc thi. Nhóm nào có cơm chín dẽo, ngon là người thắng cuộc.
10. Trò chơi: ĐÁNH QUAY
Đánh quay là trò chơi dành cho con trai. Chơi thành nhóm từ 2 người trở lên, nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi quay, nhưng nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi nổi và hấp dẫn hơn nhiều.
Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất.
Trò chơi dành cho con gái. Số người chơi 2-5 người. Đồ chơi gồm có 10 que nhỏ và một quả tròn nặng (quả cà, quả bòng nhỏ…), ngày nay các em thường chơi bằng quả bóng tennis.Cầm quả ở tay phải tung lên không trung và nhặt từng que. Lặp lại cho đến khi quả rơi xuống đất là mất lượt. Chơi từ bàn 1 (lấy một que một lần tung) bàn 2 (lấy hai que một lần) cho đến 10, vừa nhặt quả chuyền vừa hát những câu thơ phù hợp với từng bàn. Một mốt, một mai, con trai, con hến,… Đôi tôi, đôi chị… Ba lá đa, ba lá đề v.v. Hết bàn mười thì chuyền bằng hai tay: chuyền một vòng, hai vòng hoặc ba vòng… và hát: “Đầu quạ, quá giang, sang sông, trồng cây, ăn quả, nhả hột…” khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi liền mấy ván sau và tính điểm được thua theo ván.
Khi người chơi không nhanh tay hay nhanh mắt để bắt được bóng và que cùng một lúc sẽ bị mất lượt, lượt chơi sẽ chuyển sang người bên cạnh.
Chơi chuyền làm người ấm lên và rất vui. Thường trong suốt mùa hè hoặc mùa thu, các cô gái nhỏ chơi chuyền ở khắp mọi nơi, dưới bóng cây hay ở sân nhà…12. Trò chơi: THI DIỀU SÁO
Diều sáo là một trò chơi phổ biến ở Việt Nam. Hàng năm ở một số vùng có tổ chức cuộc thi diều sáo như trong hội đền Hùng ở thôn Cổ Tích, Lâm Thao, Phú Thọ. Đây là những chiếc diều thật lớn, bề ngang có khi đến một sải rưỡi tay và có mang một hoặc nhiều chiếc sáo.
Khung diều làm bằng cật tre, giấy phất vào diều bằng gậy. Diều thả bằng dây mây hay dây thép nhỏ. Sáo diều có 3 loại chính phân theo tiếng kêu: sáo cồng, tiếng kêu vang như tiếng cồng thu quân; sáo đẩu, tiếng kêu than như tiếng lời than; sáo còi, tiếng kêu the thé như tiếng còi.
Thi diều sáo, Ban giám khảo có thể chấm theo tiếng sáo, nhưng trước tiên bao giờ cũng phải xem diều có lên bổng, dây diều căng hay võng, nhất là lúc ở trên không diều có lắc lư đảo ngang đảo dọc hay không.
13. Trò chơi: Ô ĂN QUAN
Vẽ một hình chữ nhật được chia đôi theo chiều dài và ngăn thành 5 hàng dọc cách khoảng đều nhau, ta có được 10 ô vuông nhỏ. Hai đầu hình chữ nhật được vẽ thành 2 hình vòng cung, đó là 2 ô quan lớn đặc trưng cho mỗi bên, đặt vào đó một viên sỏi lớn có hình thể và màu sắc khác nhau để dễ phân biệt hai bên, mỗi ô vuông được đặt 5 viên sỏi nhỏ, mỗi bên có 5 ô.
Hai người hai bên, người thứ nhất đi quan với nắm sỏi trong ô vuông nhỏ tùy vào người chơi chọn ô, sỏi được rãi đều chung quanh từng viên một trong những ô vuông cả phần của ô quan lớn, khi đến hòn sỏi cuối cùng ta vẫn bắt lấy ô bên cạnh và cứ thế tiếp tục đi quan (bỏ những viên sỏi nhỏ vào từng ô liên tục). Cho đến lúc nào viên sỏi cuối cùng được dừng cách khoảng là một ô trống, như thế là ta chặp ô trống bắt lấy phần sỏi trong ô bên cạnh để nhặt ra ngoài. Vậy là những viên sỏi đó đã thuộc về người chơi, và người đối diện mới được bắt đầu.
Đến lượt đối phương đi quan cũng như người đầu tiên, cả hai thay phiên nhau đi quan cho đến khi nào nhặt được phần ô quan lớn và lấy được hết phần của đối phương. Như thế người đối diện đã thua hết quan.
Hết quan tàn dân, thu quân kéo về. Hết ván, bày lại như cũ, ai thiếu phải vay của bên kia. Tính thắng thua theo nợ các viên sỏi.
Quan ăn 10 viên sỏi.Cách chơi ô ăn quan được nói lên rất đơn giản nhưng người chơi ô ăn quan đã giỏi thì việc tính toán rất tài tình mà người đối diện phải thua cuộc vì không còn quan (sỏi) bên phần mình để tiếp tục cuộc chơi…
14. Trò chơi: MÈO ĐUỔI CHUỘT
Trò chơi gồm từ 7 đến 10 người. Tất cả đứng thành vòng tròn, tay nắm tay, giơ cao lên qua đầu. Rồi bắt đầu hát.
Mèo đuổi chuột
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo chạy đằng sau
Thế rồi chú chuột lại đóng vai mèo
Co cẳng chạy theo, bác mèo hóa chuột
Một người được chọn làm mèo và một người được chọn làm chuột. Hai người này đứng vào giữa vòng tròn, quay lưng vào nhau. Khi mọi người hát đến câu cuối thì chuột bắt đầu chạy, mèo phải chạy đằng sau. Tuy nhiên mèo phải chạy đúng chỗ chuột đã chạy. Mèo thắng khi mèo bắt được chuột. Rồi hai người đổi vai trò mèo chuột cho nhau. Trò chơi lại được tiếp tục.
15. Trò chơi: RỒNG RẮN LÊN MÂY
Một người đứng ra làm thầy thuốc, những người còn lại sắp hàng một, tay người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía trước. Sau đó tất cả bắt đầu đi lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
– Thấy thuốc đi chơi ! (hay đi chợ, đi câu cá , đi vắng nhà… tùy ý mà chế ra).
Đoàn người lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời:
– Có !
Và bắt đầu đối thoại như sau : Thầy thuốc hỏi:
– Rồng rắn đi đâu?
Người đứng làm đầu của rồng rắn trả lời:
– Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa bệnh cho con.
– Con lên mấy ?
– Con lên một
– Thuốc chẳng hay
-Con lên hai.
– Thuốc chẳng hay.
………………………………………….. ….
Cứ thế cho đến khi:
– Con lên mười.
– Thuốc hay vậy.
Kế đó, thì thầy thuốc đòi hỏi:
+ Xin khúc đầu.
– Những xương cùng xẩu.
+ Xin khúc giữa.
– Những máu cùng me.
+ Xin khúc đuôi.
– Tha hồ mà đuổi.
Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách làm sao mà bắt cho được người cuối cùng trong hàng.
Ngược lại thì người đứng đầu phải dang tay chạy, cố ngăn cản không cho người thầy thuốc bắt được cái đuôi của mình, trong lúc đó cái đuôi phải chạy và tìm cách né tránh thầy thuốc. Nếu thầy thuốc bắt được người cuối cùng thì người đó phải ra thay làm thầy thuốc.
Nếu đang chơi dằng co giữa chừng, mà rồng rắn bị đứt ngang thì tạm ngừng để nối lại và tiếp tục trò chơi.
16. Trò chơi: NÉM CÒN
Với người Việt cổ xưa, trò chơi này thường dành cho giới nữ, con nhà quý phái, xưa kia là các mỵ nương, con gái Lạc hầu, Lạc tướng. Đối với các dân tộc Mường, Tày, Hmông, Thái… ném còn là trò tín ngưỡng hấp dẫn nhất của trai gái trong dịp hội xuân.
Quả “còn” hình cầu to bằng nắm tay trẽ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc.
Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én.
Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm – dương).
Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong giao hoà âm – dương, mùa màng tươi tốt.
17. Trò chơi: THI THƠ
Hàng năm, ở một số vùng có tổ chức hội thi thơ như ở Hoa Lư (Ninh Bình) và Yên Đổ (Hà Nam).
Vùng Hoa Lư, Ninh Bình, có phong cảnh nên thơ, hùng vĩ. Hàng năm nhân ngày hội đền vua Đinh, để giữ gìn nếp xưa và khuyến khích dân chúng trên đường văn học, dân làng mở hội thi thơ, không những riêng cho dân sở tại mà còn cho tất cả những ai văn hay chữ tốt, muốn được giải và muốn được tiếng tăm với mọi người.
Đề thơ tuỳ ban tổ chức lựa chọn. Giải thưởng thường chỉ được mấy vuông nhiễu điều, gói chè, mươi quả cau. Những người được giải hãnh diện về thơ hơn vì giải. Hàng năm có 3 giải thưởng cho cuộc thi này, vì ban giám khảo gồm các tay văn học nổi tiếng trong vùng. Có khi Ban tổ chức mời cả những bậc đại khoa có danh chấm giải. Ngày xưa, thường vị tuần phủ chủ tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng chấm thơ.
Hàng năm làng Yên Đổ (Hà Nam) tổ chức cuộc thi thơ vào 24 tháng Chạp, nhân phiên chợ Đồng.
Buổi sáng hôm đó, cuôc thi văn thơ đã được các bô lão trong làng tổ chức tại ngôi đình cạnh chợ. Văn sĩ khắp nơi đến tụ tập ở Tưởng Đền để dự cuộc thi thơ. Các vị khoa mục làng Yên Đổ và các làng gần đó làm giám khảo. Thí sinh nào trúng giải thưởng sẽ được hoan hô và được ban thưởng phần thưởng rất hậu. Thật là cuộc thi tao nhã và hào hứng với mục đích khuyến khích thí sinh dùi mài kinh sử, tranh ngôi đoạt giáp sau này.
Sau cuộc thi, những người trúng giải được nếm rượu ở Tưởng Đền với các bô lão trong làng.
18. Trò chơi: THI DƯA HẤU
Làng Thổ Tang, Vĩnh Tường, Phú Thọ, có tục thi dưa hấu. Vào khoảng thượng tuần tháng ba âm lịch hàng năm, hội đồng kỳ mục họp với các bô lão để quyết định ngày hái dưa, gọi là ngày xuống đồng, thường là ngày 25 tháng ba.
Từ 5 giờ sáng ngày xuống đồng, trống mõ và tù và báo hiệu khắp làng. Nghe tiến báo hiệu, các gia đình mới ra ruộng hái dưa. Nếu ai tự hái trước sẽ bị phạt rất nặng, nếu là chủ ruộng, làng phạt tiền, còn nếu là kẽ trộm, làng sẽ cùm ngay trước sân đình. Dưa hái xong các chủ điền đích thân chọn những quả dưa già, to đen ra trình làng. Tại đây hội đồng giám khảo sẽ xét dưa theo các tiêu chuẩn: giống tốt, đẹp mã, già, đầy đặn, bổ ra đỏ tươi vàng lại nhiều cát. Có hai đợt chấm thi dưa: đợt một, chọn những quả dưa đẹp, dưa già, đầy đặn, đợt hai đưa lên cân. Dưa được xếp thành hạng nhất và hạng hai.
Dưa hạng nhất được rửa sạch cúng thần ở đình, tên chủ dưa được loan truyền cho dân làng rõ. Dân làng tin rằng, chủ điền nào có dưa được chọn cúng thần, ngoài vinh dự ra, cả năm đó sẽ làm ăn phát đạt.
19. Trò chơi: THI THẢ CHIM
Chim Bồ câu được là biểu tượng cho hoà bình – tự do nên thường được gọi là chim Hoà bình. Dựa vào những đặc tính ấy của chim. Từ lâu, ông cha ta đã sáng tạo một lối chơi dân gian tao nhã: thi thả chim bồ câu. Tương truyền, thú chơi này xuất hiện từ thời Lý.
Bồ câu là loài chim có khả năng đinh hướng tốt, dù xa nhà cũng tìm được về tổ ấm trừ khi gặp gió bão, chúng có tính hợp quần cao, sống theo đàn, chung thuỷ và nghĩa tình.
Hàng năm có đến hàng chục hội thi thả chim câu thường được tổ chức vào hai mùa: mùa hạ (tháng 3-4 âm lịch) và mùa thu (tháng 7-8 âm lịch). Khu vực trung tâm hội thi thuộc Châu thổ sông Hồng kéo dài từ 2 bên bờ sông Đuống đến một phần tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (Đa Phúc, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Tiên Sơn, Yên Phong). Hội thi còn diễn ra ở một số nơi phía Tây Hà Nội như Tây Tựu, Đan Phượng, Hoài Đức.
Từ xưa các cụ đã định ra tiêu chuẩn thi thả chim câu bay rất nghiêm ngặt. Cả đàn bay chặt chẽ, cự ly đều, không tách rời đàn, vòng lượn hẹp và tròn, bay cao, trụ hướng thẳng đứng lên. Khi mắt thường nhìn lên thấy cả đàn thấy cả đàn chụm thành môt vòng tròn nhỏ không thấy vỗ cánh rồi tìm hướng bay về tổ. Lúc đó đàn chim được vào “trông thượng” để xét giải.
Vậy mà cái thú chơi chim lành mạnh thanh nhã lúc nông nhàn, hội hè đình đám, biểu tượng khát vọng của tự do, ca ngợi đức tính của đoàn kết, chung thuỷ vẫn cuốn hút nhiều người, nhiều nơi ở mọi lứa tuổi.
20. Trò chơi: ĐÁNH ROI MÚA MỌC
Roi bằng tre vót nhẵn và dẻo, đầu bịt vải đỏ, còn mộc đan bằng tre sơn đỏ. Các đấu thủ đấu tay đôi với nhau: vừa dùng roi để đánh, dùng mộc để đỡ, ai đánh trúng địch thủ vào chỗ hiểm và đánh trúng nhiều thì thắng, thường đánh trúng vào vai và sườn mới được nhiều điểm.
Các hội lễ ở miền Bắc thường được tổ chức thi đấu vào những ngày đầu tháng giêng.
Trong các ngày hội, các làng thôn thường trồng một vài cây đu ở giữa thửa ruộng gần đình để trai gái lên đu với nhau.
Cây đu được trồng bởi bốn, sáu hay tám cây tre dài vững chắc để chịu đựng được sức nặng của hai người cùng với lực đẩy quán tính. Hai cây tre làm cần đu nhỏ vừa tay cầm.Lên đu có thể là một hay hai người. Càng nhún mạnh, đu càng lên cao, cần đu đưa lên vun vút, bên nọ sang bên kia. Cần đu lên ngang với ngọn đu là hay nhất, nhiều khi đu bay ngang ngọn đu một vòng.Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang ngọn đu để người đu giật giải. Nhún đu cũng là một sinh hoạt giao đãi tình cảm của trai gái.
22. Trò chơi: KÉO CO
Tục kéo co ở mỗi nơi có những lối chơi khác nhau, nhưng bao giờ số người chơi cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức mạnh để kéo cho được bên kia ngã về phía mình.
Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong trường hợp bên nam bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa chồng.
Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây tre hoặc cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy dây thừng để kéo. Một vị chức sắc hay bô lão cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai bên ra sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân làng cổ vũ hai bên bằng tiếng “dô ta”, “cố lên”.
Có nơi người ta lấy tay người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng đầu hai bên nắm lấy tay nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo. Đang giữa cuộc, một người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo ba keo, bên nào thắng liền ba keo là bên ấy được.
23. Trò chơi: ĐẤU VẬT
Đấu vật rất phổ biến ở nhiều hội xuân miền Bắc và miền Trung. Trong hội làng Mai Động (Hà Nội) có thi vật ở ngay trước bãi đình làng. Các đô vật ở các nơi kéo về dự giải rất đông. Làng treo giải vật gồm nhất, nhì, ba và nhiều giải khác.
Trong lúc vật, các đô vật cởi trần và chỉ đóng một cái khố cho kín hạ bộ. Cởi trần cốt để đôi bên không thể nắm áo, nắm quần nhau gây lợi thế cho mình được. Khố các đô vật phần nhiều bằng lụa, nhiều màu. Trước khi vào vật, hai đô vật lễ vọng vào trong đình.
Cuộc thi bắt đầu, các đô vật lên lễ đài. Sau một hồi khua chân múa tay để rình miếng nhau, họ mới xông vào ôm lấy nhau. Họ lừa nhau, dùng những miếng để vật ngửa địch thủ. Với miếng võ nằm bò, có tay đô vật nằm lì mặc cho địch thủ đẩy mình, rồi bất thần họ nhỏm đứng dậy để phản công.
Thường thì giải ba được vật trước, rồi đến giải nhì và sau cùng là giải nhất. Mỗi một giải vật xong, người chúng giải được làng đốt mựng một bánh pháo.
24. Trò chơi: VẬT CÙ
Trò vật cù: trên một khoảng sân, thường có khoảng 14 thanh niên trai tráng chia hai bên cởi trần, đóng khố, tìm cách lừa nhau để ôm cho được quả bóng bằng củ chuối gọt nhẵn chạy về bỏ vào chuồng (lỗ nhỏ được đào theo hình vuông hoặc tròn, gần như là vừa khít với quả cù) đối phương thì là thắng cuộc.
Quả cù được làm từ gốc chuối, đặc biệt thích hợp là gốc chuối hột loại lớn, đào lên lấy củ. Dùng dao sắc đẽo củ chuối thành hình tròn có đường kính cữ 30cm, trọng lượng 5 – 7kg là có quả cù đảm bảo yêu cầu. Quả cù phải sạch nhựa và có độ dẽo cần thiết, bởi nó thường xuyên bị giành giật, quăng ném mạnh dễ vỡ trong khi chơi. Vì vậy, quả cù sau khi lược đẽo xong, được luộc qua nước sôi, vớt ra phơi nắng khá kỹ. Lúc này quả cù có màu sẫm và rất dẽo, không bị nứt vỡ khi chơi. Sân chơi cù thường là những sân cát bên bờ sông hay trong làng, chiều dài độ 50m, ngang độ 25m. Có ba hình thức chơi cù: cù gôn, cù đẩy và củ nước. Cả ba lối chơi này đều có chung hình thức tính điểm và bố trí giống nhau, ở hai đầu sân của mỗi bên là hai chiếc sọt đan bằng nan tre, nứa cao 1,5m, đường kính 50cm (cù gôn, cù nước), hay đào một hố sâu rộng 50 x 50cm (cù đẩy). Bên nào giành và đưa được cù vào sọt (hay vào hố) của đối phương được một điểm. Để đưa được quả cù vào đích cũng không phải dễ dàng gì bởi phải giành giật, tranh cướp quyết liệt, bên nào cũng tìm mọi cách nhằm cản phá đối phương đưa cù vào sọt (hố) của mình. Hội vật cù vì thế rất sôi nổi, hào hứng, cuốn hút mọi người.
Mỗi cuộc chơi không qui định cụ thể, số người tham gia mỗi bên cũng không hạn chế. Có khi hội vật cù lên đến đỉnh điểm, đàn ông trai tráng trong làng đều hăng hái vào cuộc không kể tuổi tác, lúc ấy thường là vào dịp Tết Nguyên đán. Người tham gia vật cù đều cởi trần đóng khố. Đề phân biệt người của hai đội, ban tổ chức qui định rnàu sắc của khố hay dải khăn màu vấn trên đầu. Tuy từ xưa không có một điều luật cụ thể, nhưng trong hội vật cù không hề có lối chơi thô bạo, ác ý. Rất quyết liệt nhưng cũng rất trong sáng. Kết thúc cuộc chơi, đội nào có số lần đưa cù vào đích của đối phương nhiều hơn là đội thắng. Giải thưởng chỉ mang tính tượng trưng, danh dự. Ở hội cù, người các làng xem và cổ vũ rất đông, hò reo, đánh trống chiêng cuồng nhiệt cổ vũ cho đội nhà và tán thưởng những đường chạy cù ngoạn mục…
25. Trò chơi: BỊT MẮT BẮT DÊ
Trẽ con từ 6 đến 15 tuổi hay chơi trò bịt mắt bắt dê. Một người xung phong để mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn thấy, những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt.
Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại” thì tất cả mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người thì cố tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp.
Có ai đó muốn ra chơi cùng thì phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt lúc này được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì xem ai thắng.
26. Trò chơi: KÉO CƯA LỪA XẼ
Hai người ngồi đối diện nhau, cầm chặt tay nhau. Vừa hát vừa kéo tay và đẩy qua đẩy trông như đang cưa một khúc gỗ ở giữa hai người.
Mỗi lần hát một từ thì lại đẩy hoặc kéo về một lần. Bài hát có thể là:
Kéo cưa lừa xẽ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
Hoặc:
Kéo cưa lừa xẽ
Làm ít ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất của
Lấy gì mà kéo
27. Trò chơi: CƯỚP CẦU
Trò tung cầu, cướp cầu là một trò chơi mang tính nghi lễ (hoặc phong tục) mang tính bắt buộc ở nhiều lễ hội. Tuỳ từng địa phương có quy định, cách chơi hay tên gọi khác nhau.
Đây cũng là một hoạt động tín ngưỡng trong nghi thức cầu mùa của cư dân nông nghiệp, tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên.
Quả cầu bằng gỗ tròn, có khi là quả bưởi hay quả dừa (đối với những địa phương có tục cướp cầu nước). Tuỳ địa phương có cầu to hay nhỏ. Trước khi đưa cầu ra cướp phải qua nghi lễ trình Thánh.
Sau khi thực hiện xong các nghi thức tế lễ, quả cầu được tung ra sân đình. Hai nhóm thanh niên đại diện cho hai nhóm cộng đồng, tất cả đều mình trần đóng khố khác màu. Cuộc tranh cướp diễn ra rất quyết liệt. Bên ngoài trống thúc liên hồi, tiếng hò reo cổ vũ náo nhiệt cả sân đình. Nhiều người bị trượt chân ngã, người thì nhanh nhẹn bật lên đón bắt rồi chuyền ngay cho người khác… cuộc chơi rất sôi động.
Một bên cuớp cầu để ném vào một cái hố đào sẵn bên hướng đông, nhóm bên kia cướp cầu để ném vào hố hướng tây. Bên nào cướp được cầu và ném vào hố của bên kia nhiều lần là bên thắng cuộc. Cũng có nơi cầu được ném vào một hố ở giữa sân đình hay ném vào một cái giỏ không đáy treo trên cây, bên nào ném vào giỏ của bên kia trước thì bên đó thắng cuộc. Có nơi quy ước bên nào ném vào giỏ của bên mình trước thì bên đó thắng cuộc.
28. Trò chơi: KÉO CHỮ
Trò chơi kéo chữ phát triển ở vùng Hoa Lư, Tam Điệp (Ninh Bình). Một đội kéo chữ có 32 con trai dưới 15 tuổi mặc quần xanh, áo trắng có nẹp đỏ, chân quấn xà cạp, tay cầm gậy dài 1,2m cuốn giấy màu và ở trên đầu gậy có gù sặc sỡ.
Tất cả được chia làm hai dẫy, mỗi dẫy có một người cầm đầu (tổng cờ tiền) và một người đứng cuối (tổng cờ hậu). Tổng cờ phải chọn những người có mặt mũi khôi ngô, mặc quần trắng, áo the đầu đội khăn xếp, thắt lưng ba múi, tay cầm cờ thần vuông.
Vào cuộc kéo chữ, theo tiếng trống của người tiểu cảnh, hai cánh quân dàn ra dưới sự hướng dẫn của các tổng cờ để xếp thành các chữ khác nhau. Các tổng cờ vừa dẫn quân vừa múa hát, làm cho không khí rất sôi nổi và náo nhiệt. Đội quân theo tổng cờ chạy theo hình xoáy ốc với những động tác phức tạp, lần lượt các chữ được hiện ra (chữ Hán hoặc Nôm) “Thái bình”, “Thiên phúc”, “Xuân hoà khả lạc”, “Quốc thái dân an”…
29. Trò chơi: ĐUA THUYỀN
Từ xa xưa ở Việt Nam đã có đua thuyền. Đua thuyền ở nhiều nơi không phải là trò thi tài mà là hành vi thực hiện một nghi lễ với thuỷ thần, xuất phát từ tục cầu nước của cư dân nông nghiệp – tín ngưỡng phồn thực.
Có nơi cuộc thi chỉ có hai thuyền (Đào Xá – Phú Thọ), một chải “đực” mang hình chim ở mũi thuyền, chải kia là “cái” mang hình cá. Hai biểu tượng đối ứng giao hoà âm – dương (chim trên cao, dương – cá dưới nước, âm); khô – ướt (thuyền và nước); thuyền trôi, mái chèo khuấy nước nhằm “đánh thức thuỷ thần” và cuộc đua ấy chỉ thực hiện vào ban đêm, đến dạng sáng thì kết thúc. Cuộc đua thuyền của cư dân miền biển thì lại mang ý nghĩa cầu ngư. Có địa phương tổ chức đua thuyền để tưởng niệm các anh hùng giỏi về thủy chiến…
Ngày nay, đua thuyền là một nội dung quan trọng trong chương trình của rất nhiều lễ hội từ Bắc chí Nam, nhất là các địa phương có sông hồ hoặc gần biển. Cuộc đua thuyền hiện nay ở nhiều địa phương không đơn thuần là một hoạt động tín ngưỡng như bưổi ban đầu mà đã trở thành sự kiện thể thao hấp dẫn có quy mô lớn, thu hút nhiều đối tượng tham gia. Đua thuyền đã có thêm sứ mệnh của cuộc thi tài và biểu dương sức mạnh tập thể.
30. Trò chơi: CHƠI HÓP
Chơi hóp là một trong những trò chơi trong dân gian Ninh Hòa mà tôi xin ghi lại để cống hiến quý bạn đồng hương ít nhiều đã có một thời trải qua trong thời niên thiếu tại quê hương mến yêu.
Để bắt đầu trò chơi, tùy theo cách chia bắt cặp hoặc chơi lẽ từng người, bao nhiêu người chơi cũng được, ăn thua hoặc bằng tiền, hoặc hình, hoặc bịch thuốc lá…v..v…, tùy theo điều kiện và giao kèo sẵn có.
Cách chơi:
Vẽ một hình chữ nhật, dài rộng tùy thích không cần kích thước. Chúng ta cần một cục gạch thẽ nguyên và nửa cục gạch thẽ khác được kê sát và nằm giữa lằn mức của cạnh (hay một đầu) của hình chữ nhật. Hai cục gạch này được cấu trúc sao cho nửa cục gạch dựng đứng (điểm tựa) và cục gạch nguyên vẹn được gát lên đầu tựa của nửa cục gạch kia. Như vậy, chúng ta có đuôi của cục gạch nguyên chạm mặt đất, đầu đưa lên trời, chính giữa tựa trên đầu của “nửa cục gạch” kia tạo thành một mặt dốc để khởi động vận chuyển tròn của đồng tiền cắc (hòn chì). Đến đây, chúng ta có mái xuôi (mặt dốc) giống hình của một đòn bẫy.
Tiếp tục thiết bị, chúng ta gạch một đường thẳng kể từ đường giao tuyến của mặt dốc (của cục gạch nguyên) và mặt đất (mái xuôi) dài khoảng 5 tấc và cứ cách 1 tấc gạch 1 lằn mức ngang dành cho những người bị hóp mang đồng tiền cắc (hòn chì) lên đặt ở mức ngang đó: “có thể bị hóp 1,2,3 ..v..v..”
Trước khi chơi, người chơi thi tranh đua để đi sau cùng bằng cách dùng đồng bạc cắc hoặc viên ngói bể được đập và mài tròn đến khi có diện tích (kích thước) bằng (hay vừa) đồng tiền mà người chơi gọi là hòn chì dùng để thi đua tranh giành phần thắng. Người chơi cầm hòn chì thẳng đứng khảy (khởi động chạy tròn) mạnh nhẹ tùy ý xuống dốc xuôi của cục gạch, sao cho hòn chì chạy và ngã dừng gần mức càng tốt, cán mức thì càng tốt hơn. Như vậy, người chơi có thể tranh giành đi sau cùng nhưng đừng để hòn chì lăn ra khỏi mức thì thua.
Thi xong người chơi đi theo thứ tự, nghĩa là người nào khảy hòn chì chạy ra ngoài mức đi trước, xa mức đi kế và gần mức đi sau cùng… Người thua cuộc thì được đi đầu tiên, khảy hòn chì xuống viên gạch (mặt xuôi) để cho nó lăn xuống mức dưới; phiên người kế tiếp cố gắng khảy hòn chì, chạy xa hơn người đi trước thì tốt, cứ như thế chúng ta thay phiên lần lượt đi, cố gắng đi xa hơn mấy người trước, đừng để hòn chì chạy ra khỏi mức phía trước gọi là hóp, có khi bị hóp 2,3,4 ..v…v…
Khi chơi người chơi bắt bồ và tìm cách cứu bồ. Khi hòn chì của bạn khảy thua phe khác, ta có quyền xê dịch viên gạch xéo qua góc này hoặc góc khác với mục đích là để khảy hòn chì không theo đường thẳng chính diện (trực chỉ song song với hai cạnh bên của hình chữ nhật) mà chạy xéo góc hơn bạn mình, thua người bắt bạn mình, như vậy gọi là “xỉa tiền”.
Người thắng cuộc thi đi sau cùng, xem xét kỹ cách bắt những hòn chì của người đi trước, nếu khảy xa hơn để bắt được thì tốt và được đi sau cùng bàn kế tiếp, bằng không thì khảy nhẹ hòn chì để bắt những người bị hóp, xong cứ thứ tự người nào gần mức đầu dưới thì chố người thua mình ở phía trên.
