Archive
Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kế hoạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kế hoạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non
I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực phẩm là nguồn cung cấp dinh dưỡng hàng ngày cho cơ thể, giúp cơ thể khoẻ mạnh, chống lại các nguy cơ của bệnh tật đang có mặt ở khắp nơi trong môi trường, giúp người ta hoạt động và làm việc. Như vậy, nếu nguồn thực phẩm không hợp vệ sinh, sức khỏe con người sẽ bị đe dọa.
Vệ sinh an toàn thực phẩm là việc bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khoẻ, tính mạng người sử dụng, bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hoá học, sinh học, hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe con người.
Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh thực phẩm và thức ăn ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm. Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các bệnh mãn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Trong thời gian qua, cùng với việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong các trường học bán trú bậc mầm non trên địa bàn huyện Thanh Trì được quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc. Đây là một tiêu chí quan trọng, được đặt lên hàng đầu của hầu hết các trường tổ chức học bán trú.
Đứng trước thực tế trên Bộ y tế đã kêu gọi cộng đồng xã hội cần quan tâm đến đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để đảm bảo sức khoẻ của con người. Ở trường mầm non cần có biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm các khâu từ giao nhận thực phẩm, sơ chế thực phẩm , chế biến thực phẩm và chia ăn cho trẻ. Nhưng nếu lơ là không chú trọng một trong các khâu trên thì các khâu khác có chú trọng đến mấy cũng sẽ không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. Theo tôi vệ sinh an toàn thực phẩm thực phẩm cho trẻ ngay từ khâu giao nhận thực phẩm đầu ngày là rất quan trọng và cần thiết.
Là một cô nuôi – kiêm tổ trưởng tổ nuôi với mong muốn của bản thân và tất cả chị em trong tổ đều có trách nhiêm quan tâm đến vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ho trẻ để chất lượng nuôi dưỡng ngày càng nâng cao. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non”
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
+ Đánh giá thực trạng việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non A xã Tứ Hiệp.
+ Tìm ra hệ thống các biện pháp để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non A xã Tứ Hiệp.
* Đối tượng nghiên cứu:
+ Các biện pháp đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm non A xã Tứ Hiệp
* Phạm vi áp dụng:
+ Tại trường mầm non A xã Tứ Hiệp năm học 2013 – 2014
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- 1. Cơ sở lý luận:
Vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí rất quan trọng đối với sức khoẻ con người, vừa kế thừa các tập quán tốt của từng dân tộc, vừa tiếp thu nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao sức lao động và phòng chống bệnh tật. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh thực phẩm những thức ăn làm chất lượng vẫn chiếm tỷ lệ cao ở nhiều nước.
Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới về đánh giá các chương trình hành động đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được một nguyên nhân chính gây tử vong cho trẻ em là các bệnh đường ruột, trong đó phổ biến là bệnh tiêu chảy. §ång thời cũng nhận thấy nguyên nhân gây các bệnh trên là do thực phẩm bị nhiễm khuẩn. Theo thống kê của Bộ y tế nước ta, trong 10 nguyên nhân chủ yếu gây tử vong ở Việt Nam thì nguyên nhân do vi sinh vật gây bệnh đứng hàng thứ hai. Mặt khác tình hình chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong những năm gần đây không ổn định, số các mẫu lương thực, thực phẩm không đạt yêu cầu vệ sinh vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Đối với nước ta cũng như những nước đang phát triển, lương thực, thực phẩm thuộc loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa về chính trị, xã hội và đời sống rất quan trọng.
Sự ô nhiễm do các chất độc hại, sự giảm chất lượng của sản phẩm trong quá trình gieo trồng, thu hoạch, dự trữ, bảo quản, chế biến và phân phối lưu thông gây tổn hại rất lớn, có khi lên tới 30 – 50% tổng số lượng thu hoạch.
