Bạn Đang xem SKKN mầm non Category
Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo
Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo
- ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, biển đông đã thấm đậm và có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động sản xuất, đời sống và ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Biển đã và đang cung cấp cho nhân loại một khối lượng rất lớn thực phẩm, dược phẩm, nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên. Mà Việt Nam có lợi thế hơn cả bờ biển dài trên 3.260km và không gian biển rộng (diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2) gấp 3 lần diện tích đất liền, với hơn 2.577 hòn đảo lớn, nhỏ, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó, biển đảo cũng là nơi có nhiều nguy cơ gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền và lợi ích quốc gia. Để có thể làm chủ và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ biển đảo đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc cũng như tham gia rộng rãi của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta. Có thể thấy, góp phần không nhỏ vào công cuộc ấy là các tầng lớp thanh, thiếu niên nhi đồng – các mầm non tương lai tràn trề nhựa sống của đất nước. Bởi không lâu sau, các em sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước, tham gia có hiệu quả vào công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia ngày càng vững mạnh. Nhận thấy được ý nghĩa cần thiết của việc bảo vệ biển đảo cho thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, đảo của nước ta, không có cách nào tốt hơn là đưa chương trình biển, đảo vào giáo dục ở các cấp học. Năm học 2012 – 2013 Bộ giáo dục và đào tạo đã triển khai đề án “Tăng cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo vào chương trình giáo dục các cấp học và các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010-2015. Như vậy, rõ ràng ngành giáo dục đã bắt đầu có chuyển biến tích cực nhằm giúp các em học sinh, sinh viên nâng cao ý thức về biển, đảo quê hương.
Đối với ngành học mầm non giáo dục tình yêu với biển, đảo là điều cần thiết, cần tiến hành theo lộ trình nhất định, qua từng lứa tuổi cần tăng dần khối kiến thức. Ngoài ra giáo viên cần hiểu rõ về căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền biển đảo và hơn nữa phải mở rộng, gợi mở những giá trị to lớn của biển, hải đảo, những hành động, biện pháp khai thác tài năng thế mạnh và bảo vệ biển, đảo một cách hiệu quả. Qua đó các em biết được nước ta không chỉ có đất liền mà còn có biển đảo bao la, giàu tài nguyên thiên nhiên với những đặc sản vô cùng phong phú như tỏi Lý Sơn, nước mắm Phú Quốc, trái bàng vuông. Các em cũng sẽ hình dung được một phần cuộc sống của nhân dân trên đảo, con người và cảnh vật nơi đây, chứa chan trong đó là tình yêu dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước và những tình cảm sâu sắc với bộ đội ngoài hải đảo xa xôi.
Đối với trẻ mầm non, hình ảnh biển đảo là những gì xa xôi, trẻ chưa từng được tiếp xúc, chưa từng có cảm giác thân thiện hay yêu mến. Bởi những gì gắn bó, gần gũi với trẻ là tình yêu thương gia đình, bạn bè, làng xóm, những gì thân thuộc xung quanh trẻ. Hơn ai hết, cha mẹ, thầy cô là những người trực tiếp giáo dục các em. Vậy nên chúng ta không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn phải truyền lại cho thế hệ mai sau tình yêu sâu sắc đối với biển đảo đối với vùng lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc thân yêu.
Thực tế với trẻ mầm non đây là năm học đầu tiên triển khai nội dung giáo dục biển, đảo vào dạy trẻ nên bản thân tôi chưa có kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm để dạy trẻ và đặc điểm tâm sinh lý trẻ dễ nhớ mau quên, trẻ chưa thể hình dung ra được những khái niệm đảo là như thế nào? Tại sao gọi là đảo? Trên đảo có những gì? Và làm thế nào để có thể sống được trên đảo? Tại sao phải yêu mến biển đảo? Những câu hỏi đặt ra trong tôi như thôi thúc tôi làm sao để giúp trẻ hiểu và làm cách nào để trẻ biết, hiểu lợi ích từ biển, đảo mang lại. từ đó hình thành ở trẻ ý thức biết bảo vệ, giữ gìn biển, đảo và tình cảm yêu mến thiên nhiên biển đảo, lòng tự hào dân tộc, lớn hơn nữa là tình yêu quê hương đất nước sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Mà ở trẻ mầm non xúc cảm thẩm mỹ phát triển mạnh, tâm hồn nhạy cảm. Trẻ nhìn thế giới xung quanh bằng cặp mắt trong sáng, dễ xúc động. Trẻ nhận ra vẻ đẹp xung quanh, biết cảm thụ cái đẹp thông qua được khám phá những cái mới lạ. Chính vì lí do đó nên việc giáo dục tình yêu biển, đảo cho trẻ mẫu giáo và cũng vì đó là nhiệm vụ của bất cứ người giáo viên nào trong thời kỳ hiện nay nên tôi trăn trở và quyết định thực hiện đề tài “ Một số biện pháp giáo dục tình yêu biển đảo thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Quỳnh”.
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lí luận.
Khi nhắc đến diện tích quốc gia, nhiều người vẫn đơn giản nghĩ tới vùng đất liền chứ ít chú ý tới vùng biển. Nguyên nhân của sự thiếu sót trong nhận thức này một phần bắt nguồn từ việc những nội dung về biển, đảo ít được đề cập một cách bài bản, nghiêm túc trong chương trình giáo dục ở tất cả các cấp. Thực tế hiện nay là, khi hỏi các bạn trẻ về biển, đảo của nước ta, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, ai cũng có thể trả lời đó là “một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc”. Nhưng để lý giải nguồn gốc của nó như thế nào, có tiềm năng, thế mạnh, nguồn lợi kinh tế ra sao, thì không phải ai cũng trả lời được. Nhìn chung, kiến thức về biển, đảo của phần lớn người dân và các em học sinh, sinh viên hiện nay còn rất hạn chế. bởi suốt khoảng thời gian dài trước đây, nội dung về biển, đảo không được đưa vào chương trình giáo dục các cấp. Gần đây, khi những vấn đề về năng lượng, tài nguyên, tranh chấp chủ quyền biển, đảo trở thành vấn đề nổi cộm thì việc giáo dục kiến thức biển, đảo trong nhà trường mới được chú ý tới.
Trường Sa, Hoàng Sa đã và đang là những vùng đất thiêng liêng mà bất cứ con người Việt Nam nào khi nghe thấy đều bồi hồi xúc động. Với mục đích giáo dục tình yêu biển, hải đảo quê hương cho trẻ ngay từ tuổi mầm non để thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, hải đảo của nước ta thì ngành giáo dục mầm non phải đưa ra được nội dung giáo dục biển đảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý trẻ, không làm nặng chương trình, phù hợp với tình hình địa phương, giúp trẻ dễ nhớ, dễ tiếp thu mà lưu giữ lại được ấn tượng tốt về biển đảo.
Cụ thể với trẻ mầm non có thể duy trì cách thức tuyên truyền giáo dục như lồng ghép thông qua hình thức kể chuyện lịch sử, vẽ tranh, dã ngoại, xem phim ảnh…Thông qua những tiết học đó những kiến thức về biển đảo mà cô truyền đạt cho trẻ hàng ngày với những cái tên như Trường sa, Hoàng Sa, Phú Quốc sẽ không còn gợi lên sự xa xôi với các bé. Những mầm non tương lai của đất nước sẽ hiểu hơn về đảo và hải đảo qua những giờ học bổ ích, lý thú, những trò chơi, những bức tranh, câu chuyện hấp dẫn. Bên cạnh những nét vẽ hồn nhiên về sóng vỗ rì rào, những hòn đảo, những con tàu ngược xuôi…đó là hình ảnh chú bộ đội hiên ngang ôm sung đứng gác ở cột mốc chủ quyền của tổ quốc, là bước chân dũng cảm tuần tra suốt ngày đêm để trẻ em tung tăng mỗi buổi đến trường và nuôi dưỡng những ước mơ trở thành lính đảo trong tương lai.
Nguồn: thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giaoducbienhaidaochotremamnon
Mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020
Mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020
Mục tiêu giáo dục của mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất mục tiêu giáo dục mầm non mới mục tiêu giáo dục mầm non đến năm 2020 giáo dục mầm non lấy trẻ làm trung tâm giáo dục mầm non là gì quản lý giáo dục mầm non là gì giáo dục mầm non tiếng anh là gì vai trò của giáo dục mầm non chương trình giáo dục mầm non mới
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu giáo dục của mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi. Khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người làm nhiệm vụ giáo dục cần chú trọng đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ.
Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống sau này.
Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường “Sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ.
Đối với giáo viên đa số đã nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng đắn trong giáo dục tính tự lập cho trẻ lên ba. Song về hướng dẫn trẻ hoạt động để hình thành tính tự lập cho trẻ lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn quá nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là cô giáo ngại khó, sợ tốn thời gian (Vì trẻ thực hiện chậm chạp, long ngóng vụng về..) và có tư tưởng “Thà làm quách cho xong”.
Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự lập cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo bé nói riêng giáo viên mầm non phối kết hợp với cha mẹ trẻ có những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Đó cũng là lí do mà tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở trường mầm non xã Yên Mỹ”.
*Mục đích của đề tài:
Thực trạng việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi ở lớp C1 trường mầm non Yên Mỹ.
Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi ở lớp C1 trường mầm non Yên Mỹ.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé.
* Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp nghiên cứu sư phạm.
+ Phương pháp sử dụng phiếu điều tra an ket.
+ Phương pháp dùng lời nói.
+ Phương pháp sử dụng toán thống kê.
* Phạm vi áp dụng:
Trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi, lớp C1 mẫu giáo bé trường mầm non Yên Mỹ trong năm học 2012 – 2013.
* Kế hoạch nghiên cứu:
Từ tháng 7 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Yếu tố tạo nên tính tự lập ở mỗi cá nhân là khả năng tin tưởng vào những đánh giá của bản thân, cũng như là tự vạch ra con đường đi cho mình mà không cần lúc nào cũng nhờ đến sự chỉ bảo, hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Có được khả năng này là một điều tuyệt với, bởi nó sẽ giúp trẻ hạnh phúc hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó khuyến khích trẻ tạo ra những cơ hội để trẻ thể hiển mình. Những đứa trẻ được giáo dục tính tự lập từ nhỏ thì nhanh nhẹ và hoạt bát, nổi trội hơn hẳn so với những trẻ khác.
Còn đối với trẻ mầm non rất nhiều trẻ xuất hiện tình trạng dựa dẫm, ỷ lại, được nuông chiều một cách thái quá dẫn đến không biết làm một số việc đơn giản như không biết mặc quần áo, không biết tự đi giày, dép, không thích tự đi mà thích được người lớn bế ẵm….Trẻ không biết cách chăm sóc bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh, lười nhác không biết hỗ trợ người khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó thiếu tính tự lập là một nguyên nhân trọng tâm nhất. Như chúng ta đã biết, trẻ em là một đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ em được tiếp xúc với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại nếu trẻ em tiếp xúc với nền giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn đến các hậu quả tiêu cực. Do đó việc giáo dục tính tự lập cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt, và là phương pháp rất quan trọng và cần thiết.
Tạo tính tự lập cho trẻ không phải chỉ có hướng dẫn cho trẻ tự lo cho bản thân mà còn giúp trẻ tự quyết định các vấn đề của mình. Đó cũng là cách giúp trẻ vận động suy nghĩ, sáng tạo và tự tin.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Đặc điểm tình hình chung
Trường mầm non Yên Mỹ nằm trên địa bàn xã Yên Mỹ một xã ngoại thành Hà Nội. Nhiều năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp Huyện và một năm đạt trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành Phố. Năm học này trường phấn đấu giữ vững danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố. Trong đợt kiểm định chất lượng giáo dục 5 năm trường đạt loại tốt. Trường có khung cảnh sư phạm đẹp và luôn giữ vững danh hiệu “Trường học thân thiện – Học sinh tích cực” cấp thành phố.
Năm 2012 – 2013 tôi được ban giám hiệu phân công phụ trách lớp C1 mẫu giáo bé (3- 4 tuổi) cùng cô Hoàng Thị Ngọc Ánh. Bản thân có trình độ cao đẳng, còn cô Ánh có trình độ trung cấp sư phạm.
Một số trẻ được bố mẹ quá nuông chiều, một số trẻ lại quá hiếu động nhưng không biết tự phục vụ bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh cơ thể mà thường phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
Với đặc điểm tình hình như vậy, khi được nhà trường phân công tôi rất băn khoăn lo lắng bởi một số khó khắn và thuận lợi sau:
2. Thuận lợi
Bản thân là giáo viên lâu năm lại nhiệt tình, yêu nghề tâm huyết với nghề, có trách nhiệm, có tinh thần học hỏi ở bạn bè, đồng nghiệp, có năng lực sư phạm.
Trẻ đi học chuyên cần cao nên đảm bảo quá trình dạy và học của cô và trò không bị gián đoạn.
Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ và cùng phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
3. Khó khăn
Một số trẻ chưa học qua độ tuổi nhà trẻ nên các kỹ năng tự phục vụ của trẻ hầu như không có mà hoàn toàn phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
Do bố mẹ trẻ luôn coi trẻ còn rất nhỏ và non nớt nên quá nuông chiều mà không để trẻ tự làm lấy một việc gì dù là nhỏ nhất.