* Luật chơi:
Người thắng cuộc cầm hòn chì lên trên tay rồi gạch lằn mức ngay tâm hòn chì nằm (tức là vị trí của hòn chì năm trước khi được lượm lên tay). Người thắng cuộc có hai chân đứng ngay lằn mức gạch làm điểm với tay cầm hòn chì cố gắng chố sao cho hòn chì của mình trúng hòn chì của người thua. Nếu trúng chố tiếp người kế, nếu chố trật không được quyền chố nữa mà nhường người chơi kế tiếp để chố những người thua. Nếu trúng khá nhiều, những người thua chung tiền, hoặc chung hình, hoặc chung bịch thuốc lá…, tùy theo giao kèo trước khi chơi.
Xong bàn này chúng ta tiếp tục chơi bàn khác và đi theo thứ tự khỏi cần thi lại, người thắng cuộc đi sau cùng.
Khi có sẵn hai dụng cụ trên, chúng tôi đào một lỗ dài hơn 2 tấc, chiều sâu không tính miễn sao để đầu mào nằm gọn vào lỗ là được rồi, gạch phía trước lỗ một đường mức khoảng cách 6 hoặc 7 thước. Sáp vào trận hai nhóm bắt đầu khắc tính điểm, bên nào khắc điểm nhiều thì đi trước. Cách chơi bắt đầu, nhóm thua ra đứng phía trước lằn mức, nhóm ăn ở trong và bắt đầu chơi. Trước khi chơi hai bên giao kèo đánh được bao nhiêu điểm thì thắng . Thường thì chơi đánh trên 100 điểm mới thắng.
1/ Phần dích đầu trỏng: đặt đầu trỏng ngắn nằm ngang trên miệng lỗ và lấy cây dài dích sao cho đầu trỏng ngắn bay ra khỏi mức, đừng để cho bên đối phương chận lại hay bắt được đầu trỏng là người đó chết, dích đầu trỏng bay cũng là một nghệ thuật, mắt nhìn liếc đối phương đứng chỗ nào trống hoặc phải dích xa hay cao để đầu trỏng bay cao, khi bên đối phương bắt không được thì người dích đặt cây trỏng dài nằm ngang trên lỗ, để cho đối phương lượm đầu trỏng ngắn nằm ở đâu thì từ chỗ đó chố vào, nếu trúng cây trỏng dài thì người đó chết ” cứ như vậy nếu chết tiếp tục thì thay thế người khác đi”.
2/ Phần ne đầu trỏng nhỏ: Đến phần ne đầu trỏng, người ăn thường đứng sát mức, tay cầm trỏng dài để đầu trỏng ngắn nằm ngang dựa vào cùm tay, bắt đầu hất đầu trỏng ngắn tưng lên rồi khắc, liếc mắt nhìn những người thua đứng hàng mức bên ngoài đánh đầu trỏng ngắn thật mạnh ra ngoài để bên thua đừng bắt được. Khi đầu trỏng rớt xuống đất, bên thua lượm và chố vào đừng cho người bên trúng đón đánh được đầu trỏng ngắn bay ra ngoài, thì bắt đầu tính được điểm rồi . Phần tính điểm ở đây tính vào phần khắc ở trên, khắc bao nhiều cái tính bao nhiêu điểm.
3/ Chặt đầu mào: Đặt đầu mào nằm xuôi xuống lỗ sao để một đầu chỏng lên, khi chặt đầu mào đầu trỏng ngắn bay lên, đón đầu trỏng ngắn rơi xuống rồi khắc bao nhiêu cái thì tính bao nhiêu điểm, nên đánh ra ngoài mức để sao cho đối phương đánh bắt không được thì mới tính điểm.
4/ Phần Âm u: Bên nào đánh thắng trước điểm đã giao kèo thì âm u bên thua, tùy theo chơi để bắt cặp người ăn, người thua âm u, bên ăn bắt đầu khắc bao nhiêu cái thì nhảy bao nhiêu bước khi âm u, người ăn một tay cầm cây trỏng dài dựa vào cùm tay tưng lên rồi ne thật mạnh cho đầu trỏng ngắn bay đi thật xa, rồi rơi xuống đất người thua lượm đầu trỏng ngắn cầm trên tay, người ăn bắt đầu nhảy bắt đầu từ vị trí đầu trỏng ngắn rớt xuống, nhảy bao nhiêu bước, từ điểm khắc bao nhiêu cái ở trên. Khi nhảy xong rồi đặt cây trỏng dài xuống để cho người thua chố, nếu chố trúng cây trỏng dài, thì người thua u một hơi dài về lỗ, người ăn chạy theo sau cầm cây trỏng dài đợi khi người thua tắt hơi để đánh người thua, rồi tiếp tục cặp khác âm u. Xong hết rồi hai nhóm chơi khắc lại, tiếp tục chơi tiếp.
32. Trò chơi: NHẢY CHỒNG CAO
Nhiều hay ít người chơi cũng được, chia làm hai phe.
Người cầm đầu trong toán chơi gọi là mẹ, người làm mẹ chơi hay và cao lớn nhất trong toán, người mẹ đi trước hoặc nhảy đầu tiên.
Bắt đầu chơi, hai bên bao tiếng xùm bên nào thắng đi trước.
Cách chơi như sau:
Bên thua hai người ngồi đối diện nhau, một người ngay một cẳng ra phía trước, bàn chân thẳng đứng gót chân chạm đất là canh một
Bên ăn nhảy qua canh một, người làm mẹ nhảy qua trước và đọc “đi canh một”, tất cả tụi con nhảy theo và lập lại câu “đi canh một” và vòng nhảy về cũng vậy, người cầm đầu cũng nhảy trước và đọc “về canh một” tụi con cũng nhảy qua sau và làm theo được hết rồi cứ như thế bên thua chồng cẳng lên canh 2, ngồi đối diện gác cẳng lên hàng tiếp tục lên canh 3 và canh 4, cứ như thế mà nhảy qua nhảy lại trong lúc miệng đọc đi hết canh này đến canh kia. Những canh cao như canh tư, tùy theo luật lệ chơi giao kèo trước, những đứa nhỏ không nhảy được cao, thì nhảy qua chỗ thấp thì sống, còn nếu không cho nhảy qua chổ thấp nhảy đụng chân thì chết ngồi đó chờ hết bàn chơi tiếp.
Một lượt nhảy qua nhảy lại xong rồi canh bốn, thì tới canh búp.
Khi làm canh tư, hai đứa ngồi làm chồng những bàn chân lên nhau gót chân chạm đầu ngón chân thành một tháp cao thẳng đứng tới lượt canh búp, canh nở, canh tàn, sau cùng là tới canh gươm, những canh trên chồng lên cao của ngón chân trên hết, giao kèo chơi chỉ được để cổ tay chạm ngón chân cái làm bàn tay búp, nở, tàn, gươm (nhiều bạn cũng ma giáo khi nhảy qua không để ý lú tay lên cho đụng người mẹ là chết cả đám). Những người con nhảy qua không được, có quyền nhảy qua chổ thấp nếu bên kia đồng ý.
– Sau cùng, là đi qua sông nhỏ, sông lớn là xong, hai người làm canh qua sông nhỏ bốn bàn chân chạm vào nhau bẹt ra hơi nhỏ để người đi bước vào cũng nói “đi canh nhỏ về canh nhỏ”. Vậy là xong canh nhỏ. Canh lớn hai người làm dang chân rộng ra để bên đi bước vào mà đi canh lớn, đi canh lớn là sắp hết trò chơi, toán đi bước qua và đọc “qua sông lớn về sông lớn”. Khi về sông lớn hai người làm đưa tay lên cho người mẹ nắm và bắt đầu nói về sông lớn thì tất cả vụt chạy như rượt bắt, mấy đứa con thì lo chạy trước. Khi bắt được đứa nào thì đứa đó chết, bắt được hết thì xả bàn làm lại, hai bên tiếp tục bao tiếng xùm, bên nào thua thì làm.
Nói tóm lại, đó là trò chơi dân gian vui nhất đối với trẽ thơ.
***Canh búp, nở, tàn, gươm: điển hình là một nụ hoa, dùng bàn tay để trên canh tư
*Canh búp: dùng bàn tay chụm lại
*Canh nở: dùng bàn tay chụm, nhưng để hé miệng
*Canh tàn: xòe cả lòng bàn tay
*Canh gươm: để một ngón tay thẳng đứng
33. Trò chơi: KỂ CHUYỆN
Sự Tích Bưởi Năm Roi
Một buổi trưa hè nắng gay gắt, Ông Năm đang ngon giấc trong giấc ngủ trưa, chợt nghe tiếng chó sủa vang. Ông cầm ngay cây gậy để bên cạnh chiếc ghế bố ông thường nằm nghỉ trưa và đi thật nhanh đến nơi có tiếng chó sủa trong khu vườn sau nhà, một vườn cây ăn trái đang được mùa và những cây bưởi nhà ông có tiếng là ngọt lịm.
Thằng Được cùng lũ bạn trong xóm leo rào vào và nó đang trèo trên cây bưởi, còn lũ bạn chừng 5 đứa đang trong tư thế chờ chực những quả bưởi rơi xuống từ tay thằng Được. Tiếng chó sủa làm cả đám trẽ hú hồn, thoáng thấy bóng dáng ông Năm cầm cây gậy lũ trẽ ba hồn chín vía mỗi đứa một hướng tìm đường tẩu thoát, chỉ còn thằng Được là đang lơ lửng trên cây không tuột xuống kịp. Ông Năm la lớn:
– Thằng nhỏ mày xuống đây mau!
Thằng Được leo xuống trong gương mặt tái xanh vì bị bắt quả tang, Nó lí nhí:
– Dạ, ông tha cho con
-Tại sao hái trộm?
-Dạ, tại con thích ăn Bưởi của Ông
-À, vậy là hái trộm, tội này đáng đánh đòn.
Thằng nhỏ khóc hu hu và xin ông tha tội, nhưng ông không tha, ông quát:
-Mày muốn mấy roi?
Thằng bé chỉ biết khóc và im lặng với nét mặt sợ sệt, ông nói lớn:
-Tội ăn trộm, vậy ông đánh mày năm roi.
Thế là từ đó có tên Bưởi Năm Roi.
34. Trò chơi: OẲN TÙ TÌ
Trong các trò chơi dân gian khi chỉ có 2 người, để biết được một trong hai người ai là người được ưu tiên thì với trò Sình Sầm dễ phân biệt trước sau. Những vật dụng được thể hiện qua bàn tay :
– Cái Búa: nắm các ngón tay lại như quả đấm
– Cái Kéo: nắm 3 ngón tay gồm có ngón cái, ngón áp út, và ngón út lại, và xèo 2 ngón tay còn lại (ngón trỏ, ngón giữa) ta có hình cái Kéo
– Cái Bao: xòe cả 5 ngón tay ra .
Luật chơi: Cái Búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao, cái bao thì chùm được cái búa
Khi cả hai cùng đọc: “Uýnh Sình Sầm mày ra cái gì? tao ra cái này”, trong khi bàn tay được dấu sau lưng và khi dứt câu thì đưa tay ra cùng một lúc không được trước sau với dấu hiệu tùy vào mỗi bên, như thế ta biết được bên nào thắng bên nào thua theo luật định, khi hai bên ra cùng một dấu hiệu thì được sình sầm lại.
35. Trò chơi: RỒNG RẮN LÊN MÂY
Rồng rắn lên mây
Có cây thuốc Bắc
Có ông thầy ở nhà không?
Một số người chơi rồng rắn, nối đuôi nhau bằng cách người đứng sau hai tay ôm ngang hông người đứng trước, cứ thế xếp thành hàng dài tùy theo số người chơi, hình thù như một con rắn dài có mắt khúc.
Người đứng đầu làm đầu rắn, người đứng cuối làm đuôi rắn, giữa là thân rắn và một người làm ông thầy thuốc Bắc ngồi đối diện với con rắn. Khi con rắn (đoàn người nối đuôi nhau) cùng thưa với ông thầy bài tấu trên, Ông thầy không đồng ý thì con rắn sẽ đi vài vòng rồi quay lại tâu tiếp để xin ông thầy cho thuốc.
Sau nhiều lần từ chối, ông thầy đồng ý thì ông sẽ đứng lên để tìm cách bắt lấy được đuôi của con rắn ông mới cho thuốc. Tình trạng con rắn lúc đó phải cố tránh né để ông thầy không bắt được đuôi nên cố sức che chắn không cho ông thầy tiến về phía sau, và cùng nhau hò hét với bài hát:
“mạnh thầy thầy bắt được thầy ăn, mạnh rắn rắn bắt được rắn cắn”.
Thế là cả đoàn người nối đuôi nhau phải lượn qua lượn lại (chạy qua, chạy lại) theo đầu con rắn. Cả đám người cứ thế cố né tránh, ông thầy một mình nhanh chân hơn và dễ chạy hơn, nên con rắn một lúc lâu thấm mệt và thật khó giữ được sự ngay hàng như lúc đầu nên cũng sẽ bị đứt ra nhiều đoạn, thế là đầu con rắn không còn điều khiển cho phần đuôi nữa. Vậy là ông thầy bắt được cái đuôi rắn dễ dàng.
Trò chơi vui khi phải chạy lượn qua lại tránh thầy thuốc Bắc. Chỉ có vậy thôi nhưng với đám trẽ nhỏ trong những đêm sáng trăng ở quê nhà, với ánh sáng không tỏ tranh sáng tranh tối, thật là một trò chơi vui đùa thú vị.
36. Trò chơi: CÚNG THÍ THỰC CÔ HỒN
Tôi còn nhớ rõ lắm cách đây trên 30 năm, gia đình tôi sống tại một vùng quê nhỏ nhưng đầy ấp tình người, người dân quê vẫn luôn giữ được tập tục tốt đẹp: Ngày Lễ Vu Lan Rằm tháng 7 âm lịch, tức là ngày cúng Cửu huyền thất tổ, đồng thời là ngày cúng “Cô hồn các đảng” không nơi nương tựa. Việc cúng cô hồn không ai bảo ai nhà nhà đều lập bàn thờ cúng thí với lòng thành và ý thức rằng những oan hồn sống lây lất phiêu bạc nơi gò đồng, núi rừng, đói rách tả tơi, lang thang đây đó, không ai đơm quẩy thì ta nên nghĩ tưởng nhớ đến họ mà tội nghiệp, nếu không trong tâm họ sẽ cảm thấy bức rức trong lòng.
Vào mỗi đêm trong tuần tháng 7, bất kể kẽ giàu người nghèo, mọi người đều thiết lễ cúng cô hồn tùy theo khả năng, hoàn cảnh của mình, có gì cúng nấy. Lễ cúng được bày giữa sân nhà hoặc trước cửa nhà, trên hết là một bàn cúng hương hoa quả, chè xôi bánh trái, nhất là phải có một bát cháo trắng, một đĩa nhỏ gạo muối và một nia để bày bánh trái với dụng ý cúng cho cô hồn non trẽ gồm: kẹo, bánh, mía cắt khúc, khoai lang, khoai mì, đậu phộng, cốc, ổi…và những đồng tiền cắc.