Ngoài yếu tố chính về sinh vật, lượng lương thực, thực phẩm còn bị ô nhiễm, độc hại ngày càng tăng do sự sử dụng không đúng thuốc trừ sâu, diệt cỏ, phân bón trong nông nghiệp, các loại thuốc tăng trọng trong quá trình chăn nuôi đối với ngô, lạc, gạo, các kim loại nặng như đồng, chì trong quá trình sản xuất đồ hộp, sữa, rau và quả … hoặc sử dụng gian dối các chất phụ gia, phẩm màu trong quá trình chế biến bánh, keo, đồ uống, thực phẩm…
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cho con người nói chung và đặc biệt trong các trường mầm non nói riêng có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non có rất nhiều khâu nhưng trước hết đặc biệt quan trọng ngay từ khâu đầu tiên là giao nhận thực phẩm.
- C¬ së thùc tiÔn:
2.1 Mô tả thực trạng
Tứ Hiệp là một xã ®ang trong thêi k× ®« thÞ ho¸, trường có 3 điểm trường ở 2 thôn, 3/3 điểm trường đều có bếp ăn 1 chiều. Năm học 2013 – 2014 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công đứng bếp ở khu Cương Ngô I. Cùng đứng bếp với tôi là 03 đồng chí ( Đồng chí Vân Ngọc, đồng chí Vũ Lệ, đồng chí Trần Phương) 3/3 đồng chí đã có bằng Trung cấp kỹ thuật nấu ăn, 01 đồng chí có bằng kỹ thuật nấu ăn 3/7. Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi gặp một số những thuận lợi khó khăn sau:
2.2 Thuận lợi:
– 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
– Nhà trường có hợp đồng các loại lương thực, thực phẩm của các nhà hàng tin cậy có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Do chạy theo lợi nhuận nên nhiều loại thực phẩm hiện nay trên thị trường còn nhiễm hóa chất không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều đó đã gặp rất nhiều khó khăn trong khâu kiểm tra thực phẩm
– Khu bếp chính giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm rộng rãi, thoáng mát.
– Nhà trường trang bị đầy đủ đồ dïng, dụng cụ phục vụ công tác nuôi dưỡng. Trang bị đầy đủ trang phục cá nhân cho cô nu«i, quần áo lao động đồng phục, tạp dề, khẩu trang, găng tay, mũ, ủng…
– Khu bếp Cương Ngô I tôi phụ trách rộng, đẹp, cao ráo đựoc sắp xếp theo bếp 1 chiều. Bếp đã được trang bị đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị hiện đại như tủ sấy, tủ cơm ga, tủ lạnh, hệ thống bếp ga và các đồ dùng bằng Inox.
– Bản thân tôi là cô nuôi có bằng trung cấp Kỹ thuật nấu ăn, với tuổi nghề là 05 năm nên đã có kinh nghiệm về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non.
2.3 Khó khăn:
– Nhà trường có 3 khu nên còn gặp nhiều khó khăn trong khâu giao nhận, bảo quản và vận chuyển thực phẩm.
– Chế độ ưu đãi với cô nuôi ở trường mầm non không có, mức lương còn quá thấp so với mặt bằng chung trong xã hội, nên đời sống chị em còn gặp nhiều khó khăn.
– Đứng trước đặc điểm tình hình của trường, thuận lợi và khó khăn nêu trên, trước tình hình thực tế, tình trạng về vệ sinh an toàn thực phẩm tôi đã tìm ra hệ thống các biện pháp để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường và bước đầu cũng mang lại hiệu quả như sau:
- Các biện pháp:
3.1. Biện pháp 1: Giữ vệ sinh cá nhân khi tham gia giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm.
Giữ vệ sinh cá nhân khi làm nhiệm vụ nuôi dưỡng nói chung và khi tham gia giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm nói riêng là một yêu cầu tất yếu của một cô nuôi ở trường mầm non. Vì nếu các cô nuôi không có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân cho mình thì chính các cô lại là nguồn gây bệnh cho trẻ, dẫn đến không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ.