Xuất phát từ nhưng khó khăn và thuận lợi trên nên tôi đã nghiên cứu và thấy mình phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ để trẻ luôn chủ động, linh hoạt, tự tin trong cuộc sống. Để thực hiện được điều đó tôi đã nghiên cứu một số biện pháp sau:
III. Những biện pháp
1. Đặt mục tiêu rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Người lớn thường không muốn trẻ phải gánh nhiều trách nhiệm khi chưa thực sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít nhận ra rằng con trẻ đã đủ khéo léo, có các kỹ năng phù hợp và đủ tự tin bắt tay vào một công việc nào đó. Để hình thành tính tự lập, người lớn cần tin tưởng trẻ, động viên và khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người kiểm soát trẻ quá chặt để trẻ phụ thuộc quá lâu thì trẻ sẽ bát riết lấy cha mẹ, cô giáo, chúng có thể trở thành những đứa trẻ lưới biếng và mọi việc đối với trẻ đều trở nên khó khăn. Chắc hẳn ai cũng đã được nghe câu nói “Nếu bắt cho con một con cá, con sẽ có cá ăn một ngày. Nhưng nếu dạy con bắt cá, con sẽ có cá ăn suốt đời”. Xuất phát từ tư duy này cô giáo và cha mẹ nên dạy con tính tự lập, sống bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau để đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về tính tự lập theo lời Bác dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã đặt ra các mục tiêu để rèn luyện các kỹ năng cho trẻ lớp mình như sau:
– Kỹ năng phục vụ bản thân: Tự nhặt đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, tự đi dép, tự cất dép, lấy đồ dùng cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang, tự lấy và cất gối.
– Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Tự thay quần áo khi thấy bẩn, tự xúc miệng nước muối sau khi ăn, lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn, xả nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi qui định, rửa tay bằng xa phòng khi tay bẩn, nhặt rác, bỏ rác vào đúng nơi qui định, tự rửa tay, chân khi thấy bẩn, biết tự đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu.
– Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây…..
Việc xác định được những kỹ năng như trên đã giúp tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc thực hiện đề tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ xác định được những kỹ năng đó mà tôi đã rèn trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. Tôi đã giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của hành động, của công việc đó như thế nào, biết được việc nào nên làm và việc nào không nên làm, việc đó có ích lợi gì để từ đó giúp trẻ dần dần trở thành ý thức cần có trong cuộc sống hàng ngày.
2. Khảo sát khả năng tự lập của trẻ
Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc nghiên cứu này. Và để gặt hái được nhiều kết quả tốt trong quá trình thực hiện nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ theo những kỹ năng cấn thiết để giáo dục tính tự lập cho trẻ mà tôi đã xác định ở trên.
Nguồn: Thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giaoducmamnon2020
Biện pháp giáo dục luật lệ an toàn giao thông cho trẻ
Biện pháp giáo dục luật lệ an toàn giao thông cho trẻ
ĐẶT VẤN ĐỀ
“An toàn là bạn, tai nạn là thự”
Đó chính là khẩu hiệu mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta vẫn luôn được nhắc nhở để đảm bảo an toàn cho chính bản thân khi tham gia giao thông. Và khẩu hiệu này lại càng cú ý nghĩa hơn bao giờ hết trong thời đại hiện nay – thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đất nước Việt nam ta đang trên đường phát triển và đổi mới về mọi mặt như kinh tế, chính trị đặc biệt là gia nhập WTO. Cùng với sự phát triển đó đời sống nhân dân cũng được cải thiện, các phương tiện phục vụ nhu cầu đi lại cũng phát triển. Nước ta phát triển như vậy nhưng bên cạnh đó còn một số vấn đề làm cho chúng ta cần phải suy nghĩ đó là an toàn giao thông.
Có thể nói tai nạn giao thông không chỉ gây đau thương mất mát tiền của cho mọi người mà còn ảnh hưởng nghiệm trọng đến sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Nhận thức được vấn đề trên Chính phủ ta đã có rất nhiều nỗ lực để đẩy mạnh giáo dục an toàn giao thông. Theo nghị định của Chính phủ từ ngày 15/12/2007 tất cả mọi người đều phải đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy nhưng do ý thức của người tham gia giao thông chưa cao nên các vụ tai nạn giao thông vẫn xảy ra ở mức báo động. Đặc biệt số nạn nhõn là trẻ em chiếm một con số khụng nhỏ. Trong đó cũng có nguyên nhân khách quan nhưng cũng có nguyên nhân chủ quan do chính các em. Điều đó là do ý thức coi thường pháp luật của người lớn và do trẻ không nắm được luật an toàn giao thông.
Trên thực tế người đi đường thường giật mình khi thấy phụ huynh trở trẻ em bằng xe máy, hầu hết không đảm bảo an toàn. Thường là phụ huynh cho trẻ ngồi lên trên ghế sắt lắp thêm ở phía trước hoặc ngồi lên trên yên xe phía sau, không đội mũ bảo hiểm, và cũng chẳng có đai an toàn. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của người cầm lái, tai nạn đáng tiếc cho trẻ có thể xảy ra. Trẻ em là tương lai của đất nước, giáo dục cho trẻ có kiến thức về văn hóa, pháp luật nói chung và giáo dục luật lệ an toàn giao thông là bài học không thể thiếu ở các trường mầm non. Ngay từ khi cũn nhỏ, cần cung cấp cho trẻ những kiến thức đơn giản nhất trong ứng xử, hành vi của mình để các em hình thành thúi quen có trách nhiệm với hành vi của mình, với cộng đồng và xó hội, để đến khi trưởng thành chính các em sẽ là những tuyên truyền viên tích cực trong việc chấp hành pháp luật về an toàn giao thông và hình thành “Văn hóa giao thông”.
Xuất phát từ thực tế trên và từ sự nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mầm non, bản thân tụi là một giáo viên mầm non, tôi đó mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giáo dục luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi tại trường mầm non xó Yờn Mỹ”.
* Mục đích nghiờn cứu:
– Thực trạng việc chấp hành luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giỏo nhỡ
4 – 5 tuổi ở trường mầm non xó Yờn Mỹ.
– Một số biện phỏp giỏo dục chấp hành luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giỏo nhỡ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non xó Yờn Mỹ.
* Đối tượng nghiên cứu:
– Biện phỏp giỏo dục luật lệ an toàn giao thụng cho trẻ mẫu giỏo nhỡ 4 – 5 tuổi.
* Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp dùng lời.
Phương pháp dùng trũ chơi.
* Phạm vi nghiờn cứu:
– Trẻ mẫu giỏo nhỡ 4 – 5 tuổi, lớp B3, trường mầm non xó Yờn Mỹ, Huyện Thanh Trỡ. Năm học 2012 – 2013.
* Kế hoạch nghiờn cứu:
Thời gian 8 tháng ( Bắt đầu từ tháng 9/2012 đến tháng 4/2013
Giao thông vận tải là vấn đề huyết mạch của nền kinh tế, là điều kiện quan trọng để giao lưu từ nơi này qua nơi khác. Hũa chung với cỏc nước tiên tiến trên thế giới, trẻ em được giáo dục an toàn giao thụng ngay từ nhỏ “mưa dầm thấm lâu”. Một khi việc tụn trọng phỏp luật và chấp hành nghiờm chỉnh chấp hành luật giao thụng trở thành một thúi quen tốt của mọi cụng dõn thỡ vấn đề tai nạn giao thụng khụng cũn là nỗi lo của toàn xó hội. Cựng với việc giảng dạy cỏc hoạt động chung, hoạt động góc các hoạt động diễn ra trong ngảy ở trường mầm non và trọng điểm là phương pháp giáo dục an toàn giao thông cho trẻ mầm non là một trong những yêu cầu cơ bản của chương trỡnh giỏo dục mầm non mới.
Trẻ mầm non là lứa tuổi dễ dàng tiếp thu hỡnh thành thúi quen tốt giỳp trẻ sau này trở thành một cụng dõn tốt, chấp hành luật lệ giao thụng. Trước mắt giao dục cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về luật an toàn giao thông. Có những thói quen ban đầu biết chấp hành luật giao thông, biết được hậu quả tai hại của tai nạn giao thông làm cho nhiều người bị chết nhiều người bị thương. Nhiều trẻ em phải mồ cụi cha mẹ khi cũn quỏ nhỏ do tai nạn giao thông. Từ đó giúp trẻ có ý thức tốt trong việc chấp hành luật lệ an toàn giao thông và có hành động đúng khi tham gia giao thông
Trường mầm non xó Yờn Mỹ thuộc xó Yờn Mỹ – Huyện Thanh Trỡ nằm trên địa bàn ngoài đê. Trường đạt trường chuẩn quốc gia mức độ I, đó đạt danh hiệu “Trường tiên tiến xuất sắc cấp thành phố”. Năm học 2012-2013 này nhà trường phấn đấu giữ vững danh hiệu “Trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố”. Nhà trường tiếp tục xây sửa quy mô hơn, khang trang rộng rói hơn. Khung cảnh sư phạm của trường đẹp và luôn giữ vững danh hiệu “Trường học thân thiện – Học sinh tớch cực”.
Năm học 2012 – 2013 nhà trường phân cụng cho tụi và cụ Nguyễn Thị Minh Thoa phụ trỏch lớp mẫu giỏo nhỡ B3. Giỏo viờn cú trỡnh độ chuyên môn chuẩn:
Tôi đó cú bằng trung cấp Sư phạm và đang học lớp Đại học Sư phạm mầm non.
Cụ Nguyễn Thị Minh Thoa: trỡnh độ Trung cấp Sư phạm mẫu giáo nhà trẻ Hà Nội.
Lớp B3 được hai cô luôn trang trớ lớp phự hợp với chủ đề, đẹp, gần gũi, hấp dẫn trẻ với sĩ số là 39 cháu trong đó có 25 chỏu nam và 14 chỏu nữ.
Với đặc điểm tỡnh hỡnh như vậy, khi được nhà trường phân công tôi rất băn khoăn lo lắng bởi một số khó khăn và thuận lợi sau:
– Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất về chuyên môn và nhân lực để giáo viên có thể triển khai các biện pháp giáo dục an toàn giao thông cho trẻ tại lớp.
– Hai cụ giỏo phối hợp nhịp nhàng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
– Bản thõn là giỏo viờn yêu nghề mến trẻ, có trách nhiệm cao trong việc thực hiện nhiệm vụ nhà trường giao cho.
– Trẻ đi học đều, đúng giờ nên lớp luôn đạt tỉ lệ chuyên cần cao.
– Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình hưởng ứng và tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên thực hiện các biện pháp giáo dục luật lệ và an toàn giao thông cho trẻ, phối kết hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
– Đồ dùng, đồ chơi mầm non về giao thông chưa phong phú về chủng loại.
– Các bậc phụ huynh hầu hết là người dân địa phương, đó quen với giao thụng tự do trong làng xúm nờn chưa hiểu hết vai trũ và tầm quan trọng của giỏo dục an toàn giao thụng.
– Đa số cỏc bậc phụ huynh chưa quan tầm và dành thời gian dạy trẻ luật lệ và an toàn giao thông.
– Trong quá trình tham gia giao thông trẻ luôn chứng kiến những cảnh giao thông lộn xộn gây ảnh hưởng đến ý thức của trẻ.
– Một số trẻ nhỳt nhỏt chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động của lớp.
Xuất phát từ những khó khăn và thuận lợi trên nên tôi đó nghiờn cứu và đó sử dụng một số biện pháp sau:
Link tải tài liệu: https://tinyurl.com/pt5mzha
Sáng kiến kinh nghiệm mầm non 3-4 tuổi
Sáng kiến kinh nghiệm mầm non 3-4 tuổi
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ MGB 3 – 4 tuổi Xây dựng môi trường lớp học để giáo dục lễ giáo cho trẻ
Cùng với toàn ngành thực hiện chủ đề năm học, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, thì việc tạo cảnh quan sư phạm và môi trường xung quanh lớp học cũng rất quan trọng. Tôi luôn chú ý tạo môi trường lớp học phù
hợp lứa tuổi trẻ, đồ dùng đồ chơi được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp.
Tôi đã trồng rất nhiều cây xanh ở Góc nhiên thiên, ở đó trẻ được tự tay mình chăm sóc cây xanh như: tưới nước, nhổ cỏ, lau lá cho cây… Tôi đã nhắc nhở các cháu rằng muốn có môi trường xanh – sạch – đẹp thì chúng ta phải góp phần chăm sóc, bảo vệ cây ở lớp, ở nhà cũng như ở nơi công cộng.
Qua những hoạt động này, trẻ trở nên ham thích lao động, biết cảm nhận vẻ đẹp của thế giới tự nhiên gần gũi xung quanh.
Để sân trường sạch đẹp vào giờ hoạt động ngoài trời, tôi thường cho trẻ cùng cô tham gia lao động như nhặt cỏ, lá cây… Cuối tuần, tôi và các cô giáo trong lớp lau dọn, sắp xếp các đồ chơi ở các góc chơi gọn gàng ngăn nắp. Lớp tôi có thùng rác để ở ngoài hành lang, tôi thường nhắc nhở trẻ phải vứt rác vào đúng nơi quy định.
Qua thời gian, tôi nhận thấy trẻ lớp tôi đã có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường lớp học như không vứt rác bừa bãi, chơi xong biết cất dọn đồ chơi đúng nơi quy định.