Gia chủ đem cả lòng thành kính dâng cúng, không phải để cầu cho gia đình một điều gì, mà chỉ mong cô hồn các đảng được no đủ. Khi các vật phẩm dâng cúng được bày đầy đủ, gia chủ đốt hương khấn vái mời thỉnh các vong hồn về dự lễ.
Cứ vào đầu xóm, khi các gia chủ đang cúng thí thì xuất hiện từng tốp trẽ con kéo đến từng nhà, ngồi đứng quanh đó. Lúc gia chủ vừa đốt giấy tiền vàng bạc và rãi muối gạo coi như lễ cúng xong. Không ai bảo ai, nhóm trẽ ùa vào chụp nia, được gì lấy nấy, gây nên tiếng la hét cười cợt vui nhộn. Họ lần lượt từ nhà này đến nhà khác để “chụp nia”, người ta thường gọi nhóm này là “Cô hồn sống”. Gia chủ cũng cảm thấy hả hê trong lòng.
Qua lễ chúng ta nhận thấy một hình ảnh sống động, mang ý nghĩ “từ bi bố thí”, tạo nên một tập tục tốt đẹp, người chết được ấm lòng nương theo phép Phật siêu âm nơi miền lạc quốc, người sống được cởi mở tấm lòng, thực hiện pháp bố thí cho hàm linh an lạc. Ngày nay lễ cúng này cũng chỉ còn một số ít, hình ảnh “chụp nia” cũng không còn nhiều, và truyền thống tốt đẹp ấy đã dần dần đi vào dĩ vãng.
Đối với nhà Phật thì lễ cúng thí cô hồn được thực hiện trong dịp Rằm đến 30 tháng bảy âm lịch.
37. Trò chơi: ĐÁNH BANH THẼ
Gồm 10 cây đũa tre với 1 trái banh lông nhỏ thường dùng để đánh Tennis, nếu không có banh có thể thay banh bằng một trái chanh. Dùng banh thì có độ phản hồi của trái banh dễ đánh hơn dùng quả chanh, chỉ thảy lên và chụp lại ngay. Số người đánh thẽ gồm 2 người, ngồi đối diện nhau trên nền nhà.
Thi để lấy quyền đánh trước:
Cách thứ nhất: Dùng 3 cây thẽ nắm ngay chính giữa xoay tròn rồi thả nhẹ xuống nền nhà, để 3 cây thẽ có thể tạo thành một hình tam giác và dùng một cây thẽ khác chấm đầu thẽ vào hình tam giác đó, cố gắng sao cho đầu đũa không đụng vào thẽ, thế là người chơi đã ghi được một điểm. Cả hai bên cùng tiếp tục như thế đến 3 lần, và nếu bên nào đã tạo ra được 3 hình tam giác thì được quyền đi trước.
Cách thứ nhì: Bao tiếng sùm (Oẳn Tù Tì) xem ai được quyền ưu tiên đi trước, xem bài đã viết trước.
1.Cách đánh thẽ: Người đánh thẽ rải đều 10 cây thẽ xuống nền nhà, cố gắng bằng cách không để thẽ chồng lên nhau cho dễ lấy từng đôi thẽ một, vừa tung trái banh lên thì tay cầm banh phải nhanh tay nhặt từng đôi gồm 2 thẽ, khi trái banh rớt xuống nền nhà và tung lên, tay phải bắt kịp trái banh không để rơi xuống đất lần nữa, và cứ thế cho hết số thẽ, làm 5 lần như vậy và không được sang tay bên kia.
2.Đến canh chụm: Bên đối phương dùng tay chụm 10 cây đũa thẽ vào một nhúm, người chơi thảy banh lên trong cùng một bên tay, lấy số thẽ làm sao để chừa lại số thẽ còn lại 2 thẽ, thì cuộc chơi tiếp tục dễ dàng hơn vì nếu chừa nhiều thì khi đánh đến các vòng kế tiếp cuộc chơi sẽ tính tùy vào số thẽ chừa lại trong canh chụm.
3.Kế tiếp là canh quyét: Cầm bó thẽ trong tay ngay đầu thẽ rồi thảy banh lên trong khi trái banh đang ở độ cao thì người chơi cầm bó thẽ quét như cầm chổi quét nhà vậy, quét qua, quét lại liền, điều này liên quan đến số thẽ chừa lại ở canh chụm (2 thẽ),(các cách chơi còn lại cũng tùy thuộc vào số thẽ còn dư lại trong canh chụm) và chụp ngay trái banh khi banh rơi xuống và đã tung lên mặt đất. Tiếp tục 5 lần như thế để đủ.
4.Canh chuyền: Cầm chặt bó thẽ để ngang người thảy banh lên trong khi banh đang ở độ cao thì người chơi xoay tròn 2 vòng bó thẽ và chụp cho kịp trái banh như những lần trước khi banh rơi xuống và được tung lên.. Tiếp tục cho hết 5 lần.
5.Canh giã: Cầm giữa bó thẽ, trái banh được tung lên cao và kịp dộng đứng bó thẽ xuống nền nhà 2 lần, tiếp tục không ngừng và đếm 2,4,6,8,10 cho kịp bắt được trái banh. Thế là kết thúc cuộc chơi.
Hơn thua nhau khi chơi banh thẽ: nếu người chơi không bắt kịp trái banh để banh rơi ra ngoài và khi bắt thẽ không đủ số hoặc dư so với số thẽ còn dư lại trong canh chụm quyết định. Người đánh thẽ giỏi có thể chừa 4 cây thẽ trong canh chụm để khi đánh các canh thẽ tiếp tục phải đánh 4 lần thay vì 2 lần trong cách chơi thẽ nói trên. Chơi khó vì khi vừa thảy banh và vừa nhặt thẽ hay đánh thẽ mà phải điều khiển cả tay và mắt nhìn. Bên nào hư thì đưa cho bên kia bắt đầu cuôc chơi.
6.Cách phạt: Bên thắng sẽ dùng cả bó thẽ nắm trong tay gõ vào chân họăc tay đối phương với số lượng đánh phạt tùy vào sự giao hẹn trước khi chơi, trong khi đó trái banh cũng được tung lên nhịp nhàng theo mỗi lần đánh phạt.
38. Trò chơi: CHẮC MÚA LÚA HẾT BỒ
Vừa đọc được bài viết của chị Văn Thu “Đánh banh chuyền” mà người Ninh Hòa mình còn gọi là “Chơi chắc múa” làm tôi sực nhớ lại câu thơ :
“Chơi chắc múa lúa hết bồ”.
Tôi cũng không rõ câu thơ này đã bắt nguồn từ đâu, thế nhưng các bà mẹ ở Ninh Hòa đã dựa vào câu thơ ấy rồi trở thành mê tín dị đoan.
Hồi nhỏ tôi mê trò “chơi chắc múa” lắm, có khi không rủ được bạn bè, tôi chỉ chơi có một mình thôi. Thường thì tôi và các bạn tôi hay rủ nhau chơi trên thềm xi măng ở mái hiên sau hè; hôm nay thì chơi ở nhà đứa này, ngày mai thì chơi ở nhà đứa kia, vì rất sợ các bà mẹ mỗi lần thấy là mỗi lần chúng tôi bị la rầy. Khi thấy tụi này ngồi tụm năm tụm bảy lại chơi chắc múa thì bà lấy chổi chà lên rượt rồi thét lên:
“Tụi mày cứ thi nhau mà múa đi rồi sẽ không có gạo để mà nấu cơm”.
Bây giờ tôi ngồi ngẫm nghĩ mà “thắc cừ” (mắc cười), làm sao chơi chắc múa mà lúa có thể hết bồ được, ấy vậy mà hồi đó tụi này rất sợ bị đánh đòn cho nên thường đợi cho tới khi mà mẹ của bạn tôi vừa xách giỏ đi chợ là xúm nhau lại chơi liền và khi vừa thấy bóng của bà về là chúng tôi lật đật xả bàn.
Tôi phải đợi con gái của tôi lớn rồi sẽ cùng chơi chắc múa với nó vì tôi nghĩ đó là một trò chơi rất vui và thú vị cho cả người ngồi coi.
39. Trò chơi: HÚ CHUỘT
Chi chi chuột chuột
Hú chuột răng mới về tao răng cũ về mày
Răng tao sao răng mày vậy.
Xưa kia khi chúng tôi còn nhỏ sau mỗi lần được mẹ nhổ răng sữa bị lung lay, mẹ thường dùng sợi chỉ may gập đôi lại cho chắc và quấn vài vòng quanh chân răng rồi giật mạnh ra, thế là xong.
Mẹ thường bắt chúng tôi tự ném cái răng vừa nhổ của mình lên mái nhà ngay lúc đó và hú chuột với những câu ví von như vậy để cho răng mau được mọc lại.
40. Trò chơi: CÔM, CAM HAY KEM
Mỗi địa phương có một cách phát âm riêng thật đặc trưng và dễ thương – Người Ninh Hòa mình hay nói vần am thành vần em, nên mới có câu chuyện này :
Một chị Ninh Hòa đi buôn chuyến tận Đà Nẵng. Ngồi trên xe đò khát nước chị kêu cô bán Cam.
– Ê! bán cho tôi trái “Kem”
Chị bán Cam không trả lời .
– Ê! đem “Kem” lại đây bán. Bộ điếc hả?
– Nhưng tui đâu có bán Kem .
Chị Ninh Hòa bực tức chỉ vào thúng Cam
– Chớ còn cái thúng gì đó mà nói không bán “Kem”?
Như sực hiểu ra, cô Đà Nẵng phân trần :
– Trời ơi! “Côm” mà nói là “Kem” thì làm sao tui biết ngõ mà “bón”.
Những bài hát ví của vị chúa thơ Lau – Slam sáng tạo ra, được nam nữ thanh niên Cao Lan bao đời nay mến mộ và học thuộc, được tập hợp lại thành sách rồi hát cho nhau nghe 36 đêm không hết. Sịnh-ca có nội dung phong phú, tươi sáng ca ngợi tình yêu lứa đôi, ca ngợi tình đoàn kết, tình yêu quê hương, nhân sinh quan của con người trước những hiện tượng thiên nhiên, đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
Người Cao Lan đã hát (tạm dịch):
“Quả ớt dù cay cũng ăn cả vỏ
Quả chuối dù ngọt cũng bỏ vỏ ngoài”.
Và họ tự hào:
“Thơ ca của vị chúa thơ ca làm ra
Hát ba mươi sáu ngày đêm chưa hết”.
“Giọng hát nàng trong như tiếng chim
Nhớ mãi câu hát của nàng
Ngày mưa đội chung nón
Ngày nắng che chung ô…”.
42. Trò chơi: HÁT SOONG
Soọng-cô là dân ca của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Hát Soọng-cô chủ yếu là phần hát đối đáp giao duyên. Sau đó là phần hát trong đám cưới, Soọng-cô được hát theo sách, có bài bản sẵn. Người đi hát phải thuộc sách hát. Họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố. Người đáp cũng nhờ thuộc sách mà trích ra những câu hợp cảnh hợp tình để hát đáp câu hát hỏi.
Mỗi đêm hát đều có các bước: Chập tối hát gọi, mời ngồi xuống chiếu, mời nước mời trầu. Nửa đêm là hát hỏi: Hỏi về quê quán, gia sự, hát thăm dò tìm hiểu nghề nghiệp, ý nguyện của nhau… canh ba chủ nhà mời ăn lót dạ xôi hoặc chè cháo… Sau đó là hát chào, hát xin về, hát níu giữ nhau. Sáng ra thì họ vừa tiễn nhau ra cổng vừa hát hẹn hò cuộc hát tới.
Khi hát không được đùa cợt, không vì phục tại, cảm thông, yêu mà tách ra đưa nhau đi tỏ tình riêng. Nếu ưng nhau, thì tìm gặp nhau sau để rồi lựa tìm ông mai mối (Mu Nhin) mối manh cho mình. Các cặp vợ chồng sau đó coi ông bà Mu Nhin như cha mẹ đẽ, sống tết, chết giỗ. Ông bà Mu Nhin qua đời, cặp vợ chồng phải có một con lợn đến làm ma.
Hát đối đáp hát theo giọng ví, kể lể gọi là hát cộc. Hát đám cưới thường là hát ru. Giọng ru dài ra, nếu một từ hát cộc kể ra rồi bắt ngay sang từ khác nhưng hát ru thì ru đi ru lại ngân nga luyến láy điệp khúc kéo dài gấp dăm bảy lần hát cộc. Soọng – cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp nhau, nhà trai cử hai anh hát, nhà gái cũng cử hai anh. Hát giọng ru thì song ca, hát cộc thì đơn ca. Mở đầu cuộc hát cưới là cặp hát nhà trai hát chào ông bà chủ, chào cô, dì, chú, bác, chào bà con anh em, trước hết là bàn thờ tổ tiên. Khi tốp nhà trai hát, tốp nhà gái hát đáp lại từng câu, từng bài. Khi hai họ ăn uống họ vẫn hát, mừng cho khách ăn uống no say. Hát suốt ngày suốt đêm cho tới khi tan đám cưới.
43. Trò chơi: HỘI VẬT LÀNG HÀ
Vùng chân núi Tam Đảo có nhiều hội vật, nhưng hội vật làng Hà, xã Hồ Sơn, huyện Tam Dương là đông vui nhất vì tất cả các danh đô các hội trong vùng đều hẹn hò về đây tranh tài. Ai đạt vô địch ở hội làng Hà mới thật đáng mặt anh tài thiên hạ.
Hội vật làng Hà tổ chức vào mồng 7 tháng giêng. Ngay từ sáng sớm các cụ làm lễ đình xong, tiếng trống nổi lên mời gọi mọi người khắp nơi về tụ hội. Trên bãi cỏ trước sân đình, bên cây đa cổ thụ lần lượt từng đôi vật ra múa chào các quan khách và nhân dân. Theo hiệu trống của trưởng lão từng đôi vật vờn nhau rồi vào cuộc theo lối vật tự do với cách thách đấu để giữ giải và thách đấu trước bàn dân thiên hạ. Cho nên bất cứ ai đều có thể thi đấu và giật giải. Đây là hình thức thể thao quần chúng, tạo không khí vui vẽ với phong cách biểu diễn nghệ thuật từ “Xe đài” hay “Múa hạc” nhằm chiếm cảm tình người xem trước khi vào cuộc tranh hùng. Đặc biệt là người vào đấu vật không nhất thiết phải đóng khố cởi trần. Vì thế đã có những bậc nữ nhi giả trai vào đấu tranh giải. Hội vật làng Hà càng trở lên hấp dẫn người xem.
Lễ trao giải thưởng cũng thật độc đáo: Một vị cao niên đi trước cầm bó hương, đi sau là cô gái đẹp nhất làng đội mâm xôi có chân giò lợn lớn, một chùm cau và một vò rượu tăm tới nguyên quán nhà vô địch làm lễ gia tiên và kính cáo với dân làng sở tại đã sinh ra 1 người tài làm rạng rỡ truyền thống thượng võ của quê hương. Chỉ những dân tộc có truyền thống thượng võ mới có được ngày hội vui như vậy.