Chính vì vậy tôi đã tạo cho mình một thói quen vệ sinh cá nhân khi làm việc để các chị em trong tổ học tập và làm theo:
+ Móng tay luôn cắt ngắn, sạch sẽ.
+ Rửa tay bằng xà phòng sau khi cầm những vật dụng không đảm bảo vệ sinh và có khăn lau tay riêng.
+ Đầu tóc luôn cặp gọn gàng.
+ Đến trường thay luôn quần áo đồng phục lao động.
+ Đeo khẩu trang, găng tay, tạp dề và đội mũ khi tham gia nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm.
+ Bản thân ý thức cao trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc của Trung tâm y tế hàng năm khám sức khoẻ, tập huấn kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm, xét nghiệm phân đầy đủ để phòng tránh các dịch bệnh lây nhiễm sang trẻ.
Các thói quen trên tuy rất đơn giản nhưng không phải ai cũng duy trì thường xuyên để tạo thành thói quen được vì vậy chúng ta phải luôn ý thức tự giác vệ sinh các nhân mọi lúc, mọi nơi và trong mọi công việc.
* Kết quả:
– Bản thân tôi và tất cả các chị em trong tổ nuôi đã luôn duy trì tốt thói quen giữ vệ sinh cá nhân tốt, đảm bảo các nguyên tắc chung trong khi làm việc tại bếp nói chung và trong khi giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm nói riêng.
– 100% các cô nuôi đã khám sức khoẻ, tập huấn vệ sinh an toàn thực phẩm và xét nghiệm phân đầy đủ 1 năm 1 lần.
– Đã góp phần đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong khâu giao nhận thực phẩm.
Nguồn: Thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/antoanthucphammamnon
Chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1
Chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, với trẻ mầm non hoạt động vui chơi là chủ đạo, học mang tính chất “Học mà chơi, chơi mà học”, trẻ rất hiếu động tò mò, ham muốn học hỏi, tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh mình, trẻ thực sự học trong khi chơi để lĩnh hội các khái niệm ban đầu hoặc các tri thức tiền khoa học. Đặc biệt, với trẻ mẫu giáo lớn các yếu tố của hoạt động học tập đã xuất hiện nhưng mới ở dạng sơ khai. Trong mỗi một giai đoạn phát triển, ở mỗi một lứa tuổi trẻ đều mang những đặc điểm đặc trưng, sự phát triển của trẻ trong một giai đoạn nhất định vừa là kết quả của giai đoạn trước đó vừa là tiền đề cho bước phát triển của giai đoạn tiếp theo. Vào lớp 1 là một bước ngoặt khá lớn trong cuộc đời của mỗi đứa trẻ, đang từ cuộc sống khá thoải mái về mặt thời gian cũng như tinh thần, bé phải chuyển qua một môi trường đòi hỏi trẻ “làm việc” một cách thực sự, phải tập trung chú ý trong cả một tiết học dài đó là một việc không hề đơn giản với trẻ Chính vì thế việc chuẩn bị cho trẻ 5-6 tuổi vào lớp 1 là quá trình lâu dài, quá trình này bắt đầu xuất hiện từ những tháng ngày tuổi nhà trẻ cho đến khi đủ điều kiện vào lớp 1 và chỉ có ở trường mầm non mới thực hiện được điều này, mới giúp trẻ làm quen với các hoạt động học tập, thể lực, lao động, mối quan hệ xã hội. Trong quá trình đó giáo viên mầm non giữ vai trò chủ đạo, là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển mọi hoạt động có mục đích học tập, giúp trẻ phát triển thể lực, nhận thức, ngôn ngữ , tư duy, thẩm mỹ, kỹ năng, giao tiếp, từng bước giúp trẻ nhận thức và hòa nhập dần với cách sinh hoạt và phương pháp dạy học của giáo viên lớp 1 nhằm giúp trẻ không bị bỡ ngỡ, lo lắng, sợ sệt và trẻ sẽ tiếp thu kiến thức ở trường Tiểu học một cách tốt nhất. Để thực hiện được điều đó, nhà trường và gia đình cùng phối hợp để chăm sóc và giáo dục trẻ một cách tốt nhất. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh và một số giáo viên đã sai lầm cho rằng chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 là dạy cho trẻ biết đọc, biết viết, biết làm toán làm ảnh hưởng đến tâm lý và kết quả học tập của trẻ.