- Biện pháp 4: Tự rèn luyện bản thân để là tấm gương sáng cho trẻ noi theo
Là một giáo viên tôi luôn thấu hiểu được tâm trạng của trẻ, ở lứa tuổi này trẻ rất thích được cô yêu thương gần gũi và thích học theo tấm gương của cô. Vì vậy tôi luôn chuẩn mực trong giao tiếp với mọi người cũng như với trẻ: Tôi không to tiếng quát tháo, xưng hô với những lời nói nhẹ nhàng “cô và con”, vì trẻ thơ rất hay bắt chước nên mọi lời nói cử chỉ của tôi đều phải chuẩn mực và tôi luôn ý thức được rằng ở trường mầm non cô giáo chính là người mẹ hiền thứ 2 của trẻ.
Giờ đón trả trẻ tôi luôn ân cần dịu dàng với trẻ, khiêm tốn lịch sự trong giao tiếp với phụ huynh.
Mỗi khi tôi hứa với trẻ điều gì thì tôi phải giữ đúng lời hứa của mình. Nếu trẻ có hành vi hoặc lời nói không hay thì tôi nhẹ nhàng góp ý, khuyên bảo trẻ tuyệt đối không mắng phạt trẻ làm cho trẻ sợ hãi.
VD: Trong giờ ăn cháu Thùy Dương lười ăn và ăn rất chậm, tôi đã đến động viên cháu: Con lớn rồi, con phải ăn nhanh và ăn hết xuất cho cơ thể mau lớn, khỏe mạnh để sang năm còn chuyển lên lớp mẫu giáo nhỡ chứ.
VD: Trong giờ chơi tự do: Cháu Giang tranh giành đồ chơi và đánh cháu Đạt. Tôi nhẹ nhàng đến bên 2 cháu hỏi xem lý do cháu Đạt khóc và khuyên bảo cháu Giang: Nếu con muốn đồ chơi của bạn hay muốn chơi cùng bạn thì con phải mượn bạn, chứ không được tranh giành đồ chơi của bạn, như thế là không tốt con nhớ chưa nào!
- Biện pháp 5: Khích lệ tuyên dương trẻ kịp thời
Tâm lý của mọi người đều thích được khen hơn là chê, nhất là đối với trẻ lúc nào cũng muốn được khen nhiều. Điều không thể thiếu được trong việc lễ giáo là phần tuyên dương sau buổi học, buổi chơi. Chúng tôi đã nghiên cứu lồng lễ giáo vào góc bé chăm ngoan bằng cách làm một số lọ hoa, trên đó ghi những tiêu chí để trẻ ngoan cắm những bông hoa vào lọ của mình vào nhằm động viên trẻ cố gắng.
Thứ 6 hàng tuần, vào giờ nêu gương Bé ngoan, trước khi cắm hoa tôi cho trẻ tự nhận xét về mình. Trẻ nào ngoan tôi nêu gương ra cho cả lớp nhận xét và tặng cho trẻ 1 bông hoa cắm vào lọ hoa của mình. Và tôi thường kể cho trẻ nghe những câu truyện về những tấm gương tốt, nhằm kích thích trẻ học ngoan học giỏi. Trẻ thường hứng thú nghe cô kể chuyện và cố gắng học tập những tấm gương tốt trong câu truyện để được cô khen.
- KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Kết quả đặt được sau khi thực hiện đề tài:
Sau những biện pháp mà tôi đưa ra và đã thực hiện tôi thấy chất lượng giáo dục về lễ giáo tăng lên rõ rệt.
- Đối với giáo viên
Cô giáo được trau dồi thêm kiến thức hiểu sâu hơn về cách thức thực hiện chuyên đề lễ giáo cho trẻ.
- Đối với học sinh
Trước khi đưa ra sáng kiến này thì tôi thấy nề nếp các cháu còn chưa tốt (nhiều cháu xưng hô mất lịch sự, đến lớp chưa biết chào cô, chưa biết cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định…), nhưng từ khi tôi đưa sáng kiến này vào áp dụng ở lớp tôi thì tôi thấy các cháu có thói quen, hành vi tốt được tiến bộ một cách rõ rệt.
Các tiêu chí đánh giá | Trước khi áp dụng | Sau khi áp dụng |
– Trẻ biết chào hỏi lễ phép | 45% | 90% |
– Trẻ biết nhường nhịn bạn | 40% | 85% |
– Trẻ biết cảm ơn, xin lỗi | 40% | 90% |
– Trẻ biết giữ gìn vệ sinh | 35% | 85% |
– Trẻ biết lấy và cất đồ dùng đúng nơi quy định | 35% | 90% |
– Trẻ biết yêu quý vật nuôi, cây trồng | 55% | 95% |
– Trẻ thể hiện được tình cảm của mình với mọi người xung quanh | 50% | 90% |
Đó là điều làm cho tôi thấy phấn khởi, yêu nghề, mến trẻ giúp cho tôi có nghị lực hơn trong công tác.
Trẻ ngoan hơn lễ phép hơn: Biết chào hỏi khi có khách đến chơi, biết trao nhận bằng 2 tay, biết cảm ơn, xin lỗi, biết quan tâm giúp đỡ bạn bạn bè…
Các bậc phụ huynh thì có những biến chuyển rõ rệt về lời ăn tiếng nói và hơn nữa còn biết quan tâm ngày càng nhiều hơn đến con em mình.
- Cơ sở vật chất
– Nhà trường trang bị đồ dùng, đồ chơi mầm non tương đối đầy đủ.
– Giáo viên làm thêm một số đồ dùng, đồ chơi sáng tạo ở góc xây dựng:
Ở chủ điểm giao thông tôi đã làm 1 số PTGT như: Xe đạp, xe máy, ô tô… Ở góc bán hàng tôi đã làm thêm 1 số bánh trưng, bánh dầy, giò… ở chủ điểm tết và lễ hội mùa xuân…
– Đồ dùng, đồ chơi sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ.
– Nhà trường đã mua một số loại sách, tranh truyện về lễ giáo.
- Bài học kinh nghiệm
Từ những biện pháp mà tôi đã đưa vào để dạy trẻ tôi đã rút ra được nhiều bài học bổ ích như: cần tìm tòi sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh góc lễ giáo.
Phải thường xuyên thực hiện giờ nêu gương và kể truyện hàng tuần hoặc tổ chức văn nghệ để động viên trẻ.
Cô giáo phải thật sự là tấm gương sáng để trẻ noi theo, luôn giàu tình thương yêu, luôn chú ý trong mọi hành vi lời nói của mình đối với trẻ để tạo tâm lý thoải mái cho trẻ thực hiện tốt hành vi cũng như hoạt động giao tiếp nhằm giúp trẻ từng bước hình thành nhân cách của mình.
Trên đây là một số ý kiến của tôi vận dụng vào để dạy trẻ, để các bạn đồng nghiệp tham khảo và mọi người đóng góp thêm những ý kiến cho tôi.
Tôi luôn cố gắng phấn đấu, tìm tòi và học hỏi để tu dưỡng bản thân mình trở thành một người giáo viên gương mẫu.
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giao-duc-le-giao
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói rằng việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội, của nhà trường và của mỗi gia đình. Đối với việc giáo dục và phát triển kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non thông quac các hoạt động học cũng như hoạt động chơi, giao lưu của trẻ hàng ngày ở trường, trong gia đình giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển trẻ nhỏ về mọi mặt như: thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể lực và lao động. Thông qua các hoạt động hàng ngày như hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, giúp trẻ hoàn thiện hơn nhân cách cũng như kỹ năng sống của mình ngay từ lứa tuổi mầm non
Trong xã hội hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đã trở thành một nhu cầu thiết yếu. Bởi sự bùng nổ của thông tin, với những văn hóa không phù hợp thuần phong mỹ tục của dân tộc, với những suy thoái về đạo đức, với những đua đòi của thế hệ trẻ, cùng với những mặt trái của công nghệ thông tin, mặt trái của xã hội, với muôn ngàn cạm bẫy … giới trẻ hiện nay tiếp cận rất nhiều loại tác động, tốt có, xấu có, thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn bị đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực từ gia đình và xã hội.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo ” con người mới ” với đầy đủ các mặt: ” đức, trí, thể, mỹ “. Như Bác Hồ đã từng nói : “ Vì lợi ích 10 năm trồng cây – Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Sở dĩ Bác nói như vậy là để khẳng định một lần nữa với chúng ta rằng việc giáo dục trẻ để trẻ trở thành những công dân tốt cho xã hội cho đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu. Giáo dục kỹ năng sống trẻ lứa tuổi mầm non cũng vô cùng quan trọng, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế nào cho đúng. Ngay ở lứa tuổi mầm non trẻ đã bắt đầu nhận thức được thế nào là đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm…Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh, không những thế còn giúp cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm.
Để giúp trẻ có kỹ năng sống không có nghĩa là phải dạy trẻ những gì cao siêu vượt quá tầm hiểu biết của trẻ, mà chúng ta giúp trẻ trải nghiệm những hoạt động hàng ngày của một xã hội thu nhỏ như: làm việc, sinh hoạt, vận động, giao tiếp trong cuộc sống, xoay quanh bản thân, gia đình, và môi trường xã hội, những người lạ không quen biết. Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải mái trong đời sống xã hội, biết cách đối phó với những tình huống bất thường phát sinh hay không bị mất bình tĩnh trước những nguy cơ đột ngột,.. trẻ cần được học và rèn luyện ngay từ nhỏ, từ những bản năng tự nhiên như việc học ăn, học nói, học đi, đứng, ngủ nghỉ,.. đến việc học để có kiến thức và nhận thức về bản chất của cuộc sống, tôn trọng môi trường sống, môi trường thiên nhiên xung quanh ta, và giao tiếp, ứng xử trung thực, khôn ngoan, lịch sự với mọi người.
Giáo dục kỹ năng sống trên thực tế lớp C3 của tôi trẻ chưa được mạnh dạn tự tin, khả năng tự phục vụ kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ chưa đoàn kết, hợp tác trong khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi có hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra cho tôi. Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi đã chọn đề tài:” Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi tại trường mầm non Duyên Hà “
* Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi ở trường mầm non Duyên Hà.
Xây dựng một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi tại trường mầm non Duyên Hà.
* Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 -4 tuổi.
* Phạm vi áp dụng:
Lớp mẫu giáo bé C3 trường Mầm Non Duyên Hà – Thanh Trì – Hà Nội năm học 2013 – 2014.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giáo dục kỹ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Hiện nay, việc đưa giaó dục kỹ năng sống vào nhà trường, nhất là từ bậc học mầm non đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và mỗi nước có một phương thức giáo dục khác nhau. Tại Việt Nam thì việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào lứa tuổi mầm non cũng được chú trọng vào các năm gần đây.
Có thể nói rằng môi trường xã hội có tác động, ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Điều đó được biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với văn hoá và môi trường xung quanh. Vì vậy thế giới xung quanh trẻ luôn luôn muôn sắc màu. Trẻ sẽ nắm bắt và cảm nhận từ từ. Bởi vậy vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường và đặc biệt là cô giáo có vai trò quan trọng trong việc phát triển sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi nói riêng, việc dạy trẻ kỹ năng sống là rất cần thiết nhưng dạy trẻ kỹ năng gì? Dạy như thế nào? Thì người giáo viển phải biết lựa chọn nội dung cho phù hợp với lứa tuổi và nhận thức của trẻ như:
– Tự nhận thức bản thân là dạy trẻ tự nhận ra những sở trường, năng lực của bản thân.
– Kỹ năng hợp tác với bạn bè là dạy trẻ tham gia các hoạt động cùng các bạn, trẻ luôn biết nhường nhịn, cùng hợp tác với các bạn để hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất.
– Kỹ năng sống tự tin dạy trẻ luôn mạnh dạn, tự tin tham gia mọi hoạt động của trường, của lớp.
– Kỹ năng tự lập là dạy trẻ biết hành động một cách chủ động, năng động.
– Tính trách nhiệm là dạy trẻ biết hoàn thành công việc được giao.
– Kỹ năng quan hệ xã hội là dạy trẻ các mối quan hệ trong xã hội, biết giao tiếp và hòa hợp với mọi người
– Kỹ năng thích tò mò ham học hỏi, khả năng thấu hiểu là dạy trẻ biết tò mò, khám phá những điều mới lạ về mọi vật xung quanh. Qua đó, phát triển cho trẻ toàn diện về Đức, Trí, Thể, Mĩ.
- CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trường mầm non Duyên Hà nằm ven sông Hồng ngoài bãi. Trường được phân bổ ở 3 khu theo địa bàn dân cư 3 thôn trong xã.
Năm học 2013 – 2014 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo bé – C3. Lớp có 2 cô , 1 cô đạt trình độ trên chuẩn, 1 cô đang theo học đại học. Lớp có 25 cháu, 12 cháu nam , 13 cháu nữ trong đó có 2 cháu tự kỷ, trong số đó có nhiều trẻ được bố mẹ nuông chiều từ nhỏ dẫn đến tính ỷ lại và một số trẻ lại nhút nhát quá không tham gia vào các hoạt động của trường, của lớp
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/qyn2s77
Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ 5 – 6 tuổi
Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ 5 – 6 tuổi
– Trẻ lớp tôi có sự chuyển biến rõ nét về các hành vi văn minh của mình. Điều này chứng minh rằng qua các câu chuyện cùng với các phương thức sử dụng đa dạng,
linh hoạt đã giúp trẻ tiếp nhận kiến thức một cách hiệu quả. Quan trọng hơn là trẻ đã biết chuyển hóa từ kiến thức thành nhận thức, từ nhận thức thành hành động cụ thể.