44. Trò chơi: KÉO SONG HƯƠNG CANH
Làng Hương Canh (Bình Xuyên) tổ chức kéo co ở sân đình Ngọc và sân đình Hương. Dựng một cột lim chắc khoẽ ở sân đình có đục lỗ luồn một dây song dài kéo qua.
Bốn đơn vị thi kéo co là làng Hương, làng Tiên, làng Ngọc và thông Đại Đồng. Khi trong đình tế xong thì nổi tiếng trống chiêng để cuộc kéo co bắt đầu.
Mỗi bên cử 25 tráng đinh vào kéo, đầu bịt khăn đỏ, lưng thắt bao đỏ. Bên nào cũng có một người cầm cờ đuôi nheo để chỉ huy. Người cầm chịch ấy còn gọi là “Ông lấy mực”. Do co kéo nhau nên nhiều sợi dây song cọ vào lỗ cọc lim bị nóng bốc khói làm sợi dây bị cháy, đứt đôi, người 2 bên lại ngã bổ ngửa chồng lên nhau.
Mỗi buổi chiều làng thi kéo co 4 hiệp. Cứ sau 30 phút lại nghỉ giải lao. Phần sợi song của mỗi bên tính từ giữa cọc ra 1m có buộc vải màu đánh dấu. Nếu bị đối phương lôi mạnh chỗ đánh dấu chui vào lỗ cọc thì bị thua. Bên thắng được làng thưởng hậu hĩnh bằng gạo, lợn hoặc bò đủ cho trai đinh giáp mình sửa cỗ bàn ăn uống mừng thắng trận.
45. Trò chơi: LEO CẦU ÙM
Trò này có ở Bình Dương (Vĩnh Tường), Xuân Hoà (Lập Thạch), Đạo Đức (Bình Xuyên). Cầu ùm là một cây tre gốc được gác lên bờ ao chôn cọc giữ hai bên cho khỏi lăn, đầu ngọn được đặt trên cọc chéo mà lại leo bằng dây thừng. Khi có
người lên cầu, cầu đung đưa, lủng liểng làm cho cuộc chơi thêm phần khó khăn hơn, nên càng hào hứng sôi động. ở đầu cầu trên ao có cắm cờ hiệu, người chơi leo lên cầu tới đầu cầu có cắm cờ, lấy lá cờ về là được cuộc. Phần nhiều những người dự chơi thường bị ngã “ùm” xuống ao vì thế gọi trò chơi này là trò leo cầu ùm.
46. Trò chơi: TRỐNG QUÂN ĐỨC BÁC
Làng Cả, còn có tên là Kẽ Lép thuộc xã Đức Bác, huyện Lập Thạch nằm bên tả ngạn sông Lô, có tục hát Trống quân đặc sắc. Hàng năm làng mở tiệc khai xuân cầu đinh vào ngày 1 tháng 2 âm lịch, kéo dài 3 đêm tại đình công đồng.
Từ chiều mồng 1 tháng Giêng, nam thanh nữ tú cùng dân làng ra đền Đức Ông và đền Đức Bà rước vật thờ về đình công đồng (chày gỗ và mo cau phồn thực) và ra bờ sông Lô đón thuyền của họ Xoan bên kia sông sang hát thờ.
Các chàng trai vừa gõ trống vừa hát:
Đón chào từ sớm tới giờ
Để cho tin đợi, tin chờ, tin mong
Hát đế:
Kìa hỡi í a trống quân
Các cô liền đáp:
Chờ mong xin giữ ơn lòng
Cách sông cách đồng giờ mới tới đây
Hát đế:
Kìa hỡi í a trống quân
Cứ như thế đối đáp đôi bên lời ca mộc mạc, tình ý mặn nồng, đủ 14 quả cách (Hát thờ,hát chào mời, hát giáo trống, hát giáo phách…). Ngoài hát Trống quân, Đức Bác còn có lễ tục bơi cầu mùa, cầu đinh không kém phần đặc sắc.
47. Trò chơi: TỨ THÚ NHÂN LƯƠNG
Lễ hội ngày 9 tháng Giêng của 3 làng Mậu Lâm, Mậu Thông, Vĩnh Thịnh, xã Khai Quang, thị xã Vĩnh Yên, có tên “Lễ khai xuân khánh hạ” (vui mừng đón xuân). Dân gian gọi là múa Mo – một hình thức Các-na-van độc đáo ít thấy ở vùng quê khác.
Trò diễn có 26 người gồm các thành phần tiến theo đoàn rước: 1 người cầm chiêng, 1 người cầm trống, 4 người vác bảng “Tứ hình”, sư, vãi, thầy đồ, học trò, người cày, cuốc, cấy, gặt, xúc tôm, câu ếch, thợ mộc, lái buôn (dụng cụ theo nghề). Khi biểu diễn đều đeo mặt nạ (bồi bằng giấy bản, có khi bằng mo cau), về y phục đều theo màu sắc và phong cách tuỳ theo nghề nghiệp. Nam đóng giả nữ. Trâu, bò chỉ có phần đầu. Các nhóm trò biểu diễn cách điệu mô phỏng kiểu sinh hoạt xã hội nông nghiệp thời xưa: Thầy đồ dạy học; nông phu cấy cày, xúc tép, câu ếch; thương nhân đi buôn; thợ mộc đục bào. Chỉ có điều các dụng cụ hầu như đều cầm ngược đi kèm với các động tác ngộ nghĩnh, gây hài. Trò diễn quả là hấp dẫn, vui nhộn, đem lại tiếng cười sảng khoái cho người dự hội.
48. Trò chơi: ĐẢ CẦU CƯỚP PHẾT
Tục đả cầu cướp phết được diễn ra chiều ngày 7 tháng giêng hàng năm tại đền Đông Lai, xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch.
Lễ thức đả cầu cướp phết được tiến hành song song giữa hai hình thức cùng một lúc:
1. Các trai đinh cởi trần cướp quả cầu bằng gỗ quý, đường kính 35cm (cướp tay không).
2. Các trai đinh cầm mồng phết có hình cong làm bằng gốc tre có khắc hình đầu long mã, dài 1m20. Trai đinh cầm mồng phết đuổi theo người cướp cầu bằng tay. Nếu ôm được quả cầu thì người cầm phết đuổi theo bổ và ngoặc.
Khi các cụ tế lễ xong thì quả cầu và 2 phết được xếp lên kiệu trước sân đình cộng đồng. Sau 3 hồi trống chiêng, cụ Mệnh ôm quả cầu đi dưới gầm kiệu, hàng trăm trai đinh (cởi trần, đóng khố, chít khăn đỏ) đứng chờ sẵn phía trước kiệu. Cụ Mệnh hô phép thần: Làm lễ ăn lễ, ăn trầu, búi tóc, vươn vai thì các trai đinh cầm phết làm động tác tương tự theo lời hô của cụ Mệnh và làm lễ 4 vái. Cụ Mệnh hô: Đón cầu, một trai đinh vào ôm cầu chạy ra cổng, mọi người đuổi theo ôm giằng lấy nhau cứ thế quả cầu được di chuyển dưới sự chỉ huy của người cầm cờ sai (thân hình to khoẽ, giọng vang như sấm, thắt lưng đỏ, đầu thắt khăn chéo, chân quấn xà cạp) hô to: Tiến lên! người cầm mồng phết đuổi theo vây quanh người cướp cầu. Không khí hội xuân thật náo nhiệt.
Từ cổng đình ra tới Mô phết 250m, Mô phết cao 1,5m trên thửa ruộng có diện tích 240m2. Khi kiệu đi đến Mô phết, một trai đinh khoẽ mạnh nhất ôm quả cầu đặt lên đỉnh mô phết, cụ Mệnh, cụ cầm phết làm động tác giao tranh, rồi tiếng trống liên hồi, sau 3 hồi kiệu rước về đền thì đám người cướp cầu tự do, núi người tiếp tục chồng lên nhau. Năm nào cũng vậy, phải đến 6 – 7 giờ tối mới rước quả cầu vào đền và phát thưởng cho trai đinh cướp được quả cầu. Các trai đinh người nào cũng dính đầy bùn đất nhưng rất vui vẽ với tâm trạng của người chiến thắng. Tục đả cầu cướp phết là ôn lại việc giữ đất, trấn ải của các tướng lĩnh thời Hùng Vương. Không khí toàn dân luyện binh đánh giặc giữ nước quả là còn rất đậm đà trong ký ức dân gian!
49. Trò chơi: ĐÁNH QUÂN
Tục đánh quân có ở nhiều nơi, mỗi nơi có dáng vẽ riêng và gắn liền với những điển tích khác nhau như: Làng Tuân Lộ Phù Chính (Tuân Chính, Vĩnh Tường), xã Lý Nhân (Vĩnh Tường), xã Liên Châu (Yên Lạc).
Riêng tục đánh quân ở làng Yên Thư (Yên Phương, Yên Lạc) lại có nguồn gốc “Mục đồng đánh quân” và “Chợ mục đồng”. Đó là hình thức vừa chơi vừa tập trận tương truyền do vua Đinh Tiên Hoàng hướng dẫn khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan.
Hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp, trẽ trong làng chia làm hai phe cầm sào, gậy đánh nhau, bên nào có em ngã trước là thua. Đánh giặc xong các em về nhà ăn cơm, buổi chiều mặc áo mới rủ nhau đi họp “Chợ mục đồng”, lúc này các em rất thân mật với nhau, kẽ mua người bàn tấp nập như 1 phiên chợ thực sự với những hoa quả bánh trái bày ra. Đây là cuộc mua sắm để khao quân. Giải thưởng là 3 sào ruộng bán chương để lấy tiền chia cho các xóm – ba sào ruộng gọi là “Ruộng mục đồng”.
50. Trò chơi: NÉM LON
· Cách chơi:
Chuẩn bị những quả banh nhỏ và một số lon sữa bò. Lon sữa bò xếp lên nhau theo hình tháp.vạch một đường mức cách dãy lon một khoảng cố định. Chia cho mỗi đội ba trái banh.
· Luật chơi:
Đội nào chọi hết số banh và có số lon ngã nhiều hơn là thắng.
Đội nào đứng ném lon mà chân chạm mức là không tính.
51. Trò chơi: VÂY LƯỚI BẮT CÁ
* Đối tượng : Trò chơi này có thể tổ chức cho mọi đối tượng tuy nhiên tuỳ theo đặc điểm tâm sinh ký của từng lứa tuổi mà ta tổ chức cho trò chơi đơn giản hay phức tạp , thời gian dài hay ngắn.
Thiết kế sân chơi :
Trên sân chơi kẽ một vạch xuất phát dành cho mỗi đội ( Mỗi đội có một rổ đựng cá, rổ đựng cá đặt cách vạch xuất phát khoảng 30 cm ). Giữa sân bố trí ao cá , bên trong ao cá có bố trí một số lượng cá theo quy định. Tuỳ theo lứa tuổi tham gia mà ta bố trí số lượng cá nhiều hay ít.
* Cách chơi
Mỗi đội đứng hàng dọc sau vạch xuất phát. Khi có lệnh xuất phát của trọng tài trên sân. VĐV đứng đầu hàng chạy nhanh đến ao cá bắt lấy một con cá của đội mình theo màu đã được trọng tài qui định trước cho mỗi đội hoặc bắt thăm chọn màu ( Mỗi đội có số lượng cá mỗi đội, và số lượng cá mỗi đội có màu sắc khác nhau) sau khi bắt được cá, mang cá chạy nhanh đến vị trí đặt rổ đựng cá của mình, bỏ cá vào rổ đựng cá, rồi chạy về vỗ tay người thứ hai, người thứ hai thực hiện tiếp như người đầu hàng. Khi bắt đến con cá cuối cùng của đội mình, thì VĐV đó có quyền bắt màu cá chung và bắt cả cá của đôi bạn, bắt bao nhiêu con cũng được, nhưng chỉ được phép bắt một tay.
* Cách đánh giá thành tích , tính điểm
Đội thắng cuộc là đội vi phạm luật chơi, bắt được nhiều cá màu chung và cá của đội bạn.
52. Trò chơi: HÒ DÔ TA
* Cách chơi :
– Nội dung : Hò theo quản trò và làm động tác chèo thuyền.
– Hướng dẫn :
* Quản trò hò : “ Đèo cao ”
* Người chơi : “ Dô ta ”
* Quản trò : “ Thì mặc đèo cao ”
* Người chơi : “Dô ta ”
* Quản trò : “ Nhưng đèo quá cao ”
* Người chơi :” Thì ta đi vòng nào ”
* Người chơi : “ Dô hò là hò dô ta
– Lưu ý :
+ Thay lời của câu hò cho vui, như : “ Đường xa, thì mặc đường xa, nhưng đường xa quá, thì ta đi tầu ” hoặc “ Bài khó, thì mặc bài khó, nhưng bài khó quá thì ta hỏi thầy cô..”.
53. Trò chơi: CÁ SẤU LÊN BỜ
* Cách chơi: Vạch 2 đường vạch cách nhau khoảng 3m để làm bờ. Sau khi oẳn tù tì, người thua sẽ làm cá sấu đi lại giữa hai vạch đó tìm bắt người nào ở dưới nước hoặc có một chân dưới nước (tức nhảy ra khỏi vạch hoặc thò một chân qua khỏi vạch). Những người còn lại chia nhau đứng trên bờ (nghĩa là đứng ngoài hai bên vạch) chọc tức cá sấu bằng cách đợi cá sấu ở xa thì thò một chân xuống nước hoặc nhảy xuống nước và vỗ tay hát “Cá sấu, cá sấu lên bờ”. Khi nào cá sấu quay lại thì nhảy ngay lên bờ.
* Luật chơi: Người nào nhảy lên không kịp bị cá sấu bắt được phải thay làm cá sấu. Nếu cá sấu bắt được cùng lúc hai người trở lên thì những người bị bắt phải oẳn tù tì để xác định người thua. Nếu cá sấu không bắt được người thay thế thì bị làm cá sấu đến lúc “chảy nước mắt cá sấu” hoặc mệt quá thì thôi. Trò chơi bắt đầu lại bằng cách oẳn tù tì để tìm con cá sấu khác.
54. Trò chơi: “U”
* Cách chơi: Vạch 2 đường vạch cách nhau khoảng 6m, giữa 2 vạch đó là vùng không chiến. Dùng trò chơi “tay trắng – tay đen” để chia số người chơi thành 2 đội bằng nhau, mỗi đội đứng trong khu vực của mình. Sau khi oẳn tù tì, bên thắng đi trước bằng cách cho một máy bay xuất kích. Người làm máy bay phải kêu “u” liên tục khi rời khỏi lãnh thổ của mình. Nếu hết hơi trước khi vào trong vạch coi như máy bay rớt, bị bắt làm tù binh. Máy bay sẽ hạ đối phương bằng cách chạm vào đối phương, người bị hạ phải qua lãnh thổ đối phương đứng phía sau làm tù binh.