Xuất phát từ lý do trên, với nhiều năm kinh nghiệm liên tục dạy lớp mẫu giáo lớn, nắm bắt được tâm sinh lý của trẻ, tâm lý của chính các bậc phụ huynh là cha mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của trẻ, tôi nhận thấy việc chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn vào lớp 1 là vô cùng cần thiết và quan trọng và thực hiện được mục đích đầu tiên của Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi, vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1 ở trường mầm non B thị trấn Văn Điển” làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này.
* Mục đích nghiên cứu.
– Đánh giá thực trạng việc áp dụng một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 5-6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1 của lớp mẫu giáo lớn A2 Trường mầm non B thị trần Văn Điển.
– Tìm ra các biện pháp chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 đạt kết quả cao.
* Đối tượng nghiên cứu phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của đề tài, tôi chỉ tập trung nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 5-6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1 tại lớp A2 Trường mầm non B thị trấn Văn Điển.
* Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài này được thực hiện với một số phương pháp sau đây:
– Nhóm phương pháp quan sát.
– Phương pháp thực nghiệm sư phạm
– Phương pháp đàm thoại.
* Phạm vi, kế hoạch nguyên cứu:
– Tháng 9 / 2013 Nghiên cứu và chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
– Tháng 10, 11 / 2013 Xây dựng đề cương sáng kiến kinh nghiệm.
– Tháng 12 / 2013 Nộp về BGH sửa sáng kiến kinh nghiệm.
– Tháng 1, 2 / 2014 Viết các nội dung biện pháp sáng kiến kinh nghiệm.
– Tháng 3/ 2014 Sửa sáng kiến kinh nghiệm
– Giữa tháng 4 / 2014 Hoàn thiện và nộp sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 là mục tiêu của Giáo dục mầm non và là mục đích đầu tiên ban hành Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng đối với trẻ. Tâm lý sẵn sàng đi học của mỗi trẻ phụ thuộc vào sự chuẩn bị đúng đắn của trường mầm non và đặc biệt là quan niệm của các bậc phụ huynh.
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 là chuẩn bị cho trẻ toàn diện về thể lực, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, kỹ năng cần thiết trong hoạt động học tập bằng phương pháp phù hợp với sự phát triển của trẻ, cùng với sự phối hợp thống nhất giữa gia đình và trường mầm non.
– Thể lực: Là chuẩn bị cho trẻ chiều cao, cân nặng, năng lực hoạt động bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của hệ thần kinh.
– Phát triển trí tuệ: Là rèn cho trẻ các thao tác trí tuệ, kích thích những hứng thú với hoạt động trí óc.
– Phát triển ngôn ngữ: Là phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển trí tuệ, tiếp thu kiến thức học tập ở trường phổ thông.
– Tình cảm xã hội: Là dạy trẻ biết cách ứng xử với người xung quanh, lễ phép, kính trọng người lớn, yêu quý bạn bè, biết thông cảm và ứng xử phù hợp.
Ngoài ra để đạt được kết quả, trẻ cần tích cực hứng thú tham gia hoạt động, sự phối hợp giữa các bậc phụ huynh với cô giáo cùng có quan điểm đúng về việc chuẩn bị cho trẻ vào trường tiểu học.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm chung:
– Trường Mầm non B Thị trấn Văn Điển là một trong 3 trường mầm non công lập trên địa bàn Thị trấn Văn Điển. Nhà trường có bề dày thành tích, 5 năm liên tục đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, năm học 2012 – 2013 trường được tặng bằng khen của Thủ tướng chính phủ, có nhiều lượt giáo viên dạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp thành phố, cấp huyện. Năm học 2013-2014 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo lớn A2 có 52 trẻ do 3 giáo viên phụ trách.