– Khi thực hiện giáo dục hành vi văn minh cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua truyện kể lớp tôi được Ban giám hiệu đánh giá rất cao, lớp tôi được chọn làm điểm của trường về “Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ mầm non”.
– Các câu chuyện do tôi sáng tác nhằm giáo dục cho trẻ về hành vi văn minh cho trẻ mầm non được phổ biến rộng rãi trong trưởng.
– Những câu chuyện này khi được cung cấp cho phụ huynh, các bậc phụ huynh rất quan tâm, có sự trao đổi – phản hồi tích cực ngược trở lại với giáo viên tại lớp.
– Bản thân tôi đã đóng một số biện pháp trong việc giáo dục về hành vi văn minh cho kho tư liệu giảng dạy của Nhà trường.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Kết luận:
– Việc rèn luyện hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo là một trong những nhiệm vụ giáo dục toàn diện. Nó hình thành cho trẻ có những hành vi văn minh đối với người xung quanh. Đức tính này được hình thành vững chắc từ lứa tuổi mẫu giáo là lứa tuổi trẻ rất dễ nhạy cảm và nhanh chóng tiếp thu những điều học được ở trường và hình thành dấu ấn lâu dài. Góp phần xây dựng nền tảng ban đầu của nhân cách con người ở trường mầm non. Nhưng công việc thật không đơn giản. Trình độ nhận thức tiếp thu của mỗi cháu khác nhau, điều kiện hoàn cảnh sống từng gia đình mỗi cháu không đồng đều vì vậy qua quá trình thực hiện tôi nhân thấy muốn thực hiện tốt việc này, bản thân mỗi giáo viên cần phải có được.
– Văn học vốn là phương tiện hữu hiệu nhất, quen thuộc nhất đối với trẻ. Ngay từ khi còn rất nhỏ những câu chuyện dân cổ tích, vần thơ đã đem đến cho trẻ biết bao điều mới lạ. Văn học vì vậy mà cũng trở thành công cụ hữu hiệu của các nhà giáo dục để truyền tải kiến thức cho trẻ. Những kiến thức khô khan đôi khi có phần xa lạ đối với trẻ bỗng trở nên gần gũi, quen thuộc.
- Bài học kinh nghiệm:
– Thơ – truyện đã giúp trẻ thu thập được những kiến thức, những hiểu biết về các hành vi văn minh.
– Khi giáo viên khuyến khích động viện trẻ, biết khơi gợi ở trẻ sự tò mò trẻ sẽ rất thích thú tham gia hoạt động.
– Nếu giáo viên tạo điều kiện cho trẻ hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, nêu ra ý tưởng của mình đồng thời người giáo viên có phương pháp tốt để gợi ý giúp trẻ phát triển những ý tưởng để trẻ cùng với cô có thể sáng tác ra nhiều truyện. Qua đó, trẻ sẽ nhận ra những giá trị của bản thân, tự tin khi nhận các nhiệm vụ được giao. Mặt khác, các kiến thức đó cung cấp cho trẻ càng được khắc sâu, nhận thức của trẻ được nâng lên thành ý thức.
– Khi giáo viên có sự trao đổi tích cực với phụ huynh thông qua giao tiếp hàng ngày, bảng tuyên truyền và thông qua các tài liệu trực quan sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục. Phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo, đồng thời cô giáo đã góp phần tuyên truyền phổ biến kiến thức cho cộng đồng, vận động cộng đồng cùng chung tay hành động.
- Đề xuất – Khuyến nghị:
– Các cấp lãnh đạo tạo điều kiện tổ chức các lớp tập huấn về phương pháp giáo dục hành vi văn minh cho trẻ.
– Phòng giáo dục, nhà trường tổ chức kiến tập theo chuyên đề “Giáo dục hành vi văn minh cho trẻ”.
Trên đây là một số biện pháp của tôi đã triển khai thực hiện. Tôi đã áp dụng thành công ở lớp A1 – trường Mầm non B thị trấn Văn Điển và thu được kết quả tốt. Rất mong nhận được sự góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để đề tài này ngày một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/giaoductrevanmimh
Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo
Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh thời, Bác Hồ kính yêu vẫn luôn nhắc nhở đồng bào phải: “Cần, kiệm, liêm, chính”. Trong bốn đức tính đó, đức tính kiệm tức là tiết kiệm chiếm phần khá là quan trọng. Điển hình là phong trào tiết kiệm toàn dân mỗi ngày một năm gạo. Một nắm gạo tưởng chừng nhỏ nhoi nhưng khi được sự đồng lòng của cả dân tộc ấy lại cực kỳ quan trọng. Nắm gạo nuôi những anh bộ độ anh hùng, nuôi kháng chiến lâu dài và đặc biệt là nuôi niềm tin chiến thắng của cả dân tộc
Đến thời nay, tiết kiệm cũng vẫn luôn được coi là chủ chương hàng đầu trong toàn Đảng, toàn dân tộc. Tiết kiệm điện, nước, nguyên liệu, chất đốt, tiền bạc….không chỉ là tiết kiệm cho bản thân mình, vì quyền lợi của mình mà còn là làm lợi cho xã hội, cho đất nước. Như phong trào tiết kiệm hưởng ứng giờ trái đất, tiết kiệm toàn dân….
Thực tế đối với bậc học mầm non, tiết kiệm cũng đã, đang và luôn là vẫn đề cấp thiết. Không chỉ đối với giáo viên, nhân viên mà đối với trẻ mầm non cũng cần phải hiểu rõ và nâng cao ý thức tiết kiệm. Điều này vô cùng quan trọng trong đời sống của trẻ. Bởi khi đứa trẻ có ý thức tiết kiệm trong mọi hành động, thì ý thức đó sẽ khắc sâu vào cuộc sống của trẻ. Qua đó tạo nền tảng hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Thế nhưng để dạy một đứa trẻ nhỏ nhất là lại đang ở lứa tuổi mầm non, khi mà khả năng chú ý còn hạn chế, hay nhớ hay quên thì là là một vấn đề không nhỏ. Bởi đối với trẻ mầm non, tiết kiệm còn là một phạm trù “mới ”. Đa số trẻ được sống trong tình thương yêu của gia đình, được đáp ứng đầy đủ thậm chí là dư thừa về vật chất và tình cảm. Vì thế tiết kiệm với trẻ mầm non còn mông lung và chưa sát thực. Cho nên còn nhiều tình trạng trẻ mầm non chưa có ý thức và hành động đối với vấn đề tiết kiệm .
Tại trường mầm non B thị trấn Văn Điển, toàn thể nhà trường luôn nâng cao ý thức và trách nhiệm trong mọi vấn đề về tiết kiệm điện nước, năng lượng…Nhưng thực tế tôi nhận thấy con nhiều tình trạng trẻ còn chưa hiểu, chưa ý thức được nên không thể có những hành động phù hợp. Từ thực trạng trên , tôi đã trăn trở làm thế nào để dạy trẻ mầm non đức tính tiết kiệm nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách trẻ. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non” làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này.
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/Cơ sở lí luận.
Tiết kiệm có thể hiểu: Tiết là giảm bớt, hạn chế , kiệm là dành dụm không lãng phí xa hoa.
Tiết kiệm đối với trẻ mầm non cũng tương tự như vậy, nhưng nó đơn giản hơn và gắn liền với những hành động như: biết sử dụng đúng các đồ dùng, đồ chơi, giữ gìn đồ dùng, đồ chơi chung ở lớp, ở nhà, khi ăn phải ăn hết xuất, khi rửa tay chăn mặt mũi thì phải vặn nước sao cho vừa phải tránh gây lãng phí…vv
Sự phát triển về nhân cách của trẻ nói chung trong đó có yếu tố tính cách như tính tiết kiệm nói riêng là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của trẻ
Với trẻ 4-5 tuổi mọi suy nghĩ và hành động chịu ảnh hưởng lớn từ người lớn, nhất là những người gần gũi hằng ngày với trẻ như bố mẹ và cô giáo. Khi người lớn định hướng, dạy trẻ ngay từ tấm bé, tạo cho trẻ cảm giác thoải mái tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên nhất thì đứa trẻ đó chắc chắn sẽ được phát triển tốt. Bên cạnh đó, khi dạy trẻ đức tính tiết kiệm, người lớn cần cũng cần dạy cho trẻ hiểu rõ bản chất của việc tiết kiệm: tiết kiệm với trẻ là gì? Tiết kiệm để làm gì? Và Tiết kiệm như thế nào? Khi trẻ hiểu được bản chất của sự việc thì lúc đó ý thức tiết kiệm của trẻ bắt đầu hình thành và phát triển.
Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tinh thần và ý thức tiết kiệm không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần, hình thành thói quen tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi. Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi dạy trẻ phải có phương pháp, thời gian và luôn là tấm gương đối với trẻ
Yêu cầu này cũng đòi hỏi trẻ phải có kiến thức, hiểu rõ được bản chất của việc tiết kiệm dần hình thành thói quen trong mọi sinh hoạt. Điều này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ thống do được củng cố thường xuyên hàng ngày. Từ những cơ sở lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non B thị trấn Văn Điển”
II/Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Năm học 2012 – 2013 tôi được phân công phụ trách lớp mẫu giáo nhỡ B3. trong quá trình thực hiện dạy trẻ tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau
1/ Thuận lợi:
– 4/4 giáo viên phụ trách lớp có trình độ chuyên môn trên chuẩn, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Có lòng say mê với nghề, luôn tự tìm tòi, học hỏi, phấn đấu để tìm ra những phương pháp, hình thức dạy phù hợp, sáng tạo và hấp dẫn trẻ nhằm kích thích trẻ tự trải nghiệm, học hỏi từ đó lĩnh hội tri thức một cách nhanh chóng và sâu sắc
– Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, đầu tư tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất
– Trẻ đi học tương đối đều, được làm quen và củng cố thường xuyên nên đã thành hệ thống, dần hình thành thói quen tiết kiệm tài sản của công, của cá nhân mọi lúc, mọi nơi
– Phụ huynh luôn tin tưởng và ủng hộ trong các hoạt động.
2/ Khó khăn:
– Số trẻ trong lớp quá đông, trong đó có một số trẻ mới đi học chưa có nề nếp học tập cũng như kiến thức của trẻ còn hạn chế, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động đưa trẻ vào nề nếp cũng như dạy trẻ hiểu rõ và hình thành thói quen tiết kiệm cho trẻ.
– 100% trẻ trong lớp đều là con gia đình có một đến hai con, được đáp ứng đầy đủ về vật chất và tinh thần, thậm chí có trẻ còn luôn được đáp ứng tới mức dư thừa. Nên trẻ chưa có khái niệm cũng như thói quen tiết kiệm kể cả của riêng hay của chung
– Để khắc phục và giải quyết thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp như sau
III/ Những biện pháp thực hiện:
- Dạy trẻ nhận biết giá trị của hiện vật, giá trị của việc tiết kiệm
Mỗi một đồ vật hay sự vật đều có giá trị về mặt vật chất hay tinh thần. Khi trẻ hiểu và coi trọng giá trị đó thì trẻ mới có ý thức giữ gìn và tiết kiệm khi sử dụng đồ vật đó.
Mục đích của biện pháp này nhằm giúp trẻ hiểu, nhận biết được giá trị của các đồ vật mà mình đang sử dụng, hay nhận biết được giá trị của việc khi trẻ có ý thức và hành động tiết kiệm cụ thể thì sẽ mang lại những ích lợi như thế nào đối với bản thân và tập thể
Cách thực hiện: Tôi luôn chú ý dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi và thích hợp để trẻ hiểu đước giá trị của mọi đồ vật xung quanh trẻ ở trường, lớp, gia đình… Từ đó hình thành ý thức bản ngã đối với trẻ. Tinh thần tiết kiệm trở thành thói quen trong mọi hoạt động thường ngày.
Ví dụ: Trong giờ chơi, tôi trò chuyện với trẻ về những đồ chơi mà trẻ sẽ chọn: Vì sao mà con lại chọn đồ chơi đó? Đồ chơi ngoài trời mầm non đó do đâu mà có? Nếu không giữ gìn thì điều gì sẽ xảy ra?….Qua những buổi nói chuyện như vậy trẻ sẽ hiểu ý thức giữ gìn, tiết kiệm những đồ chơi ở lớp, ở nhà. Không chỉ để lần sau có để chính bản thân trẻ chơi tiếp mà còn giúp cho người lớn không phải bỏ tiền mua đồ chơi khác để thay thế.
Hay qua các giờ thể dục sáng: Tôi trò chuyện để trẻ hiểu và có ý thức giữ gìn nơ thể thể dục sao cho không bị hỏng. Bởi mỗi một chiếc nơ không chỉ là nhà trường phải bỏ tiền mua ruy băng mà con là công sức các cô khâu nên để cho các con có dụng cụ để tập thể dục giúp các con khỏe mạnh mỗi ngày. Vì thế các con phải có ý thức giữ gìn, không là mất mát, hay hỏng hóc… Như thế chính là hành động tiết kiệm thiết thực cho tập thể lớp B3 chúng mình.
Hay thông qua các hoạt động học: Tôi chú ý trò chuyện và giáo dục trẻ giữ gìn đồ dùng học tập như sách vở, bút sáp, lô tô học tập, giấy A4 tận dụng sử dụng cả hai mặt… Bởi khi trẻ có ý thức giữ gìn đồ dùng học tập thì đó là trẻ đang góp phần tiết kiệm cho chính bản thân trẻ và cho tập thể lớp.