* Luật chơi: Trong lúc lâm chiến, bên đối phương có thể ùa ra bắt máy bay bằng cách giữ không cho máy bay về được lãnh thổ của mình cho đến khi máy bay hết hơi không kêu “u” được nữa, lúc đó máy bay bị bắt làm tù binh. Ngược lại, nếu đối phương giữ không chặt để máy bay vùng thoát về lãnh thổ của mình được thì những người giữ máy bay đều bị bắt làm tù binh. Tù binh được giải cứu bằng cách cố chìa tay ra làm sao chạm được vào máy bay phe mình. Nếu nhiều tù binh bị bắt muốn được cứu hết phải nắm tay nhau thì máy bay chỉ cần chạm vào một người là tất cả được cứu.
55. Trò chơi: NU NA NU NỐNG
* Cách chơi: Những người chơi ngồi xếp hàng bên nhau, duỗi chân ra, tay cầm tay, vừa nhịp tay vào đùi vừa đọc bài đồng dao:
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Bà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rút.
Hoặc:
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Đá rạng đôi bên
Đá lên đá xuống
Đá ruộng bồ câu
Đá đầu con voi
Đá xoi đá xỉa
Đá nửa cành sung
Đá ung trứng gà
Đá ra đường cái
Gặp gái giữa đường
Gặp phường trống quân
Có chân thì rụt.
Mỗi từ trong bài đồng dao được đập nhẹ vào một chân theo thứ tự từ đầu đến cuối rồi lại quay ngược lại cho đến chữ “rút” hoặc “rụt”. Chân ai gặp từ “rút” hoặc “rụt” nhịp trúng thì co chân lại. Cứ thế cho đến khi các chân co lại hết thì chơi lại từ đầu.
56. Trò chơi: ĐÁNH ĐÁO
* Cách chơi: Chỉ cần 2 người trở lên. Người chơi chọn cho mình những hòn đáo thật vừa ý. Hòn đáo thường là những hòn đá lớn nhỏ tuỳ ý, dẹp, hình tam giác. Hòn đáo được mài nhọn một góc, mài tròn hai góc còn lại giống như miếng gẩy đàn. Người chơi vạch hai lằn vạch cách nhau khoảng 2m. người chơi đứng ở vạch thứ hai, thảy những đồng tiền vào phía trên vạch thứ nhất, đồng tiền nào rơi vào giữa hai vạch coi như loại, được thu lại cho người đi sau. Sau đó, người chơi nhắm vào những đồng tiền trên mức thứ nhất, dùng đáo chọi vào những đồng tiền đó.
* Luật chơi: Nếu người chơi chọi trúng thì được “ăn” những đồng tiền đó và có quyền chọi tiếp. Nếu chọi không trúng thì phải nhường quyền chọi đáo cho người kế tiếp.
57. Trò chơi: MỘT HAI BA
* Cách chơi: Những trò chơi sẽ oẳn tù tì để xác định người bị phạt. Người bị phạt đứng úp mặt vào tường. Những người còn lại đứng cách xa tường khoảng trên 3m trên một lằn mức. Trong khi người bị phạt đập tay vào tường 3 cái đồng thời đọc to “Một – hai – ba”, những người ở phía sau bước lên thật nhanh một hoặc hai bước. Sau tiếng “ba”, người bị phạt quay lại, nếu thấy ai đang bước thì người đó bị phạt tạm ngừng chơi và lên đứng sát tường. Đến lúc có người nào đó đã bước lên được sát đằng sau người bị phạt (cách khoảng 0.5m) sẽ đập vào lưng người bị phạt, tất cả người chơi (kể cả người đang bị tạm ngưng chơi) sẽ chạy ùa về mức ban đầu. Người bị phạt sẽ rượt theo, chạm tay trúng ai thì người đó sẽ bị phạt và trò chơi lại bắt đầu.
* Luật chơi: Người bị phạt phải úp mặt vào tường khi đập “một – hai – ba”, sau tiếng “ba” mới được quay mặt xuống để “bắt”.
58. Trò chơi: DUNG DĂNG DUNG DẼ
* Cách chơi: Tất cả người chơi nắm tay nhau, vừa đi vừa đung đưa tay theo nhịp bài đồng dao:
Dung dăng dung dẽ
Dắt trẽ đi chơi
Đến cửa nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ù à ù ập
Ngồi xập xuống đây.
Khi đọc đến câu “Ngồi xập xuống đây” thí tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi lại đứng dậy vừa đi vừa hát tiếp.
59. Trò chơi: KEN TRÁI CÂY
* Cách chơi: cả nhóm chơi gồm từ 10 em trở lên, trong đó bầu ra một em bị, em bị sẽ đi lùa các bạn còn lại, đụng vào bạn nào thì bạn đó bị. Để tránh bị, người chơi phải hô tên của một loại trái cây bất kỳ, và đứng yên tại chỗ theo trạng thái vừa thực hiện, chỉ được di chuyển khi có người khác đến cứu, và trò chơi tiếp tục.
* Luật chơi: người chơi không được hô tên của loại trái cây mà người kia đã hô, chỉ gọi tên những trái cây trong nước không được lấy tên trái cây ngoại quốc (như me Thái, mận Ấn Độ, …), khi đã hô “keng” mà còn di chuyển là bị. Ranh giới của trò chơi phải được giới hạn trước.
60. Trò chơi: KÉO CƯA LỪA XẺ
* Cách chơi: 2 người chơi cùng ngồi đối diện với nhau, cầm chặc tay nhau. Vừa hát vừa kéo tay và đẩy qua trông như đang cưa một khúc gỗ ở giữa 2 người. Mổi lần hát 1 từ thì lại đẩy hoặc kéo về 1 lần. Bài hát là:
“Kéo cưa lừa xẽ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm trưa
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ”.
Luật chơi: ai bị buôn tay ra trước thì thua, không được đứng lên, cả 2 cùng ngồi.
* Cách chơi: – Đổ nước vào quả bong bóng, đứng thành vòng tròn, lần lượt thảy bóng vào người trong vòng tròn.
– Người nào được thảy bóng phải chụp chính xác.* Luật chơi: Ai bắt không trúng bóng, làm bóng rớt sẽ bị ướt áo và phạt theo tư thế hứng bóng như : quỳ 1 chân chụp bóng, quỳ 2 chân chụp bóng…62. Trò chơi: ÚP LÁ KHOAI
* Cách chơi: Mỗi bạn chơi ngồi thành vòng tròn, úp 2 bàn tay xuống đất.Khi bắt đầu đọc “ Úp lá khoai” thì 1 người lấy tay của mình phủ lên tay của tất cả mọi người, lúc đó mọi người ngửa hết bàn tay lên. Một người lấy tay của mình chỉ lần lượt từng bàn tay, vừa chỉ vừa hát tiếp : “ Mười hai chong chóng
Đứa mặc áo trắng
Đứa mặc áo đen
Đứa xách lồng đèn
Đứa cầm ống thụt
Thụt ra thụt vô
Có thằng té xuống giếng
Có thằng té xuống xình
Úi chà , úi da!”
* Luật chơi : Hát đến chữ cuối cùng, người chỉ để vào tay của người nào thì người đó bị phạt.
63. Trò chơi: NÉM CÒN
* Cách chơi:
– Dùng một quả còn nhỏ là một túi vải bên trong chứa một vật nặng khoảng 200gr ( có thể cho đất cát vào bên trong ) . Quả còn có gắn đuôi là một dải lụa nhiều màu sắc . Ở giữa sân dựng một cây cọc cao khoảng 3m trở lên ( túy theo độ tuổi , thể hình người chơi ) . Trên ngọn cây có treo một vòng tròn đường kính khoảng 35cm. Người chơi được chia làm hai nhóm đứng đối diên nhau , cách cột khoảng 7m trở lên (tùy theo đối tượng người chơi ) . Mỗi nhóm cử từng người lần lượt nén quả còn , sao cho quả còn chui qua vòng treo trên ngọn cây là được điểm . Khi ném , người chơi cầm trái còn quay quay trên đầu lấy đà , nhắm kĩ và ném . Bên đối phương sẽ bắt còn của đội bạn ném qua nếu bắt dược cũng tính điểm . Sau khi có còn trong tay bên đối phương ném còn qua vòng để lấy điểm .
Trò chơi này thgường phổ biến ở miền Bắc
64. Trò chơi: THÌA LÀ THỈA LẨY
* Cách chơi:
Hai ba người nắm tay lại và xếp chồng lên nhau . Tất cả cùng hát :
Thìa là thìa lảy
Con gái bảy nghề
Ngồi lê là một
Dựa cột là hai
Theo trai là ba
An quà là bốn
Trốn việc là năm
Hay nằm là sáu
Láu táu là bảy
Một người đứng ngoài chỉ từ nắm tay trên cùng đến nắm tay dưới mỗi từ trong bài sẽ tương ứng vào một nắm tay, đến từ bảy trúng tay ai thì người đó phải rút nắm tay ra. Cứ như thế cho đến hết năm tay thì trò chơi chấm dứt
65. Trò chơi: DU DE DU DÍCH
* Cách chơi:
– 1 người chơi xè tay ra và hát “Du de –du dích –bán mít trợ đông –bán hàng trợ cũ-bán hũ nước tương “.Người chơi thứ 2 sẽ đưa 1 ngón tay vào lòng bàn tay của người chơi 1 .
* Luật chơi:
– Khi người chơi 1 hát đến chữ “ tương “ sẽ nắm tay lại nếu bắt dính được ngón tay của người chơi thứ 2 , xem như người chơi thứ 2 bị phạt .
66. Trò chơi: BÚN THUNG
* Cách chơi:
– Có hai người chơi , mỗi người chơi bỏ ra từ 5 đến 10 sợi dây thung rồi trộn lên và thảy xuống đất .Sau đó 2 người sẽ dùng ngón tay dích các sợi thun đan vào nhau .* Luật chơi:
– Hai ngừơi tù xì ai thắng đi trước , ai bún được 2 sơi thun đan vào nhau là thắng hai sợi . Nếu không bún được hai sơi đan vào nhau thì tới lượt người thứ hai .
67. Trò chơi: KEN CON VẬT
* Cách chơi:
– Gồm một nhóm nhiều người chơi , một người sẽ đứng giữa và dí bắt các bạn chơi khác .Nếu các bạn chơi bị huy hiếp thì có thể đứng lại và nói 2 chữ về một con vật nào đó ( Ví dụ :gà con , chó sói , vịt bầu , heo mọi …) , lúc này người bị sẽ dí người khác .Trong quá trình đó bạn chơi khác có thể lại cứu các người chơi đã ken bằng cách chạm tay vào người đó .
* Luật chơi:
– Nếu người bị , chạm vào người của bạn chơi nào thì bạn chơi đó sẽ ra bị thay cho người chạm mình .
68. Trò chơi: NHẢY DÂY
* Cách chơi:
Hai tay người chơi cầm 2 đầu dây, dang rộng tay, dây để sau lưng. Người chơi vừa quay hai tay cầm dây vừa nhảy thẳng chân sao cho dây đi qua đầu rồi đi qua chân. Cứ chơi tiếp tục như vậy.
Ngoài ra, có thể chơi nhảy cặp đôi. Hai người chơi quay mặt vào nhau, một người cầm dây như cách chơi có 1 người và quay dây sao cho dây qua đầu và chân cả hai người.
* Luật chơi:
Người chơi cứ tiếp tục nhảy đúng theo số lần quy định của cuộc chơi. Nếu vướng dây thì bị phạt.
69. Trò chơi: TẬP TẦM VONG
* Cách chơi:
Trò chơi này cần 2 người hoặc 3, 4 người chơi. Một người nắm một đồ vật nhỏ trong một bàn tay, trái hoặc phải (vd: viên sỏi) và giấu vào sau lưng. Sau đó, người đó đọc to bài đồng dao:
TẬP TẦM VÔNG
TAY KHÔNG TAY CÓ
TẬP TẦM VÓ
TAY CÓ TAY KHÔNG
TAY KHÔNG TAY CÓ
TAY CÓ TAY KHÔNG?
Và nắm chặt lòng bàn tay và đưa hai tay ra.
Những người chơi còn lại sẽ đoán xem tay nào có nắm viên sỏi.
* Luật chơi:
Nếu người chơi bị đoán trúng tay nắm viên sỏi hoặc những người chơi còn lại không đoán được tay nào nắm viên sỏi thì tùy vào quy định của cuộc chơi có thể bị phạt khác nhau.
70. Trò chơi: ĐI CÀ KHÊU
* Cách chơi:
Trò chơi này thường được chơi ở bãi biển. Người chơi có thể chia làm hai đội để thi đấu với nhau (vd: thi chạy,…). Cây cà kheo được làm bằng tre, đô cao của bệ đặt chân cách mặt đất khá cao khoảng 1,5m – 2m. Mỗi người sẽ đi trên cây cà kheo để thi đấu.
* Luật chơi:
Nếu ai ngã khi đang thi đấu hoặc không kịp thời gian thi đấu thì bị phạt theo quy định của cuộc chơi.
71. Trò chơi: OẲN TÙ TÌ (Đồng Dao)
* Cách chơi : – 2 người đứng đối diện nhau.
– Hát “Búp bê nhảy
Búp bê xoay
Nghe điện thoại
Xin chữ ký
Không biết gì”
– Khi đến từ nhảy, xoay thì ta nhảy lên và xoay 1 vòng.
– Từ nghe điện thoại thì đưa tay lên tai làm ra vẽ đang nghe điện thoại.
– Từ xin chữ ký thì bàn tay làm sổ, tay kia làm bút ghi ghi lên sổ.
– Không biết gì thì ta tú xì như bình thường.
* Luật chơi : Ai tú xì và làm không đúng điệu bộ như vậy thì là người thua và bị nhéo tai.
72. Trò chơi: LÙA VỊT
* Cách chơi:
– Tập thể chơi cử 1 bạn làm hổ ( hoặc người lùa vịt) đứng ở ngoài vòng tròn, các bạn còn lại đứng trong vòng tròn làm lợn (hoặc vịt).
– Khi có lệnh chơi hổ ( người lùa vịt) chạy quanh vòng tròn, tìm cách đập vào người các bạn đứng trong vòng tròn.
* Luật chơi:
Hổ ( người lùa vịt) đập vào lợn (hoặc vịt), lợn phải ra ngoài thế chỗ cho người làm hổ.
73. Trò chơi: CƯỚP CỜ
* Cách chơi:
– Quản trò chia tập thể chơi thành 2 đội có số lượng bằng nhau mỗi đội khoảng 5 – 6 bạn, đứng hàng ngang ở vạch xuất phát của đội mình.
– Đếm theo số thứ tự 1,2,3,4,5,… các bạn phải nhớ số của mình.
– Khi quản trò gọi đến số nào thì số đó của 2 đội nhanh chóng chạy đến vòng tròn và cướp cờ đặt trong vòng tròn.
– Quản trò có thể gọi 1 lúc 2,3,4, … số.
* Luật chơi:
– Khi đang cầm cờ, nếu bị bạn chạm vào người thì thua cuộc.
– Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình mà không bị đội bạn chạm vào người thì thắng cuộc.
– Số nào chạm vào số đó, không được chạm vào số khác. Nếu bị số khác chạm vào thì vẫn không thua.
– Số nào thua rồi, quản trò không gọi số đó chơi nữa.