- Thuận lợi:
* Về giáo viên:
– 3/3 giáo viên đứng lớp đều có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực sư phạm, yêu nghề mến trẻ luôn tìm tòi sáng tạo trong giảng dạy cũng như làm đồ dùng đồ chơi và thiết kế giáo án điện tử cho các hoạt động.
– Bản thân được đào tạo chính quy, có trình độ chuyên môn trên chuẩn, nắm chắc phương pháp tổ chức, hướng dẫn chăm sóc, giáo dục trẻ và Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi của Bộ GD&ĐT.
– Bản thân tôi được Ban giám hiệu giao nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo lớn 5 năm liền và nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Bộ GD&ĐT không dạy trước chương trình lớp 1 cho trẻ.
* Về Ban giám hiệu:
– Ban giám hiệu luôn quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện để giáo viên thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non mới.
* Về phụ huynh:
– Đa số các phụ huynh quan tâm đến tình hình học tập của con em mình, thường xuyên ủng hộ các nguyên vật liệu phục vụ cho việc học tập của trẻ.
* Về học sinh:
– Đa số trẻ trong lớp học qua lớp mẫu giáo nhỡ nên nhận thức của trẻ theo độ tuổi khá đồng đều.
- Khó khăn.
* Về phụ huynh:
– Phụ huynh làm nhiều nghề khác nhau công nhân, viên chức, trồng trọt, buôn bán khả năng nhận thức của phụ huynh không đồng đều chưa nắm bắt đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ, chưa xác định rõ yêu cầu tri thức thực chất ở độ tuổi của con em mình.
– Ngay trên địa bàn có một vài giáo viên về hưu mở lớp dạy cho các cháu 5 tuổi dạy trước chương trình lớp 1, khiến nhiều phụ huynh hoang mang, lo sợ con mình không đi học sẽ không theo kịp bạn. Một số phụ huynh quá nóng vội cho con đi học viết, học đọc, học làm toán, ngoại ngữ ngay khi trẻ còn đang ở lứa tuổi mầm non.
* Về học sinh:
– Một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, tích cực tham gia vào các hoạt động.
– Một số trẻ quá hiếu động, khả năng tập trung, tiếp thu kiến thức của trẻ chưa cao.
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát phát phiếu khảo sát cho phụ huynh để thăm dò ý kiến phụ huynh về cách dạy học cho con ở lớp mẫu giáo lớn chuẩn bị vào lớp 1 như thế nào? (Có phụ lục kèm theo).
– Kết quả:
Câu hỏi | Trả lời | |
Cần thiết | Không cần thiết | |
Câu hỏi số 1 | 71% | 29% |
Câu hỏi số 2 | 19% | 71% |
Câu hỏi số 3 | 10% | 90% |
Kết quả trên là vấn đề đáng lo ngại, vì các phụ huynh đều có suy nghĩ, nhận thức khác nhau có phụ huynh thì không quan tâm đến tình hình của con mà coi đó hoàn toàn là trách nhiệm của trường mầm non, còn có phụ huynh thì lại quan tâm con quá sốt sắng, nôn nóng cho con đi học ngoài trước, nhất là sau Tết phụ huynh xin đón con về sớm sau giờ ăn chiều để đến lớp học thêm. Còn phương án đúng cần phải chuẩn bị cho con toàn diện về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, lao động, tâm lý, học đúng chương trình trước khi vào lớp 1 thì ít phụ huynh chọn.Với kết quả khảo sát, nắm bắt được tâm lý của phụ huynh muốn cho con học chữ, tập đọc, tập viết, tập làm toán khi còn đang học ở mầm non tôi tiến hành một số biện pháp sau:
III. Các biện pháp:
- Làm tốt công tác tuyên truyền phụ huynh:
Cha mẹ là người đầu tiên đặt nền móng cho nhận thức của trẻ, tác động phần lớn đến suy nghĩ và hành động của con em mình, nhiều phụ huynh ngay khi con chuyển từ lớp mẫu giáo nhỡ xuống lớp mẫu giáo lớn đã nôn nóng về việc học chữ của trẻ. Tuy nhiên, không phải phụ huynh nào cũng hiểu và cung cấp cho con kiến thức phù hợp với độ tuổi, vì thế cần phải tuyên truyền cho cha mẹ trẻ, giúp cha mẹ hiểu tâm sinh lý, hiểu rõ điều gì cần nhất cho con trẻ trong giai đoạn này, giai đoạn chuẩn bị vào lớp 1 và phải chuẩn bị những gì?