Hay trong các giờ ăn: Giáo dục trẻ ăn hết suất cũng là một hình thức dạy trẻ đức tính tiết kiệm. Thông qua đó trẻ hiểu nếu trẻ ăn hết suất không chỉ chống lãng phí về vật chất mà còn không làm lãng phí công sức các cô nuôi vất vả nấu những bữa ăn ngon cho trẻ…
Giáo dục trẻ ăn hết suất cũng là một hình thức tiết kiệm
Có thể nói, biện pháp này tuy đơn giản nhưng lại rất có hiệu quả trên trẻ. Giúp trẻ hiểu rõ bản chất của vấn đề, từ đó dần hình thành thói quen, ý thức và trách nhiệm tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi.
Kết quả: sau khi thực hiện biện pháp này tôi thấy kết quả đạt được trên trẻ như sau:
– Trẻ nhận biết được giá trị của các đồ dùng, đồ chơi, các hiện vật xung quanh trẻ.
– Trẻ nhận thức được giá trị của việc tiết kiệm qua đó thể hiện bằng những hành động cụ thể như: Sử dụng giữ gìn đồ dùng, đồ chơi, tận dụng những phế liệu như giấy một mặt…
- Đặt ra mục tiêu tiết kiệm, nêu gương và hưởng ứng các phong trào tiết kiệm
Một nguyên tắc mang tính quyết định chính là đặt ra mục tiêu tiết kiệm. Không có nó sẽ dẫn đến trẻ không hiểu tiết kiệm để làm gì? Bên cạnh đó việc nêu gương các cá nhân hay tập thể sẽ kích thích trẻ tạo cho trẻ không khí thi đua, tích cực hưởng ứng các phong trào.
Mục đích của biện pháp này là nhằm giúp trẻ hiểu rõ: Tiết kiệm để làm gì? Qua đó trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động cá nhân hay phong trào của tập thể… từ đó khắc sâu hơn ý nghĩa của việc tiết kiệm đối với trẻ. Góp phần hình thành và phát triển nhân cách đúng đắn của trẻ
Cách làm: Ngay từ đầu năm học, tôi luôn chú ý dạy trẻ ý nghĩa của những hành động tiết kiệm và trò chuyện cùng trẻ, gợi ý và cùng phối hợp với trẻ đặt ra những mục tiêu tiết kiệm đối với trẻ, đối với lớp.
Đối với cá nhân trẻ: là luôn giữ gìn đồ dùng cá nhân như quần áo, vở, bút, không là hỏng vở, rách vở, gãy bút sáp…
Đối với lớp: Giữ gìn đồ dùng đồ chơi chung, không ném, không làm hỏng, dùng nước tiết kiệm, tắt thiết bị điện khi không cần thiết (đối với cô giáo), nhắc nhở bạn bè và người thân về ý thức tiết kiệm…
Bên cạnh đó việc nêu gương cũng vô cùng quan trọng. Tùy mức độ và thời điểm tôi chọn hình thức khen ngợi động viên trẻ ngay sau kết quả đạt được hay vào cuối ngày, cuối tuần.
Một số biện pháp giáo dục đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo
Tôi cũng luôn chú trọng trong việc khích lệ, cổ vũ trẻ cùng tham gia hưởng ứng các phong trào tiết kiệm không chỉ phạm vi trường lớp mà còn mở rộng phạm vi xã hội
– Ví dụ: với phong trào tiết kiệm giờ trái đất ngày 23/3/2013, ngoài việc chuẩn bị tâm lý háo hức hưởng ứng cho trẻ như: trò chuyện từ trước về ý nghĩa của việc tham gia hưởng ứng. Giờ trái đất là một sự kiện hàng năm về việc tiết kiệm năng lượng. Vào ngày này mọi công dân trên thế giới đề hưởng ứng bằng những hành động cụ thể như: tắt đèn, thiết bị điện trong một khoảng thời gian nhất định, hay đi xe đạp để tiết kiệm nhiên liệu… với mục đích tiết kiệm vì môi trường, xã hội. Qua ngày có phong trào này tôi còn trò chuyện hỏi trẻ: Con đã làm gì? Gia đình con có tham gia không? Tham gia như thế nào?Vì sao phải tham gia?…
Kết quả: Thông qua biện pháp này, tôi nhận thấy:
Trẻ tiếp thu và khắc sâu ý nghĩa và mục đích của các hành động tiết kiệm, từ đó trẻ tích cực tham gia vào các phong trào mang ý nghĩa tiết kiệm.
Trẻ có ý thức trong việc tiết kiệm như: Biết giữ gìn tài sản cá nhân và của lớp: như đồ dùng, đồ chơi của lớp, biết chú ý dùng cẩn thận các trang thiết bị trong lớp như: Vòi nước, đóng mở cửa nhẹ nhàng…
Tiết kiệm đã trở thành thói quen trong tính cách của trẻ.
- Sử dụng các tình huống
Các tình huống bao giờ cũng gây được cho trẻ ấn tượng và hấp dẫn đối với trẻ. Qua đó kiến thức trẻ tiếp thu được một cách nhẹ nhàng và bền lâu
Mục đích: Tạo ấn tượng với trẻ giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gò bó. Từ đó củng cố thêm chuẩn mực về tiết kiệm. Hình thành ở trẻ ý thức tiết kiệm theo hướng tích cực
Cách làm: Tôi tổ chức cho trẻ được tham gia và trải nghiệm vào các tình huống thật (do cô giáo hoặc trẻ đóng). Hoặc các tình huống thông qua tranh ảnh để trẻ tự mình phát hiện ra trong các tình huống đó có hành động nào phù hợp hay không phù hợp. Hoặc kết hợp các tình huống thông qua hoạt động học, hoạt động chơi.
Ví dụ:
– Cho trẻ quan sát các tình huống thật có sự tham gia của cô hoặc trẻ:
- Trong giờ học:
Trẻ A- Chăm chỉ tô tranh trong vở tập vẽ | Trẻ BLàm vở nhàu nhĩ, xé vở để lấy giấy gấp đồ chơi, bẻ màu sáp |
- Trong giờ chơi:
Trẻ A- Chơi cẩn thận, không tranh giành | Trẻ B- Ném đồ chơi, làm hỏng đồ chơi |
- Trong giờ rửa tay
Trẻ A- Vặn vòi nước quá to, nghịch nước, té nước, làm ướt xung quanhd. Trong giờ ngủ | Trẻ B- Vặn vòi nước vừa phải, rửa tay đúng cách |
Trẻ A- Ngủ ngoan | Trẻ B- Khó ngủ, nghịch dứt dây chiếu khiến chiếu bị rách |
Qua quan sát trẻ sẽ phát hiện nhanh các hành động đúng và hành động sai.Vì sao đúng? Vì sao sai? Lợi ích mang lại của các hành vi đúng. Qua đó giáo dục trẻ nhận thức được các hành vi đúng không những giúp trẻ tiết kiệm cho bản thân, tập thể mà còn giúp trẻ tự nhận ra trách nhiệm của bản thân về tinh thần tiết kiệm
Hay tôi tổ chức các trò chơi có sử dụng các tình huống thật hoặc tranh ảnh có các tình huống
Ví dụ: Trò chơi: Thi xem đội nào nhanh
Chuẩn bị: Lô tô, tranh ảnh có các hành vi đúng, hoặc sai về tiết kiệm
Cách chơi: Trò chơi bắt đầu và kết thúc bằng một bản nhạc, thi theo hình thức tiếp sức. khi bản nhạc bắt đầu bạn đầu hàng sẽ lên lấy một tranh chưa hành động đúng (hoặc theo yêu cầu) gắn lên bảng, rồi về đập tay bạn tiếp theo, bạn tiếp theo sẽ lên tiếp. Cứ thế cho đến khi kết thúc bản nhạc thì trò chơi kết thúc.
Luật chơi: mỗi lượt bạn lên chơi chỉ được lấy một tranh. Đội nào có nhiều kết quả đúng đội đó giành chiến thắng
Thông qua trò chơi kết hợp với các tình huống trẻ hứng thú tiếp thu kiến thức. Từ đó củng cố thêm, trẻ tự ý thức được trách nhiệm trong hành vi của mình hướng đến những hành vi đúng mang tính tiết kiệm, có lợi cho tập thể và cá nhân…
- Dạy trẻ đức tính tiết kiệm thông qua hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là hoạt động nằm ngoài chương trình học chính khóa. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung các kĩ năng và kinh nghiệm sống cho trẻ, góp phần giúp trẻ phát triển nhân cách, dần trở thành một con người toàn diện hơn.
Mục đích: Giúp trẻ được trải nghiệm qua các hoạt động ngoại khóa. Từ đó trẻ ghi nhớ lâu hơn. Thông qua hoạt động ngoại khóa sẽ kéo từ lý luận đến thực tiễn. Từ những lý thuyết cô cung cấp, trẻ được thực hành, được tự mình trải nghiệm, qua đó trẻ sẽ nhớ lâu, nhớ sâu.
Cách làm: Trong các hoạt động ngoại khóa, tôi luôn chú ý lồng ghép, dạy trẻ tinh thần tiết kiệm, ý thức trong mọi hành động.
Ví dụ: Trong hoạt động cùng trẻ phân loại rác, sưu tầm và thực hiện làm đồ chơi trong lớp mầm non từ phế liệu:
Khi tổ chức hoạt động này tôi cùng trẻ trò chuyện từ trước về nguồn gốc của các loại phế liệu, cách xử lý sao cho phù hợp mà vẫn đảm bảo tính tiết kiệm và bảo vệ môi trường không bị ảnh hưởng. Trong đó cách xử lý tận dụng tái chế phế liệu được xem là tốt nhất, những loại phế liệu nào có thể tái chế… Qua những buổi trò chuyện như vậy tôi tổ chức một buổi phân loại rác nhỏ tại sân trường ( Rác do cô đã chuẩn bị từ trước). Kết hợp cùng trẻ sưu tầm những phế liệu, đồ cũ… từ đó tập trung lại. Từ những phế liệu như vỏ hộp, vỏ trai, ngao… tôi cùng trẻ làm ra những đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho nhu cầu của lớp, của bản thân trẻ
Cô cùng trẻ làm đồ dùng, đồ chơi từ phế liệu
Ở hoạt động này, trẻ không chỉ hứng thú, kích thích óc sáng tạo vì được tự mình là ra những đồ dùng, đồ chơi có ích và hấp dẫn đối với trẻ mà qua đó ý thức tiết kiệm và bảo vệ môi trường được củng cố
- Cô giáo luôn là tấm gương đối với trẻ
Đối với trẻ 4 – 5 tuổi, suy nghĩ và hành động đa số ảnh hưởng từ người lớn. Một ngày trẻ ở trường 8 – 10 tiếng với cô giáo. Được cô chăm sóc từ bữa ăn, giấc ngủ đến các hoạt động học tập và vui chơi nên cô giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ. Biện pháp này tuy đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả, bởi với trẻ mầm non luôn coi cô giáo là chuẩn mực trong mọi việc
Mục đích của biện pháp này là giúp trẻ củng cố thêm về chuẩn mực hành động tiết kiệm đồng thời kích thích trẻ tự đặt ra mục tiêu hành động theo chuẩn mực đó. Từ đó dần hình thành thói quen tiết kiêm
Cách làm: Tôi luôn chú ý cố găng là tấm gương tiết kiệm trong mọi hoạt động để trẻ noi theo. Bởi tôi nhận thức rằng khi cô giáo luôn ý thức tiết kiệm trong mọi hoạt động trước trẻ thì đương nhiên trẻ thấy rằng tiết kiệm là việc đúng đắn và trẻ luôn cố gắng làm giống cô giáo. Lâu dần sẽ hình thành thói quen tiết kiệm đối với trẻ
Ví dụ: Trong hoạt động khâu lại những mép chiếu đã bị rách (bởi những trẻ khó ngủ, ngủ muộn rất thích nghịch như việc dứt dây chiếu, nan chiếu), bên cạnh việc cho trẻ chứng kiến, quan sát, tôi trò chuyện để trẻ thấy rằng việc khâu lại vừa giúp nhà trường không phải đầu tư mua thay thế vừa để chiếu không bị rách thêm. Tuy nhiên các con phải chú ý không nghịch dứt dây chiếu dẫn đến hỏng chiếu thì sẽ không có chiếu để ngủ mà còn gây lãng phí tiền bạc của nhà trường và lãng phí công sức của các cô. Qua đó trẻ sẽ hiểu và ý thức không đùa nghịch, dứt chiếu trong giờ ngủ.
Cô và trẻ cùng khâu lại mép chiếu bị rách
Hay trong việc tiết kiệm năng lượng điện, nước… Tôi luôn chú ý dạy trẻ và làm gương trong những hành động tiết kiệm như phải biết vặn vòi nước vừa phải khi rửa tay chân, rót nước uống vừa đủ lượng mình uống để tránh gây lãng phí, tắt điện khi không cần thiết …
Trẻ có ý thức sử dụng tiết kiệm nước sinh hoạt
Kết quả: – 100% trẻ hiểu và ý thức được chuẩn mực hành động tiết kiệm
– Trong lớp không còn tình trạng trẻ nghịch phá đồ dùng đồ chơi: như dứt dây chiếu trong giờ ngủ, ném đồ dùng, đồ chơi
– 100% trẻ có thói quen tiết kiệm trong các hoạt động ví dụ như: sử dụng giấy tận dụng cả hai mặt, giữ gìn đồ dùng của chung…
- Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Biên pháp này là biện pháp thường nhật chúng ta hay sử dụng nhưng lại mang lại kết quả cao.