– Người chơi không được ôm, giữ nhau khi bạn cướp cờ.
74. Trò chơi: CUA CẮP
* Cách chơi:
Dùng trò chơi Oản tù tì để xác định người đi trước. Người đi trước bốc 10 viên sỏi lên thả xuống đất (số lượng viên sỏi có thể chọn tùy thích), sau đó đan 10 ngón tay vào nhau nắm lại, chỉ để 2 ngón duỗi thẳng ra làm càng cua.
Người chơi dùng 2 ngón tay lần lượt cắp từng viên sỏi nhưng không được chạm viên sỏi khác bỏ qua một bên. Lượt 1 cắp 1 viên, lượt 2 cắp 2 viên, … lượt 10 cắp 10 viên.
* Luật chơi:
Nếu người chơi khi đang cắp sỏi mà chạm vào viên khác thì phải nhường cho người kế tiếp đi.
Sau khi cắp hết 10 viên, đếm xem ai cắp được nhiều nhất thì người đó thắng .
75. Trò chơi: ĐI CÂU ẾCH
– Vật dụng: 1 cái que chừng 1m, 1 sợi dây chừng 1m, 1 miếng giấy hơi nặng.
– Chuẩn bị:
Vẽ 1 vòng tròn (đường kính tùy độ tuổi và số lượng người chơi) để làm ao. Cần câu là 1 cây que chừng 1m buộc 1 sợi dây dài chừng 1m, đầu sợi dây buộc 1 miếng giấy gập nhỏ lại cho hơi nặng để có thể hất trúng ếch ở xa. Đầu que có thể bịt vải để tránh nguy hiểm.
– Cách chơi:
Dùng trò chơi Oản tù tì để xem ai là người đi câu.
Mọi người vào trong ao làm ếch, còn người đi câu ở ngoài cầm cần đi câu.
Khi người điều khiển phát lệnh và bắt nhịp thì mọi người bắt đầu hát:
“ Ếch ở dưới ao
Vừa ngớt mưa rào
Nhảy ra bì bọp
Ech kêu ộp ộp
Ech kêu oạp oạp
Thấy bác đi câu
Rủ nhau chốn mau
Ech kêu ộp ộp
Ech kêu oạp oạp”
Khi hát làm động tác như ếch đang nhảy, tay chống nạnh, chân chụm lại hơi nhún xuống, nhảy lung tung trong vòng tròn. Nếu thấy người đi câu còn ở xa thì có thể nhảy lên bờ (ra khỏi vòng tròn) để chơi nhưng phải cảnh giác người đi câu, vì nếu đang ở trên bờ mà để người đi câu quâng dây trúng là bị bắt, phải thay làm người đi câu. Ngược lại người đi câu cũng tỏ ra lơ là đi rảo quanh bờ để lừa ếch mất cảng giác rồi bất ngờ quăng dây bắt.
– Luật chơi:
Ech nào bị người đi câu quăng dây trúng thì sẽ bị bắt và phải thay làm người đi câu
Nếu lâu (thời gian tùy nhóm chơi quy định) mà không câu được con ếch nào thì người đi câu sẽ bị phạt nhảy ếch 1 vòng (số vòng tùy nhóm chơi quy định) quanh ao.
76. Trò chơi: ĐI TÀU HỎA
* Cách chơi:
Những người chơi đứng thành hàng dọc. Người sau để tay lên vai người trước làm tàu hỏa. Người dẫn đầu vừa chạy vừa hô lệnh “Tàu lên dốc” hoặc “Tàu xuống dốc”.
Khi nghe lệng “Tàu lên dốc” tất cả chạy chậm, bàn châm nhón lên, chạy bằng mũi bàn chân. Khi nghe lệnh “Tàu xuống dốc”, tất cả chạy chậm chậm bằng gót chân.
Trong lúc chạy, mọi người cùng hát bài đồng dao:
Đi cầu đi quán
Đi bán lợn con
Đi mua cái xoong
Đem về đun nấu
Mua quả dưa hấu
Về biếu ông bà
Mua một đàn gà
Về cho ăn thóc
Mua lược chải tóc
Mua cặp cài đầu
Đi mau, về mau
Kẽo trời sắp tối.
* Luật chơi:
Cả đoàn tàu vừa chạy theo lệnh của đầu tàu vừa hát bài đồng dao. Nếu ai hát nhỏ hoặc không làm đúng động tác chạy sẽ bị cả tàu phạt (hình thức phạt nhẹ nhàng tùy đoàn tàu chọn)
77. Trò chơi: NHẢY CÓC
* Cách chơi:
Hai người chơi đứng đối diện nhau ở 2 đầu sân chơi. Vạch 2 mức đích
Cả 2 cùng đọc:
Oẳn tù tì.
Ra cái gì.
Ra cái này.
Sau khi oẳn tù tì, người thắng được quyền nhảy cóc về phía trước 1 nhịp. Khi nhảy xa, chụm 2 chân lại để nhảy. Sau đó lại oẳn tù tì tiếp, người thắng lại đươc quyền nhảy cóc tiếp 1 nhịp. Người nào nhảy xa và thường thắng trong khi oẳn tù tì thì sẽ nhảy về mức đích đã vẽ trước.
* Luật chơi:
Khi nhảy 2 chân phải chụm lại. Người oẳn tù tì thắng có quyền nhảy ngắn hoặc dài tùy sức của mình, nhưng nếu để tay chống (chạm) xuống đất thì coi như không được nhảy bước đó (phải trở về vị trí cũ trước khi nhảy bước đó).
Phần thưởng của người thắng cuộc là được người thua cõng chạy 1 vòng quanh sân.
78. Trò chơi: ĐÁ GÀ
* Cách chơi:
– Mỗi người gấp 1 chân của mình, chân còn lại nhảy lò cò đi đá chân của người khác.
– Dùng chân gấp khúc đó đá vào chân gấp khúc của người khác.
* Luật chơi: Ai mà té trước thì là người thua cuộc.
79. Trò chơi: ME ME DE DE
* Cách chơi:
– Hai bạn đối diện nhau, vừa tú xì vừa hát “ Me me de de
Cham bồ chát chát
Me me de de
Cham bồ chat chat”
* Luật chơi: Ai mà tú xì thua thì sẽ bị người thắng tát vào má của mình.
80. Trò chơi: ĐÁNH ĐÁO
* Cách chơi:
Người chơi dùng đồng tiền cái (đồng xu), sau đó khoét một lỗ tròn, sâu ngập nửa đồng xu, vạch thẳng một vạch trên mặt đất ngay phía dưới lỗ đáo, chạy sang hai phía độ 3m, làm ranh giới phía trên. Cách vạch đó độ 1,5m, vạch một vạch ngang trên mặt đất nữa để làm chỗ cấm không được để đầu bàn chân quá lên khi đứng chơi. Vạch này song hành với vạch trên.
Những người chơi góp mỗi người một số tiền nhất định, dùng đồng cáicủa mình đứng dưới vạch dưới thả vào lỗ. Ai thả trúng (đồng cái phải nằm lại) giữa lỗ thì là nhất… và cứ theo sự gần xa lỗ mà tính thứ tự.
Nếu nhiều người cùng thả trúng lỗ thì ai sau là hơn, ai sau nhất là nhất. Những đồng nằm dưới vạch coi như ra ngoài.
Người được nhất cầm tất cả số tiền góp của làng, đứng dưới vạch dưới thả vào lỗ, vào được bao nhiêu đồng thì ăn bấy nhiêu, còn những đồng nằm xung quanh lỗ phải qua lần thử thách mới do làng đề ra. Nếu không được thì người đứng nhì nhặt những đồng tiền còn lại đi tiếp (kiểu như người thứ nhất).
Ván đáo lỗ cứ theo cách đánh và cách ăn như trên diễn biến từ lúc đầu cho đến khi tất cả đồng con bị các nhà ăn hết mới chấm dứt.
Chuẩn bị:
– 3 cái chai.
– 9 cái vòng đường kính từ 15 đến 20 cm.
Làm bằng tre (tùy theo đích ném nếu đích là vật có cổ to thì vòng phải to sao cho lọt được vào cổ vật làm đích).
Cách chơi:
Đặt 3 cái chai thành một hàng thẳng cách nhau 50 đến 60 cm. Vẽ vạch chuẩn cách chai từ 100 đến 150 cm (tùy theo khả năng và mức độ chơi ở các lần khác nhau mà tăng dần khoảng cách). Người chơi xếp 3 hàng đứng dưới hàng kẽ, mỗi lần chơi cho 3 người ném, mỗi người ném 3 vòng, thi xem ai ném được nhiều vòng lọt vào cổ chai là người đó thắng cuộc.82. Trò chơi: LỰA ĐẬU* Vật dụng : Đậu đen, đậu xanh, đậu đỏ, rá đựng hạt, chén.
* Cách chơi: Chia thành nhiều đội, mỗi đội 3 người. Ba loại hạt sẽ được trộn chung vào cùng 1 cái rá, mỗi đội 1 rá. Sau khi nghe tiếng còi báo hiệu bắt đầu thì các đội sẽ phân loại hạt nào ra hạt đó bỏ vào chén.
* Luật chơi: Các đội thực hiện trong vòng 3 phút, đội nào phân loại xong trước thì đội đó thắng.
83. Trò chơi: DẪN NƯỚC
* Cách chơi: Mỗi đội 10 người. Khi có tín hiệu bắt đầu các đội phân công 1 người chịu trách nhiệm đào hố chứa nước, những người còn lại đào đường dẫn nước vào hố.
* Luật chơi: Thực hiện trong vòng 3 phút, đội nào đào hố sâu, rộng chứa nhiều nước thì đội đó thắng.
84. Trò chơi: TÙM NỤM, TÙM NỊU
* Cách chơi: 2 người chơi, 1 người hát bài “Tùm nu, tùm nịu”
Tùm nu, tùm nịu
Tay tí tay tiên
Đồng tiền, chiếc đũa
Hột lúa ba bông
An trộm, ăn cắp trứng gà
Bù xa, bù xít
Con rắn, con rít trên trời
Ai mời mày xuống?
Bỏ ruộng ai coi:
Bỏ voi ai giữ?
Bỏ chữ ai đọc?
Đánh trống nhà rông
Tay nào có?
Tay nào không?
Hông ông thì bà
Trái mít rụng.
Khi đọc đến câu “Tay nào có ? Tay nào không?” thì người đọc nắm một vật nào đó trong tay và chìa hai nắm tay. Người còn lại sẽ chọn 1 trong 2 nắm tay.
* Luật chơi: Chọn đúng được thưởng, chọn sai bị phạt.
85. Trò chơi: TRỐN TÌM
* Cách chơi:
– Người chơi cử 1 bạn đi tìm ( có thể xung phong), nhắm mắt thật kĩ ( có nơi dùng khăn hoặc miếng vải để bịt mắt); các bạn còn lại tản ra xung quanh đi trốn.
– Khi bạn bịt mắt hỏi: “Xong chưa?” (hoặc bạn đi tìm có thể đọc: “5-10-15-20-….. -100); một bạn trốn đại diện trả lời: “Xong!”. Bạn đi tìm mở mắt đi tìm.
* Luật chơi:
– Trong khoảng thời gian quy định, bạn đi tìm tìm thấy bạn nào bạn ấy thua cuộc, không tìm thấy bạn đi tìm chịu phạt.
– Bạn đi tìm trong thời gian quy định tìm thấy hết các bạn chơi bạn đi tìm thắng cuộc.
86. Trò chơi: KHIÊN KIỆU
* Cách chơi: Chia làm 2 đội, mỗi đội có 3 người chơi, 2 người chơi đứng đối mặt nhau lấy tay phải nắm vào giữa tay ngay cùi chỏ của mình và tay trái thì nắm vào tay phải của người đối diện để làm kiệu. Sau đó người chơi còn lại của đội này ngồi lên kiệu của đội kia và phải giữ cho chắc để không ngã.
* Luật chơi: Kiệu phải giữ chắc nếu vuột tay thì đội làm kiệu phạm luật và người ngồi kiệu của đội đối diện nếu ngã thì cũng sẽ phạm luật và thua cuộc.
87. Trò chơi: NHẢY LÒ CÒ
* Cách chơi: Kẽ làm 7 ô vuông, trò chơi có thể chơi ít hay nhiều người, mỗi người chơi có mội đồng chàm dùng để thảy vào ô và người chơi nào đi hết vòng thì cất nha và được đi tiếp cho đến khi mất lượt, nhưng nếu đạp trúng vạch kẽ hay thảy ra ra ngoài thì người chơi đó mất lượt và đến phần người chơi khác.
* Luật chơi: Nếu đồng chàm thảy ra ngoài hay vào nhà người khác thì mất lượt nhưng nếu đồng chàm hay người chơi chó mà cò vào nhà thay vì phải bẹp thì xem như nhà bị cháy . người chơi nào cất nhà nhiều nhất trong các ô vuông thì thắng cuộc.
88. Trò chơi: THẨY ĐÁ
* Cách chơi: Có thể chơi nhiều người, gồm có 5 cục đá tất cả các người chơi phải cầm đá thảy lên và úp bàn tay lại sau đó thảy đá lên và chụp đá về như cũ, nếu ai có đá nhiều khi chụp về thì người đó sẽ được đi trước. Người chơi rải đá ra bốc 1 cục đá và thảy lên lần lượt bốc từng cục cho đến hết sau đó đến 2 cục, rồi 3cục ,4cục và 5 cục sau đó thảy đá như lúc đầu để lấy điểm (1 cục tính 1 điểm).
* Luật chơi: Nếu người chơi chụp hụt hay rớt đá thì mất lượt và khi cân đá mà đá rớt hết thì không có điểm.
89. Trò chơi: TẠT LON
* Cách chơi: Kẽ khung và đặt lon vào trong khung đã kẽ sau đó kẽ vạch để tạt cách lon khoảng 4 hoặc 5 bước, sau đó tất cả người chơi đứng ở khung kẽ của lon dùng dép thảy để xem ai ném trước, dép người nào gần vạch hay nằm trên vạch là được tạt trước và dép người chơi nào xa vạch nhất sẽ giữ lon. Người chơi phải đứng từ vạch và lần lượt tạt sau cho dép trúng lon và văng ra khỏi khung kẽ của lon thì người giữ lon phải tìm lon về đặt lại chổ cũ và phải tìm cách chạm vào người tạt trúng lon trước khi người đó chạy về vạch, người tạt trúng lon phải lượm dép và chạy về vạch để người giữ lon không bắt được thì xem như thắng cuộc.
* Luật chơi: Nếu người chơi nào tạt không trúng lon hay người giữ lon chạm trúng người nào mà trước khi người đó chạy về vạch đứng thì người đó sẽ bị bắt giữ lon.