Ngay từ đầu năm học, tôi đã kết hợp Ban giám hiệu nhà trường tổ chức họp phụ huynh để trao đổi, thống nhất với gia đình về mục tiêu, nội dung, phương pháp, biện pháp, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 với cách làm như sau.
Nguồn giáo án điện tử mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/trevaolop1
Biện pháp chỉ đạo hưởng ứng văn minh đô thị
Biện pháp chỉ đạo hưởng ứng văn minh đô thị
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
văn minh đô thị là gì Hà Nội là thủ đô của cả nước; là đầu não chính trị – hành chính Quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế; là đầu mối giao thương bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường sông tỏa đi các vùng khác trong cả nước và đi quốc tế. Xây dựng nếp sống văn minh đô thị, con người Hà Nội thanh lịch, văn minh là đòi hỏi cấp bách từ thực tế, để Thủ đô thêm sáng, xanh, sạch, đẹp không chỉ về diện mạo bên ngoài, mà cốt yếu là phải tạo ra sự chuyển biến thực chất trong ý thức, trách nhiệm của từng người dân Thủ đô.
Trường mầm non B Liên Ninh nằm trên địa bàn xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì là huyện Trung tâm của Thành phố Hà Nội, có tốc độ đô thị hóa nhanh, ý thức của một bộ phận nhân dân trong việc thực hiện trật tự, văn minh đô thị còn hạn chế, do đó việc tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, giáo viên, nhân viên, trẻ em và phụ huynh về pháp luật, truyền thống đạo đức, truyền thống và văn hoá Người Hà Nội, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, giáo dục trật tự an toàn giao thông càng có ý nghĩa quan trọng.
Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 02/01/2014 của Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội về việc thực hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị 2014”; Kế hoạch số 4150/KH – SGD&ĐT ngày 14/2/2014 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố về tổ chức thực hiện Chỉ thị số 01/CT-UBND về “Năm trật tự và văn minh đô thị 2014”; Kế hoạch số 55/KH – PGD&ĐT của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện với mục đích hưởng ứng “ Năm trật tự và văn minh đô thị 2014” gắn với công tác chăm sóc và giáo dục trẻ nhằm xây dựng các nhà trường và các cơ sở giáo dục có khung cảnh đẹp, đảm bảo sáng, xanh, sạch, đẹp, thông thoáng, an toàn tại các nhà trường, thân thiện với trẻ. Giúp cán bộ, giáo viên, nhân viên, trẻ em và phụ huynh thấy rõ tầm quan trọng trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Trong đó, chú trọng hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, truyền thống lịch sử, văn hóa, lòng tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống trung thực, lành mạnh cho trẻ trong các nhà trường. Nâng cao ý thức tự giác, thực hiện nếp sống văn minh thanh lịch, văn hóa học đường, nét đẹp văn hóa khi tham gia giao thông, góp phần giảm tai nạn thương tích và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Được phân công là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của trường, khi triển khai về tổ chức thực hiện Chỉ thị, tôi nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị” gắn với việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Làm thế nào để giáo viên, phụ huynh, học sinh tích cực tham gia các hoạt động xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh đô thị một cách sâu rộng, toàn diện không chỉ trong nhà trường mà còn tại mỗi gia đình nơi có trẻ sinh hoạt.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo tổ chuyên môn hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị” gắn với việc chăm sóc, giáo dục trẻ em tại Trường mầm non B xã Liên Ninh” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
– văn minh đô thị là gì là toàn bộ những hoạt động về tinh thần và vật chất của một trung tâm lớn về nhiều mặt của một vùng hay một quốc gia, ở một khía cạnh khác nói đến văn minh đô thị là nói đến chuẩn mực văn hóa – các giá trị đã được xác định để trở thành tiêu chí phấn đấu định hướng lâu dài.