Mục đích: Thông qua trao đổi với phụ huynh, cô giáo có thể nắm bắt được tình hình của trẻ qua đó đánh giá một cách khách quan về trẻ từ đó có những biện pháp thích hợp với mỗi cá nhân trẻ
Cách thực hiện: Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực dạy trẻ đức tính tiết kiệm, đặc biệt là thông qua các hoạt động tiết kiệm dần hình thành tính cách tự giác nơi trẻ góp phần phát triển nhân cách trẻ ngày càng hoàn thiện.
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng, qua các buổi trò chuyện trực tiếp. Qua đó phụ huynh thấy được tinh thần tiết kiệm của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích tính tự giác trong các hành động tiết kiệm của trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Huy động phụ huynh cùng sưu tầm các vật liệu, phế liệu hoặc thu nhập những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như: vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút xốp…kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh
Tuyên truyền với phụ huynh thông qua giờ đón trả trẻ
Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng trong việc dạy trẻ đức tính tiết kiệm để trẻ phát triển ngày càng toàn diện hơn
- KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Kết quả:
Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Về bản thân:
-Tôi thấy mình đã nâng cao được tinh thần tiết kiệm cho bản thân, cho tập thể cũng như trong việc dạy trẻ đức tính tiết kiệm
-Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ đức tính tiết kiệm, tạo tiền đề cho một thế hệ trẻ mầm xanh của tổ quốc, không chỉ trong phạm vi gia đình, nhà trường mà còn vì cả cộng đồng chung
- Về trẻ:
Nội dung | Trước khi thực hiện | Sau khi thực hiện |
Nhận thức được ý nghĩa và vai trò của việc tiết kiệm | 25% | 95% (Tăng 70%) |
Nhận thức được mục đích của việc tiết kiệm | 25% | 95% (Tăng 70%) |
Có hành động cụ thể trong việc tiết kiệm | 20% | 90% (Tăng 70%) |
Tích cực, hứng thú tham gia các phong trào tiết kiệm | 15% | 80 (Tăng 65%) |
- Về phụ huynh:
– Nhận thức ra được tầm quan trọng của việc dạy trẻ tiết kiệm thông qua các hoạt động
– Cùng phối hợp với giáo viên trong mọi hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển ngày một hoàn thiện
- Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên tôi đã rút ra nhưng bài học kinh nghiệm sau:
– Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường tốt cho trẻ hoạt động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm xúc cho trẻ khi dạy trẻ đức tính tiết kiệm
– Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ tinh thần tự giác trong các hoạt động.
– Khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động tiết kiệm mang tính tập thể nhằm giúp trẻ hình thành tính cộng đồng.
– Cho trẻ quan sát sự kiện, truyền thông nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ; kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của đức tính tiết kiệm và nói lên nhận xét của mình
- Kết luận
Dạy trẻ mầm non đức tính tiết kiệm là một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đáp ứng nhu cầu về thực trạng xã hội, đòi hỏi cô giáo phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm “Một số biện pháp dạy trẻ đức tính tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non” tôi xin giới thiệu để chị em đồng nghiệp cùng`tham khảo và đóng góp thêm ý kiến để giúp tôi có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy
Nguồn: Thiết bị giáo dục hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/daytretietkiemtien
Xin chân thành cảm ơn!
Giáo dục trẻ mầm non giữ gìn vệ sinh môi trường
Giáo dục trẻ mầm non giữ gìn vệ sinh môi trường
ĐẶT VẤN ĐỀ
“Tất cả vì một thế giới ngày mai – Hãy chung tay bảo vệ môi trường”.
Môi trường là nơi nuôi dưỡng con người cả về thể chất lẫn tinh thần, nhưng cũng chính con người trong quá trình tồn tại và phát triển đã khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Mỗi năm trên thế giới có hàng vạn người chết vì các loại dịch bệnh do nguồn nước bị ô nhiễm và môi trường mất vệ sinh gây ra. Một trong các nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người. Vì vậy, hiểu biết về môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường trở thành một vấn đề cấp bách, có tính chiến lược toàn cầu .
“ Giữ gìn vệ sinh môi trường góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống là trách nhiệm của mỗi chúng ta“. Mỗi chúng ta ai cũng nhận thức được tầm quan trọng của sức khỏe đối với bản thân, không có sức khỏe con người sống đâu- còn ý nghĩa. “Người khỏe mạnh thì có trăm điều ước, người đau ốm thì chỉ ước một điều” chắc hẳn ai cũng đoán được điều ước đó là có sức khoẻ. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để mỗi người đều có một sức khỏe tốt, ngoài những yếu tố về dinh dưỡng, thể dục thể thao tinh thần thoải mái thì môi trường sống trong sạch đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Vậy môi trường sống trong sạch là gì? Làm thế nào để có môi trường trong sạch? Mỗi chúng ta đã đóng góp được gì để cho môi trường ngày càng trong sạch hơn? Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của mỗi cá nhân chúng ta.
Ngày nay, giáo dục bảo vệ môi trường đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ ở các trường học và được quan tâm ngay từ bậc học đầu tiên: “ Giáo dục mầm non”.
Giáo dục bảo vệ môi truờng cho trẻ mầm non là cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu về môi trường sống của bản thân nói riêng và của con người nói chung, biết cách sống tích cực với môi trường. Mục đích của giáo dục bảo vệ môi trường là hình thành cho trẻ có thói quen tốt biết sắp xếp đồ dùng đồ chơi trong lớp và ngoài trời gọn gàng ngăn nắp, biết bỏ rác đúng nơi qui định, biết chăm sóc cây xanh và chăm sóc con vật nuôi, hình thành cho trẻ có thái độ thiện cảm bảo vệ môi trường, biết được hành vi xấu như vứt rác bừa bãi nơi công cộng, vẽ bẩn lên tường, dẫm đạp lên cây xanh…Bên cạnh đó giúp cho các bậc phụ huynh và cộng đồng có kiến thức cơ bản về giáo dục bảo vệ môi trường và tích cực tham gia vào các hoạt động làm “ Xanh- sạch – đẹp” cho đất nước và cho thế hệ mai sau
Trên thực tế, ở trường mầm non xã Yên Mỹ nói chung và lớp mẫu giáo lớn (A2) nói riêng vấn đề giáo dục môi trường cho trẻ mầm non còn hạn chế, chưa phát huy hết được việc cho trẻ hiểu về môi trường, được quan sát, tiếp cận, làm các trải nghiệm thực tiễn.Ở lớp, tôi nhận thấy có một số phụ huynh chưa quan tâm đến vấn đề môi trường của trường/ lớp, gia đình. Còn học sinh thì chưa tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường như: vệ sinh thân thể, sắp xếp đồ dùng đồ chơi, giữ gìn lớp học sạch sẽ, chăm sóc cây, thu gom lá, rác thải ngoài sân trường…Ví dụ như ăn kẹo hoặc ăn bánh xong không vứt ngay
vỏ vào thùng rác mà vứt dấu vào một xó kín đáo hay nhìn thấy vỏ bim bim, vỏ hộp sữa ngoài sân trường không nhặt bỏ vào thùng rác đúng nơi qui định…
Là một giáo viên hàng ngày đang trực tiếp giáo dục những thế hệ tương lai của đất nước, tôi nhận ra một điều thật quan trọng trong công việc của mình là cần phải giáo dục cho trẻ ngay từ bậc học mầm non ý thức bảo vệ môi trường. Điều này là vô cùng quan trọng trong đời sống của trẻ sau này, vì khi trẻ có ý thức bảo vệ môi trường sẽ khắc sâu vào cuộc sống của trẻ, qua đó tạo nền tảng hình thành nhân cách cho trẻ vững chắc sau này. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc học mầm non, ngay từ đầu năm học tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ”.
*Mục đích của đề tài này:
Đánh giá thực chất, chất lượng việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5- 6 tuổi tại trường mầm non Yên Mỹ có ý thức bảo vệ môi trường.
Tìm ra những biện pháp hay, sáng tạo để lồng ghép bảo vệ môi trường cho trẻ nhằm hình thành cho trẻ những thói quen tốt lao động tự phục vụ: lau dọn, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi gọn gàng, không vứt rác, vứt đồ chơi bừa bãi, biết chăm sóc cho cây: lau lá, tưới nước , nhổ cỏ… . Hình thành cho trẻ có thái độ thiện cảm bảo vệ môi trường biết được hành vi nên làm, không nên làm.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là:
Các biện pháp giáo dục cho trẻ từng bước nhằm hình thành ở trẻ những ấn tượng tốt trong việc “ bảo vệ môi trường xanh- sạch – đẹp.”
* Phạm vi áp dụng:
Lớp A2 mẫu giáo lớn trường mầm non Yên Mỹ trong năm học 2012- 2013.
* Kế hoạch nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu 9 tháng (bắt đầu từ tháng 9/2012 đến cuối tháng 4/2013)
* Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lý luận:
– Phương pháp điều tra thực trạng:
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
– Phương pháp quan sát :
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng cao ảnh hưởng đến kinh tế và cuộc sống con người rất lớn. Do đó biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được xem là vấn đề cần thiết và cấp bách nhất hiện nay, không chỉ của một cá nhân, một trường học quan tâm mà vấn đề của cả nước Việt Nam nói riêng và cả thế giới nói chung. Vì vậy ta nên giáo dục con người nhận thức việc bảo vệ môi trường ngay từ còn nhỏ và trường mẫu giáo là nơi lý tưởng để phát huy vấn đề này.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất và có tính bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đất nước. Thông qua giáo dục, mà từng người và cộng đồng được trang bị kiến thức về môi trường, ý thức bảo vệ môi trường, năng lực phát hiện và xử lý vấn đề môi trường.
Mục đích giáo dục bảo vệ môi trường không chỉ làm cho mọi người hiểu rõ cần thiết phải bảo vệ môi trường mà quan trọng là phải có thói quen, hành vi ứng xử văn minh, lịch sự với môi trường, điều này phải được hình thành trong một quá trình lâu dài và phải bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một lĩnh vực giáo dục liên ngành, vì vậy được triển khai theo phương pháp tích hợp. Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường được tích hợp lồng ghép vào các hoạt động giáo dục, hoạt động vui chơi, khám phá khoa học…thông qua chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở trường hình thành cho trẻ có thói quen, hành vi ứng xử văn minh, lịch sự với môi trường ngay từ lứa tuổi mầm non.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể và nhiệm vụ trọng tâm của năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục cũng như biện pháp để hoạt động này mang đến hiệu quả nhất định, góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm chung:
Trường mầm non Yên Mỹ nằm trên địa bàn xã Yên Mỹ – Thanh Trì – Hà Nội, năm học 2011- 2012 trường đã đạt trường tiên tiến xuất sắc cấp thành phố và được thành phố công nhận thực hiện tốt phong trào “ Trường học thân thiện – học sinh tích cực”.
Trường được xây dựng khang trang, có khung cảnh sư phạm môi trường sạch đẹp, trồng nhiều cây xanh, cây cảnh, cải tạo các vườn rau, phân khu hợp lý và luôn đảm bảo là ngôi trường xanh- sạch- đẹp. Nhà trường có đủ điều kiện về cơ sở vật chất chăm sóc giáo dục trẻ.
Với qui mô toàn trường có 10 lớp học: 2 lớp MG lớn, 3 lớp MG nhỡ, 2 lớp MG bé và 3 lớp NT. Toàn trường có tổng số 42 đồng chí CB- GV- NV và 350 cháu ở các độ tuổi.
Năm học 2012- 2013 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp Mẫu giáo lớn A2 với số trẻ là 51 cháu, trong đó có 30 cháu nam và 21 cháu nữ.
Lớp có 3 cô giáo đạt trình độ trên chuẩn và luôn chú tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ, trang trí lớp phù hợp với chủ đề, tạo môi trường lớp học gần gũi hấp dẫn trẻ. Cô và trò luôn quan tâm đến vấn đề vệ sinh môi trường, vệ sinh cơ thể và có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường.
Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tôi thấy có một số thuận lợi và khó khăn như sau:
2.Thuận lợi:
Phòng giáo dục đào tạo huyện cùng BGH nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn về các chuyên đề giáo dục bảo vệ môi trường.
BGH nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các buổi hội thảo các chuyên đề. Trang thiết bị dạy và học được BGH nhà trường đầu tư đầy đủ, và luôn quan tâm giúp đỡ khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo của giáo viên, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện thực hiện các hoạt động cho trẻ.
Môi trường lớp học sạch sẽ, thoáng mát tạo điều kiện cho trẻ có một môi trường học tập tốt.
Nhà trường đầu tư nhiều thùng rác có nắp đậy đặt ở nhiều chỗ trong sân trường để thuận lợi cho cháu và phụ huynh bỏ rác. Nhà trường quan tâm đến việc vệ sinh môi trường, vệ sinh cơ thể trẻ tạo điều kiện cho trẻ tham gia hoạt động.
Giáo viên có năng lực sư phạm nhiệt tình, có trách nhiệm, yêu nghề mến trẻ phối hợp ăn ý trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, có tinh thần học hỏi ở bạn bè, đồng nghiệp, có năng lực sư phạm.