90. Trò chơi: THẢ DIỀU
* Cách chơi: Mỗi người chơi cầm khăn hay diều sau cho có thể bay khi có gió (kéo), diều dom lại để ở giữa vòng tròn và tất cả người chơi đều quay lưng lại sau cho không biết người nào là người chơi chủ khi tất cả người chơi vừa chạy vòng tròn các bạn vừa hô to “cần dây cho chắc
Lúc lắc cho đều
Để bố đăm chiêu
Kiếm gạo con ăn”
Thì người chơi chủ phải tìm và giấu đi bất kỳ diều nào khi bài hát chấm dứt thì mọi người phải tìm diều của minh và giơ cao lên người nào không có diều thì phải tìm ra người chơi chủ, nếu bài hát hết một lần nữa mà chưa tìm thấy người chơi chủ thì xem như phạm luật và bị phạt
* Luật chơi: Nếu người chơi nào tạt không trúng lon hay người giữ lon chạm trúng người nào mà trước khi người đó chạy về vạch đứng thì người đó sẽ bị bắt giữ lon.
91. Trò chơi: DE – ÙM
* Cách chơi: Người chơi chủ lật bàn tay của mình lên và tất cả người chơi cùng đưa ngón tay chỏ của mình đặt vàobàn tay của người chơi chủ. khi người chơi chủ hô to de………ùm thì tất cả người chơi phải mau chóng rút tay của minh lại không để cho người chơi chủ chụp được.
* Luật chơi: Động tác làm phải nhanh và tay của người chơi nào bị người chơi chủ chụp được thì xem như thua cuộc
92. Trò chơi: TÁN U
* Cách chơi: Chia làm 2 đội chơi và kẽ vạch ở giữa 2 đội, người chơi của đội A chạy ra khỏi vạch sang đội đối phương B nhưng mịêng vẫn phải la U để chạm vào người chơi của đội B và tìm cách chạy về đội của mình. Riêng đội B khi người chơi bên đội A này chạy sang thì phải tìm cách giữ lại cho đến khi người đó ngừng U. nếu người chơi của đội A bị bắt thì người khác bên đội A có thể chạy sang cứu bạn nhưng vẫn phải U và làm sao chạm được vào người của bạn bên đội mình thì người kia sẽ được cứu.
* Luật chơi: Trò chơi đòi hỏi hơi phải dài, nếu người chơi đội nào bị bắt nhiều thì xem như thua cuộc.
Các đám tiếp tục khích lệ, cổ vũ, xướng xuất: “Bớ giáp Ðông… Bớ giáp Ðoài… Tất cả sức trai – Giờ cướp cầu đã đến – Hai bên cùng phải tiến – Khi quả cầu lăn – Chớ có lui chân – Phải giành phần thắng”. Cứ sau mỗi câu là trai tráng, dân làng hòa theo reo hò rộn rã, tưng bừng, sục sôi. Ðược cổ vũ như tiếp thêm sức mạnh, trai đinh các giáp càng dũng mãnh xô nhau tranh cướp hết sức _ go, quyết liệt. Giáp nào cũng quyết thắng khiến hội cướp cầu càng thêm hấp dẫn. Cuối cùng, trai đinh giáp nào cướp được cầu, ôm lấy, chạy vào đặt được trong cung đình là thắng cuộc. Cuối cùng, quả cầu được đặt đúng vị trí tôn nghiêm. Cả giáp, cả làng, cả hội đều vui sướng. Chiêng trống rền vang dồn dập, liên hồi, người người già trẻ gái trai reo hò vang cầu trường. Giáp thắng cuộc được làng thưởng và mừng vì năm ấy cả làng, cả giáp gặp may, bình an, làm ăn phát đạt, giàu sang, thịnh vượng
Rau là thôn Cựu ấp, xã Liên Châu (Yên Lạc), có tiệc bơi chải từ ngày 10 đến 12 âm lịch với 4 chải giáp, thân chải và dầm chèo đều sơn đỏ. Các tay chèo mặc áo xanh đỏ, thắt lưng đai màu.Chải xuất phát từ bến đình bơi sang bô# beân kia, mọi người nhảy ùa lên bờ cướp lấy các né tằm bày ở bãi đem về. Có khi hai chải cùng đến xô vào nhau diễn ra cảnh cướp né tằm.Sau Rau là Hạc. Chải Bạch Hạc bơi đua vào ngày 15/5, có 2 giáp thi đua, mỗi giáp 2 chải, mỗi chải một màu sơn: xanh, vàng, trắng, đỏ. Mỗi chải 50 tay chèo, 1 người lái, một người cầm cờ, 1 người thủ hiệu gõ mõ là nhịp cho các tay chèo. Các chải của Bạch Hạc là thuyền độc mộc, không có thuyền ván ghép.
Me là xã Yên Lập (Vĩnh Tường) bơi trong 3 ngày từ 25 đến 27 âm lịch. Ngày 25 bơi trình thuyền trên sông Phó Đáy trước đình rồi bơi thi, ngày 26 rước kiệu trên 3 cái chải ghép vào nhau, trên lát ván, bơi tới một doi đất giữa sông làm lễ đón thần linh, ngày 26 bơi thi có chấm giải, chiều gác chải. Chải làng Me tạo dáng “đầu rồng đuôi tôm”, sơn son thiếp vàng. Vào cuộc đua là 3 chải của 3 xóm, mỗi chải 38 tay chèo, đường đua dài khoảng 2km, đến điểm đích cướp cờ cắm ở thân chuối đem về, giải nhất là cờ đỏ rồi thứ tự là cờ vàng, cờ xanh.
Xã Đức Bác (Lập Thạch) bơi chải vào ngày tiệc Bát Nàn công chúa, tướng của Hai Bà Trưng, vào mồng 10/6, bơi qua sông Lô sang xã Phượng Lâu cướp một nồi mạ đem về.
Dạng là xã Tứ Yên (Lập Thạch) bên sông Lô, có hội đua chải vào các ngày 25 và 26/6. Tứ Yên có 4 thôn: Yên Lương, Yên Phú, Yên Mỹ, Yên Lập, mỗi thôn một chải, mỗi chải 46 tay chèo, bơi từ bến Yên Lương tới bến Yên Lập lại bơi trở về. Dọc sông theo đường bơi đều cắm cờ.
Vào ngày 26 cả 4 chải đều rước một bát hương từ đình làng mình sang bờ bên kia thuộc xã An Đạo (Phù Ninh, Phú Thọ) với ý nghĩa đón vua Hùng sang với trang trại Yên Lương, Yên Lập là 2 Yên đầu tiên của Tứ Yên và là do Tản Viên Sơn Thánh chiêu dân lập ấp mà thành.
95. Trò chơi: “Tục đánh quân”
Tục đánh quân có ở nhiều nơi, mỗi nơi có dáng vẽ riêng và gắn liền với những điển tích khác nhau như: Làng Tuân Lộ Phù Chính (Tuân Chính, Vĩnh Tường), xã Lý Nhân (Vĩnh Tường), xã Liên Châu (Yên Lạc).
Riêng tục đánh quân ở làng Yên Thư (Yên Phương, Yên Lạc) lại có nguồn gốc “Mục đồng đánh quân” và “Chợ mục đồng”. Đó là hình thức vừa chơi vừa tập trận tương truyền do vua Đinh Tiên Hoàng hướng dẫn khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan.
Hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp, trẽ trong làng chia làm hai phe cầm sào, gậy đánh nhau, bên nào có em ngã trước là thua. Đánh giặc xong các em về nhà ăn cơm, buổi chiều mặc áo mới rủ nhau đi họp “Chợ mục đồng”, lúc này các em rất thân mật với nhau, kẽ mua người bàn tấp nập như 1 phiên chợ thực sự với những hoa quả bánh trái bày ra. Đây là cuộc mua sắm để khao quân. Giải thưởng là 3 sào ruộng bán chương để lấy tiền chia cho các xóm – ba sào ruộng gọi là “Ruộng mục đồng”.
96. Trò chơi: “Kéo song Hương Canh”:
Làng Hương Canh (Bình Xuyên) tổ chức kéo co ở sân đình Ngọc và sân đình Hương. Dựng một cột lim chắc khoẽ ở sân đình có đục lỗ luồn một dây song dài kéo qua.
Bốn đơn vị thi kéo co là làng Hương, làng Tiên, làng Ngọc và thông Đại Đồng. Khi trong đình tế xong thì nổi tiếng trống chiêng để cuộc kéo co bắt đầu.
Mỗi bên cử 25 tráng đinh vào kéo, đầu bịt khăn đỏ, lưng thắt bao đỏ. Bên nào cũng có một người cầm cờ đuôi nheo để chỉ huy. Người cầm chịch ấy còn gọi là “Ông lấy mực”. Do co kéo nhau nên nhiều sợi dây song cọ vào lỗ cọc lim bị nóng bốc khói làm sợi dây bị cháy, đứt đôi, người 2 bên lại ngã bổ ngửa chồng lên nhau.
Mỗi buổi chiều làng thi kéo co 4 hiệp. Cứ sau 30 phút lại nghỉ giải lao. Phần sợi song của mỗi bên tính từ giữa cọc ra 1m có buộc vải màu đánh dấu. Nếu bị đối phương lôi mạnh chỗ đánh dấu chui vào lỗ cọc thì bị thua. Bên thắng được làng thưởng hậu hĩnh bằng gạo, lợn hoặc bò đủ cho trai đinh giáp mình sửa cỗ bàn ăn uống mừng thắng trận.
97. Trò chơi “Tả cáy”:
Nhiều người làng Sán Dìu ở vùng Thanh Lanh (Bình Xuyên) xưa có trò chơi “Tả cáy” (có nghĩa là “Đánh gà”).
Con gà làm bằng gỗ tiện tròn bằng quả bóng bàn. Có thể có từ 5 đến 10 người cùng chơi, mỗi người cầm một cái gậy dài hơn một mét bằng tre hoặc bằng gỗ. Đào một cái lỗ bằng cái bát con ở giữa bãi chơi để “Con gà” dưới lỗ. Người đứng cái cầm gậy đẩy con gà ra khỏi lỗ. Những người khác dùng gậy hối gà vào lỗ. Người đứng cái vừa dùng gậy hối và đi vừa phải để ý đỡ đòn kẽo gậy của người khác đập trượt vào chân mình. Người nào đứng cái giỏi giữ cái lâu nhất không có gà lọt xuống được coi là thắng cuộc. Khi để “gà” lọt xuống lỗ thì người “cái” phải làm “con” để người vừa hối gà xuống lỗ được đứng cái.
98. Trò “Leo cầu ùm”:
Trò này có ở Bình Dương (Vĩnh Tường), Xuân Hoà (Lập Thạch), Đạo Đức (Bình Xuyên). Cầu ùm là một cây tre gốc được gác lên bờ ao chôn cọc giữ hai bên cho khỏi lăn, đầu ngọn được đặt trên cọc chéo mà lại leo bằng dây thừng. Khi có người lên cầu, cầu đung đưa, lủng liểng làm cho cuộc chơi thêm phần khó khăn hơn, nên càng hào hứng sôi động. ở đầu cầu trên ao có cắm cờ hiệu, người chơi leo lên cầu tới đầu cầu có cắm cờ, lấy lá cờ về là được cuộc. Phần nhiều những người dự chơi thường bị ngã “ùm” xuống ao vì thế gọi trò chơi này là trò leo cầu ùm.
99. Trò chơi: “Thi nấu cơm làng Tích Sơn”:
Làng Tích Sơn (nay là phường Tích Sơn, Vĩnh Yên), hội thổi cơm thi nổi tiếng khắp tỉnh Vĩnh Yên cũ. Muốn dự thi nấu cơm phải vào làng. Hàng năm hội thi nấu cơm tổ chức vào mồng 3 tết, tiêu chuẩn là nấu cơm không có cháy và róc nồi, mịn như cơm nắm có thể xắt ra từng miếng được, nồi cơm cũng giữ không có vết khói vết lửa. Những người dự thi sẽ chọn những chiếc niêu nung già chín đỏ, khi nấu dùng hai niêu một đồng một đất, niêu đồng đun nước, khi nước sôi đổ sang niêu đất. Gạo vo từ trước, cho nước rồi ghế đều lên, đun bằng than. Cũng có người không dùng bếp than nấu nước sôi mà bỏ gạo vào niêu đất đổ nước sôi vào lại chắt ra, cứ lặp đi lặp lại động tác này cho tới khi cơm chín. Các chức dịch hào lý cũng được thi, nếu hai nồi cơm ngang giải thì nồi cơm lý dịch sẽ được giải trên còn nồi bạch đinh bị đánh tụt xuống một cấp.
100. Trò chơi: “Tục đả cầu cướp phết”:
Tục đả cầu cướp phết được diễn ra chiều ngày 7 tháng giêng hàng năm tại đền Đông Lai, xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch.
Lễ thức đả cầu cướp phết được tiến hành song song giữa hai hình thức cùng một lúc:
1. Các trai đinh cởi trần cướp quả cầu bằng gỗ quý, đường kính 35cm (cướp tay không).
2. Các trai đinh cầm mồng phết có hình cong làm bằng gốc tre có khắc hình đầu long mã, dài 1m20. Trai đinh cầm mồng phết đuổi theo người cướp cầu bằng tay. Nếu ôm được quả cầu thì người cầm phết đuổi theo bổ và ngoặc.
Khi các cụ tế lễ xong thì quả cầu và 2 phết được xếp lên kiệu trước sân đình cộng đồng. Sau 3 hồi trống chiêng, cụ Mệnh ôm quả cầu đi dưới gầm kiệu, hàng trăm trai đinh (cởi trần, đóng khố, chít khăn đỏ) đứng chờ sẵn phía trước kiệu. Cụ Mệnh hô phép thần: Làm lễ ăn lễ, ăn trầu, búi tóc, vươn vai thì các trai đinh cầm phết làm động tác tương tự theo lời hô của cụ Mệnh và làm lễ 4 vái. Cụ Mệnh hô: Đón cầu, một trai đinh vào ôm cầu chạy ra cổng, mọi người đuổi theo ôm giằng lấy nhau cứ thế quả cầu được di chuyển dưới sự chỉ huy của người cầm cờ sai (thân hình to khoẽ, giọng vang như sấm, thắt lưng đỏ, đầu thắt khăn chéo, chân quấn xà cạp) hô to: Tiến lên! người cầm mồng phết đuổi theo vây quanh người cướp cầu. Không khí hội xuân thật náo nhiệt.
Từ cổng đình ra tới Mô phết 250m, Mô phết cao 1,5m trên thửa ruộng có diện tích 240m2. Khi kiệu đi đến Mô phết, một trai đinh khoẽ mạnh nhất ôm quả cầu đặt lên đỉnh mô phết, cụ Mệnh, cụ cầm phết làm động tác giao tranh, rồi tiếng trống liên hồi, sau 3 hồi kiệu rước về đền thì đám người cướp cầu tự do, núi người tiếp tục chồng lên nhau. Năm nào cũng vậy, phải đến 6 – 7 giờ tối mới rước quả cầu vào đền và phát thưởng cho trai đinh cướp được quả cầu. Các trai đinh người nào cũng dính đầy bùn đất nhưng rất vui vẽ với tâm trạng của người chiến thắng. Tục đả cầu cướp phết là ôn lại việc giữ đất, trấn ải của các tướng lĩnh thời Hùng Vương. Không khí toàn dân luyện binh đánh giặc giữ nước quả là còn rất đậm đà trong ký ức dân gian!