Qua 15 năm trực tiếp đứng lớp chăm sóc và giáo dục trẻ nên bản thân có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và nhiều năm đạt danh hiệu giáo viên giỏi, chiến sĩ thi đua cấp huyện. Và là lớp điểm dạy kiến tập về chuyên đề giáo dục bảo vệ môi trường, tạo môi trường thân thiện cho trẻ do trường tổ chức.
Phần lớn các cháu thích đến lớp, đi học đều và rất tích cực tham gia vào các hoạt động.
- Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên tôi gặp không ít những khó khăn sau:
Phụ huynh đa số làm nghề nông và buôn bán nhỏ nên đời sống còn khó khăn, do đó một số phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ được nhiều.
Phụ huynh chưa quan tâm đến môi trường quanh trẻ.
Một số trẻ chưa có ý thức về bảo vệ môi trường nên việc truyền thụ kiến thức đến cho trẻ còn nhiều bất cập.
– Xuất phát từ đặc điểm chung của trường của lớp, từ nhu cầu thực tế của trẻ và tầm quan trọng của việc giáo dục trẻ có ý thức bảo vệ môi trường đáp ứng được nhiệm vụ trọng tâm của năm học, từng bước tôi đã có kế hoạch giải pháp đưa vào giáo dục trẻ với nhiều hình thức, thực hiện trong suốt các hoạt động của chế độ sinh hoạt 1 ngày có hiệu quả từ các biện pháp sau:
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/hoat-dong-cho-tre-mau-giao
Hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi
Hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi
PHẤN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
(Sáng kiến kinh nghiệm mầm non)Vâng! Lời nói đó và khẩu hiệu đó luôn được đề cao và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của đất nước ta. Trẻ khỏe mạnh và thông minh là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là niềm mơ ước và hy vọng lớn khi hướng vào tương lai. Chính vì thế muốn xây dựng một đất nước phồn vinh gia đình hạnh phúc không thể không nói đến việc xây dựng tính cách con người mới xã hội chủ nghĩa có đầy đủ phẩm chất tư cách đạo đức tốt nhất và đặc biệt có một sức khỏe để phục vụ cho đất nước phục vụ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển, công cuộc xây dựng quê hương đổi mới từng ngày, vì vậy tri thức giảng dạy ở trong nhà trường phải là những kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn, dùng làm chìa khóa để mở cánh cửa khoa học, là cái vốn mà thế hệ trẻ có thể vận dụng vào cuộc sống tiếp tục học lên, tự bồi dưỡng và tiếp thu các quá trình đào tạo tiếp theo trong suốt cuôc đời. Vậy việc trang bị những kiến thức phổ thông cho các cháu là một việc làm vô cùng quan trọng nhằm góp phần xây dựng đất nước.…………….
Giáo dục thể chất là một trong những nội dung quan trọng của nhà trường nhằm đào tạo thế hệ trẻ Việt nam phát triển phong phú về tinh thần, sáng về trí tuệ.
Giáo dục thể chất trong trường mầm non là bảo vệ và tăng cường sức khỏe đồng thời cung cấp những kiến thức giáo dục nhằm phát triển một cơ thể cân đối hài hòa và phát triển toàn diện về nhân cách trẻ. Việc tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục phát triển thể chất rất quan trọng giúp cho hệ thần kinh và các giác quan của trẻ nhanh nhạy hơn và có tác dụng tốt để nâng cao năng lực nhận thức của trẻ. Trên thực tế hoạt động này thường khô khan, cứng nhắc nên trẻ dễ chán dẫn đến mệt mỏi không hứng thú hoạt động.
Trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, các nhiệm vụ giáo dục thể chất được hoàn thành bằng các hình thức khác nhau. Hình thức giáo dục thể chất ở trường mầm non là sự tổng hợp giáo dục về những hoạt động vận động nhiều dạng của trẻ, mà cơ bản là tính tích cực vận động của chúng. Sự tổng hợp những hình thức đó tạo nên một chế độ vận động nhất định, cần thiết cho sự phát triển đầy đủ về thể chất và củng cố sức khỏe cho trẻ. Ở trường mầm non sử dụng hình thức giáo dục thể chất qua các tiết học thể dục và các trò chơi vận động.
Với trẻ mẫu giáo nhỡ tư duy trực quan hình tượng chiếm vị trí cũng khá quan trọng, cơ thể trẻ đang đà phát triển nếu không có biện pháp giáo dục, chọn nội dung phù hợp và tạo cơ hội cho trẻ tham gia rèn luyện, trẻ kém vận động dẫn đến thể lực phát triển không đồng đều. Giáo dục thể chất là nhiệm vụ trọng tâm làm cơ sở cho trẻ phát triển toàn diện, đủ năng lực, đủ đức, đủ tài trở thành những con người mới trong cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Qua thực tế công tác tôi đã đúc rút được: “Một số biện pháp gây hứng thú trong hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi tại lớp B2 trường mầm non A Ngọc Hồi”.
Trên cơ sở và thực trạng mục đích của đề tài tìm ra những biện pháp để gây hứng thú trong hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi tại lớp B2 trường mầm non A xã Ngọc Hồi nói riêng và các cháu 4 – 5 tuổi của trường mầm non A xã Ngọc Hồi nói chung.
Với các cháu 4 -5 tuổi thì các hoạt động như: Đi, chạy, nhảy, bò, trườn, trèo, tung, ném, bắt…rất phù hợp với trẻ vì trẻ đang ở lứa tuổi thích khám phá thảo mãn tính tò mò. Nếu giáo viên biết tổ chức gây hứng thú sẽ tạo được động lực giúp trẻ hàm thụ các vận động đó một cách dễ dàng. Trẻ sẽ tích cực và hứng thú tham gia.
Các biện pháp giúp cho trẻ có ý thức tập luyện, hình thành nhân cách ban đầu ở trẻ, nâng cao sự hứng thú trong giáo dục thể chất cho trẻ ở trường mầm non. Ở độ tuổi này các cháu rất hiếu động và tò mò trong các hoạt động, các cháu rất thích tham gia vào các hoạt động như: Đi, chạy, nhảy, bò, trườn, trèo, tung, ném, bắt…nên bản thân tôi luôn muốn học sinh của mình vận động một cách thành thạo và thích thú, tham gia tích cực trong các hoạt động cũng như các vận động để cơ thể khỏe mạnh. Vì vậy các phương pháp gây hứng thú giáo dục thể chất cho trẻ 4-5 tuổi là rất cần thiết.
Trong thời gian 9 tháng (bắt đầu từ tháng 9/2013 đến cuối tháng 4/2014) tại. Bằng các phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp điều tra thực trạng,
phương pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp quan sát. Áp dụng với các cháu tại lớp B2 mẫu giáo nhỡ trường mầm non A xã Ngọc Hồi. Tôi đã gặp nhiều thuận lợi xong cũng không ít khó khăn. Dựa vào kinh nghiệm bản thân và sự giúp đỡ của đồng nghiệp tôi đã tìm ra những biện pháp sau.
PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khi nói đến thể chất chúng ta có thể nghĩ ngay rằng đó là chất lượng của cơ thể con người có thể sử dụng vào thực tiễn một việc nào đó trong học tập, lao động, thể thao… phạm trù phát triển thể chất bao gồm các mặt sau.
Tầm vóc cơ thể là trạng thái phát triển và hình thái, cấu trúc cơ thể bao gồm sự sinh trưởng hình thể và tư thế thân người của một cơ thể.
Năng lực tham gia vận động thể lực của một cơ thể, đây là một nhân tố hết sức quan trọng nó thúc đẩy và giúp cho các chức năng sinh lý của cơ thể một cách nhịp nhàng. Trạng thái tâm lý là tình cảm, ý chí, cá tính của con người, nếu một con người có trạng thái tâm lý tốt thì cơ thể sẽ phát triển khỏe mạnh.
Hoạt động phát triển thể chất là hoạt động nhằm nâng cao thể lực sức khoẻ của trẻ: giúp trẻ phát triển các kĩ năng vận động đồng thời giúp trẻ có một sức khoẻ tốt, cơ thể phát triển cân đối, hài hoà, không những thế còn giúp phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức.
Trong quá trình tham gia các hoạt động thể chất trẻ còn được phát triển thêm cả về mặt tình cảm – xã hội cũng như thẩm mĩ. Hoạt động thể chất làm thoả mãn nhu cầu vận động của trẻ tạo cho tinh thần trẻ được sảng khoái, vui vẻ, giúp phát triển mối quan hệ giữa cô và trẻ cũng như phát triển tốt mối quan hệ bạn bè trong phối hợp vận động cùng các bạn. Cơ thể khoẻ mạnh, phát triển cân đối, hài hoà là một biểu hiện của nét đẹp về hình thể, những bài tập vận động có nhịp điệu kết hợp với âm nhạc mầm non giúp trẻ cảm nhận được sâu sắc về nhịp điệu, thể hiện tốt hơn, đẹp hơn các động tác và nhất là các hoạt động phát triển các cử động bàn tay, ngón tay giúp phát triển các vận động tinh tế khéo léo đặc biệt là hoạt động tạo hình giúp trẻ trí tưởng tượng sáng tạo. Nhưng trên thực tế trong trường mầm non nói chung và lớp mẫu giáo nhỡ nói riêng việc cho trẻ hoạt động phát triển thể chất chưa làm được điều đó, chưa tích cực linh hoạt sáng tạo vẫn còn mang tính chất đơn điệu, cứng nhắc, gò bò vì ở lứa tuổi này trẻ “ Học bằng chơi – chơi mà học”, hình thức tổ chức chưa sáng tạo hấp dẫn, dẫn đến hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, trẻ chưa hứng thú tham gia vào các hoạt động. Qua nhiều năm giảng dạy, qua nhiều ngày trăn trở tôi đã rút ra một số biện pháp để gây hứng thú qua hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi được tốt hơn.
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/chatchotre4-5tuoi-doc
Giúp trẻ 24 – 36 tháng hứng thú trong giờ kể chuyện
Giúp trẻ 24 – 36 tháng hứng thú trong giờ kể chuyện
MỞ ĐẦU
Văn học giữ vai trũ to lớn trong việc hình thành và phỏt triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non.
Sự tiếp xúc đầu tiên của trẻ lứa tuổi nhà trẻ 24 – 36 tháng với tác phẩm văn học được chọn lọc, nhất là những câu chuyện kể sẽ kích thích ở sự nhạy cảm thẩm mỹ, sự phát triển ngôn ngữ, trí tuệ. Văn học góp phần hỡnh thành tỡnh cảm đạo đức cho trẻ.
Trờn thực tế đặc điểm tâm sinh lí nhận thức của trẻ ở độ tuổi này cũn rất nhiều hạn chế do cỏc cơ quan và bộ máy phát âm của trẻ chưa được hoàn thiện . Trẻ mới học nói, nói ngọng, nói chưa đúng, chưa đủ câu nên khả năng diễn đạt ngôn ngữ,câu chưa được rừ ràng, mạch lạc. Trẻ hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa nghịch, núi tự do khụng tập trung chỳ ý nghe cụ kể chuyện.
Là một giáo viên đó cú nhiều năm giảng dạy trẻ ở lứa tuổi từ 24-36 tháng, tôi luôn đặt ra mục tiêu cho mỡnh là cần phải làm thế nào để giúp trẻ dễ dàng tiếp xúc và yêu thích văn học; làm thế nào để truyền tải tác phẩm văn học tới trẻ một cách có hiệu quả… Việc thường xuyên tiếp xúc với tác phẩm văn học chọn lọc sẽ kích thích sự nhạy cảm thẩm mỹ, đồng thời phát triển thái độ sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật cũng như hội họa ở trẻ, góp phần vào việc phỏt triển trớ tuệ, hỡnh thành những phẩm chất nhõn cỏch đầu tiên cho trẻ. Việc kể chuyện cho trẻ nghe cũn giỳp trẻ tớch luỹ và mở rộng vốn từ ngữ phong phỳ đa dạng, giúp trẻ nói sừi, núi chuẩn tiếng Việt, khả năng nói sừi, diễn đạt ngôn ngữ được mạch lạc rừ ràng hơn.
Chớnh vỡ vậy, việc tổ chức gây hứng thú thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện ngay từ ban đầu là rất quan trọng và góp phần nâng cao chất lượng kể chuyện cho trẻ nghe. Chớnh vỡ lý do trên mà tôi quyết định chọn đề tài “ Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe ở trường mầm non”.
– Mục đích nghiờn cứu của SKKN:
+ Đánh giá thực trạng sự phát triển của trẻ giúp trẻ hứng thú trong giờ kể chuyện góp phần nâng cao chất lượng chuyên đề cho trẻ làm quen văn học.
+ Tỡm ra cỏc biện phỏp giỳp trẻ 24 – 36 thỏng hứng thỳ trong giờ kể chuyện
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Cỏc biện phỏp giỳp trẻ 24 – 36 thỏng hứng thỳ trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe.
– Đối tượng khảo sát và thực nghiệm:
+ Lớp nhà trẻ D2 trường mầm non B xó Tứ Hiệp – Thanh Trỡ – Hà Nội, năm học 2013-2014.
– Kế hoạch nghiờn cứu:
+ Nghiên cứu và chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm : thỏng 9/2013
+ Xây dựng đề cương sáng kiến kinh nghiệm : thỏng 10, 11 /2013.
+ Nộp đề cương sáng kiến kinh nghiệm về văn phũng BGH để sửa : thỏng 12 / 2013.
+ Viết cỏc biện phỏp sỏng kiến kinh nghiệm : thỏng 1,2,3 /2014.
+ Sửa sỏng kiến kinh nghiệm : thỏng 4/2014.
+ Hoàn thiện và nộp về văn phũng BGH chấm sỏng kiến kinh nghiệm : thỏng 5/ 2014.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
- CƠ SỞ Lí LUẬN:
Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có phẩm chất đạo đức trong sáng; có trí thức, cú khoa học, cú tỡnh yờu nhõn loại, yờu thiờn nhiờn, yờu tổ quốc, mà cũn tạo nờn những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo. Tất cả những phẩm chất ấy cần được bắt đầu hỡnh thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Vỡ vậy, việc cho trẻ sớm làm quen với văn học là một trong những nội dung cần thiết và bổ ích trong chương trỡnh giỏo dục mầm non, trong đó yếu tố gây nên sự thích thú cho trẻ mỗi khi nghe cô giáo kể chuyện là rất quan trọng, vỡ khi tiếp xỳc qua những nhõn vật, sự vật trong cõu chuyện kể, hiện tượng gần gũi sẽ giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận và nhận biết thế giới vạn vật xung quanh; giúp phát triển óc tư duy sáng tạo, trí tũ mũ, luụn thớch khỏm phỏ từ đó cũng được nảy sinh hơn trong trẻ.
Để nâng cao chất lượng giúp trẻ cảm thụ và học tốt môn kể chuyện thỡ mỗi giỏo viờn ngoài việc nắm chắc phương pháp giảng dạy của từng loại tiết cần phải linh hoạt sáng tạo .Trong khi tổ chức hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe, để hoạt động kể chuyện ở nhúm lớp mỡnh đạt được kết quả cao, tôi đó tỡm ra một số biện phỏp, hỡnh thức để giúp trẻ hứng thú nghe cô kể chuyện một cách tích cực
- II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
- Đặc điểm tỡnh hỡnh chung
– Trường mầm non B xó Tứ Hiệp nằm trờn địa bàn thụn Đồng Trỡ xó Tứ Hiệp huyện Thanh Trỡ ngoại thành Hà Nội. Trường có 3 điểm trường ở 3 thôn: Cổ Điển B, Cổ Điển A, Đồng Trỡ. 3/3 điểm trường đều có lớp mẫu giáo lớn.
– Là ngôi trường có khung cảnh sư phạm đẹp, sân chơi rộng rói, sạch sẽ. Trường mới được xõy 2 tầng, phũng lớp rộng rói, được đầu tư nhiều đồ dùng, đồ chơi, các trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, được đầu tư tương đối đầy đủ.
– Trường cú 4 năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp huyện.
– Năm học 2013-2014 tôi được Ban giám hiệu trường mầm non B xó Tứ Hiệp phõn cụng phụ trách lớp nhà trẻ D2 tại khu Đồng Trỡ với tổng số học sinh là 23 chỏu, trong đó :
+ 13 chỏu gỏi
+ 10 chỏu trai.
– Lớp cú 2 giỏo viờn; 100% giỏo viờn cú trỡnh độ chuẩn, trong đó: 50% đạt trỡnh độ trên chuẩn, 50% đạt trỡnh độ chuẩn..
– Lớp được sự quan tâm của BGH đó đầu tư đầy đủ những trang thiết bị cần thiết phục vụ cho các hoạt động trong trường mầm non.
– Phụ huynh của trẻ rất nhiệt tỡnh.
Với tỡnh hỡnh thực trạng như trên trong quá trỡnh thực hiện đề tài, tôi đó gặp một số thuận lợi và khú khăn như sau:
2.Thuận lợi :
– Được sự quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của Ban giám hiệu nhà trường đầu tư về cơ sở vật chất, cũng như bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
– Bản thân tôi, là một giáo viên đã nhiều năm kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, luôn tâm huyết với nghề, có lòng nhiệt tình, ham học hỏi, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
– 100% giáo viên tại lớp biết đánh máy tính thành thạo.
– Trường tôi có nhiều phòng học sân chơi rộng rãi thoáng mát có nhiều đồ dùng đồ chơi thuận lợi cho cô và cho trẻ hoạt động với môn văn học.
– Phụ huynh quan tâm hoạt động cho trẻ làm quen với văn học trong trường mầm non.
3.Khú khăn:
– Mặc dù ở cùng độ tuổi nhưng khả năng nhận thức và sự tập trung chú ý của mỗi trẻ không đồng đều.
– Một số trẻ phát âm còn ngọng chưa đủ từ, đủ câu, còn lúng túng khi giao tiếp. Những khó khăn này làm cho trẻ thiếu tự tin trong giao tiếp nên trẻ ngày càng ít có cơ hội phát triển ngôn ngữ.
– Thời gian cho việc tạo môi trường hoạt động, tìm tòi và khám phá câu chuyện ngoài chương trình còn hạn chế, kĩ thuật sử dụng vi tính còn gặp khó khăn.
– Trong quá trình hoạt động nhiều lúc cô chưa phát huy hết tính sáng tạo của trẻ, chưa tạo cho trẻ tự rèn luyện và phát triển ngôn ngữ qua việc cho trẻ thể hiện giọng nhân vật, tự kể lại chuyện và kể chuyện sáng tạo.
– Đôi khi cô còn lúng túng trong khi sử dụng đồ dùng nhất là những lúc các nhân vật xuất hiện cùng một lúc trong đoạn chuyện vì vậy mà chưa diễn tả hết tình huống xảy ra trong đoạn chuyện, gây khó khăn cho việc giúp trẻ hiểu nội dung chuyện.
Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP:
- Tự nghiên cứu, bồi dưỡng về nghệ thuật đọc kể diễn cảm:
Nghệ thuật đọc và kể diễn cảm một tác phẩm văn học là vấn đề rất quan trọng đối với giáo viên mầm non trong việc gây hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng trong giờ kể chuyện cho trẻ nge. Bởi ngôn ngữ nghệ thuật được trẻ cảm thụ trong lúc nghe cô giáo đọc và kể, vì thế cách trình bày diễn cảm và xúc động thông qua tác phẩm văn học có tầm quan trọng đặc biệt. Nhờ có cách trình bày tác phẩm văn học một cách nghệ thuật, cô giáo giúp các bé dễ dàng hiểu được nội dung, dễ đi vào tưởng tượng nghệ thuật, nhìn thấy được các hình tượng, các khung cảnh và các tình tiết và biết đánh giá chúng một cách đúng đắn.
Trước đây, khi tôi chuẩn bị một giờ kể chuyện cho trẻ nghe tôi chỉ hướng vào việc chuẩn bị đồ dùng tranh ảnh câu chuyện đó để kể cho trẻ, còn việc chú ý đến việc đọc, kể diễn cảm thì quả thật tôi còn chưa chú ý đến, tôi chỉ nghĩ thuộc truyện để truyền tải tới trẻ nội dung câu chuyện, trẻ hiểu được nội dung câu chuyện thế là đủ. Chính vì vậy, trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe, trẻ chưa hứng thú nghe tôi kể chuyện, chưa thu hút trẻ vào nội dung câu chuyện của tôi nên kết quả sau mỗi giờ kể chuyện còn chưa cao.
Trong năm học 2013 – 2014, bản thõn tụi khụng ngừng tỡm tũi học hỏi, tự nghiờn cứu, rốn luyện cỏch thể hiện ngụn ngữ nghệ thuật để thu hút trẻ vào cõu truyện kể của mỡnh, được thể hiện:
+ Tôi học tập bằng cách tham khảo sách vở, tài liệu liên quan, dự giờ dạy của đồng nghiệp…, nhằm rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Để tạo sự thu hút, khi kể chuyện cho trẻ nghe thỡ đũi hỏi rất nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật kể chuyện là rất quan trọng. Bởi vỡ trẻ ở lứa tuổi này cảm thụ ngụn ngữ nghệ thuật thụng qua hỡnh thức nghe là chớnh.
+ Lời kể của cô chính là thước đo chuẩn mực cho trẻ học tập. Biết được điều đó tôi tìm hiểu tác phẩm sau đó xác định giọng kể cho phù hợp. Tôi thường căn cứ diễn biến tâm trạng , hành động của nhân vật, bối cảnh xẩy ra, tình tiết thể hiện ngữ điệu.Cùng một nhân vật bối cảnh khác nhau thì sắc thái ngữ điệu cũng khác nhau.
+ Muốn tập trung sự chỳ ý của trẻ khi nghe kể truyện, tụi nghĩ cú rất nhiều yếu tố tạo nờn như: cô giáo phải nhập vai, phải ngắt nghỉ giọng, sử dụng ngữ điệu, cường độ giọng điệu, cử chỉ tư thế, nét mặt… sao cho thật phù hợp như:
* Về nhập vai:
Vớ dụ: trong cõu chuyện “Thỏ con khụng võng lời” tụi gợi mở cho trẻ: “Trong khu rừng kia có hai mẹ con nhà thỏ sống với nhau. Một hôm thỏ mẹ có việc phải đi, thỏ mẹ gọi thỏ con lại và dặn…” tụi ngừng lời và hỏi trẻ: “ Thỏ mẹ dặn thỏ con thế nào?” Khi đó tôi sẽ thể hiện giọng của thỏ mẹ một cách nhẹ nhàng âu yếm… để giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện.
* Về thể hiện ngắt nghỉ giọng:
Việc ngắt giọng trong lỳc kể chuyện cũng chiếm một vị trớ quan trọng. Do vậy việc ngắt giọng sao cho cú tớnh chất hoàn toàn tự nhiờn.
Vớ dụ: Trong cõu chuyện “Đuổi cáo” có đoạn kể: “Bỗng đâu có một con Cáo xông ra đuổi bắt gà con” thỡ quóng ngắt giọng giữa cõu trước cụm từ “con Cỏo” sẽ làm cho trẻ hồi hộp, kích thích trí tưởng tượng của trẻ, làm cho trẻ cố gắng hỡnh dung xem con Cỏo sẽ làm gỡ tiếp sau đó.
* Về thể hiện cường độ giọng điệu:
Nếu kể chuyện mà nhịp điệu cứ đều đều thỡ cõu chuyện sẽ khụng cú sức sống, khụng gõy được hứng thú cho trẻ. Vỡ vậy bản thõn tụi phải xỏc định cho từng nội dung truyện, đoạn truyện, tỡnh huống truyện để rèn nhịp điệu.
Vớ dụ: Trong chuyện “Thỏ con khụng võng lời” khi thể hiện lời rủ rê của bạn Bươm Bướm, tôi sử dụng giọng điệu vui tươi nhẹ nhàng để thuyết phục.
* Về thể hiện cử chỉ nột mặt:
Những cử chỉ, nột mặt của cụ giỏo khi kể chuyện cần phải kết hợp hài hoà sự diễn cảm và ngữ điệu giọng nói cho phù hợp, thể hiện được những cảm xỳc vui, buồn, ngạc nhiờn, lo õu, phấn khởi… nhằm gúp phần vào sự thành cụng cho tiết dạy.
Kết quả: Qua việc nghiên cứu các loại sách vở, học hỏi chị em đồng nghiệp nên tôi đã nắm vững phương pháp khi lên tiết, sáng tạo trong mỗi câu chuyện. Từ đó tôi cũng thấy trẻ tập trung và hứng thú nghe tôi kể chuyện, thể hiện cụ thể:
+ 100% các tiết dạy được BGH thăm lớp, dự giờ đạt loại tốt.
+ Trên 90% trẻ hứng thú, hiểu được nội dung câu chuyện đạt được mục đích yêu cầu sau mỗi giờ kể chuyện.
- Trang trí lớp học tạo môi trường hoc tập thân thiện với trẻ :
“Trường học thân thiện” là câu khẩu hiệu mà ngành Giáo dục rất quan tâm và hướng đến. Ở trong môi trường đó trẻ không phải tiếp thu những kiến thức, kỹ năng một cách cứng nhắc mà ở đó trẻ tiếp thu tri thức trong một bầu không khí thân thiện, gần gũi như ở gia đỡnh mỡnh, điều đó góp phần giúp trẻ hứng thú hơn trong học tập và đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
“ Môi trường ” cho trẻ hoạt động là một trong những việc cần thiết và không thể thiếu được trong vấn đề đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non hiện nay. Khác với những năm về trước thì giáo viên tìm chọn hình ảnh thật đẹp sống động và trang trí lớp cho đẹp từ đầu năm đến cuối năm. Vì thế mà trẻ nhìn lâu rồi cũng thâý chán và cũng không kích thích phát triển ở trẻ. Nhưng ngày trong năm học này, bằng những việc tìm tòi khám phá tôi đã tạo môi trường cho trẻ hoạt động. Nhờ được hoạt động môi trường theo chủ đề trẻ thích khám phá trải nghiệm trẻ có nhiều kinh nghiệm hơn, thông minh hơn và vận dụng được ngay ngôn ngữ của mình trong khi giao tiếp nhờ đó mà trẻ thấy hứng thú hơn và phát triển ngôn ngữ ở trẻ một cách tự nhiên hơn.
Vớ dụ: Ở “Góc sách truyện” chủ đề: “Những con vật đáng yêu” tôi bố trí môi trường mở có đủ các loại sách tranh, truyện tranh, cho trẻ tự làm các loại rối, đồ chơi mầm non, mà trẻ tự tạo theo chủ đề. Qua đó, trẻ có thể tự hoạt động tranh chuyện, con rối để kể thành câu chuyện theo ý trẻ nhớ mà ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển.
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/trethichngheketruyen