– Nội dung giáo dục trật tự và văn minh đô thị trong trường mầm non:
+ Lòng yêu nước, tự hào dân tộc; chủ quyền biển đảo;
+ Giá trị truyền thống và văn hoá Người Hà Nội;
+ Kỹ năng giao tiếp, ứng xử và văn hoá giao thông;
+ Ý thức thực hiện pháp luật; tham gia có hiệu quả các hoạt động: Bảo vệ môi trường; đảm bảo trật tự an toàn giao thông…
Tích hợp có hiệu quả trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp các nội dung giáo dục pháp luật về biển đảo, môi trường, giao thông, chú trọng kết hợp phổ biến giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức; lồng ghép hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật với các cuộc vận động, các phong trào thi đua và các hoạt động kỷ niệm lớn trong năm (60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ; 60 năm giải phóng Thủ đô; 60 năm thành lập ngành GD&ĐT . . .)
Tập trung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu, kỹ năng giao tiếp trong gia đình, nhà trường và nơi công cộng. Chú trọng, nâng cao giáo dục văn hoá giao tiếp, ứng xử với những người xung quanh, với thiên nhiên, môi trường, trong đó những hành vi như biết chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, thực hiện văn hoá giao thông, nói lời cám ơn, xin lỗi, biết thông cảm và sẻ chia… cần được giáo dục thường xuyên, đánh giá cụ thể theo nội quy nhà trường để khen, chê rõ ràng đạt hiệu quả giáo dục cao.
Phối hợp với Hội khuyến học, Ban đại diện phụ huynh thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa 3 yếu tố gia đình – nhà trường – xã hội. Từ đó giáo dục trẻ ý thức xây dựng gia đình hiếu học, gia đình văn hoá, tạo môi trường giáo dục tốt cho trẻ.
– Mục tiêu của giáo dục trật tự và văn minh đô thị trong trường mầm non:
+ Nhằm xây dựng các nhà trường và các cơ sở giáo dục có khung cảnh đẹp, đảm bảo sáng, xanh, sạch, đẹp thông thoáng an toàn tại các nhà trường, thân thiện với học sinh.
+ Giúp cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh và phụ huynh học sinh thấy rõ tầm quan trọng trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Trong đó, chú trọng hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, truyền thống lịch sử, văn hóa, lòng tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống trung thực, lành mạnh cho học sinh trong các nhà trường.
+ Nâng cao ý thức tự giác, thực hiện nếp sống văn minh thanh lịch, văn hóa học đường, nét đẹp văn hóa khi tham gia giao thông, góp phần giảm tai nạn thương tích và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
– Về phương pháp giáo dục:
+ Tổ chức truyền thông, tọa đàm, giao lưu, hội thảo, chuyên đề hoặc các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan, nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt đầu tuần…;
+ Sử dụng hệ thống thông tin đại chúng trong và ngoài nhà trường: Đài phát thanh, tập san, bảng tin…;
+ Tiến hành hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan (băng zôn, cờ phướn, khẩu hiệu…).
+ Tích hợp có hiệu quả trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp các nội dung giáo dục về trật tự và văn minh đô thị.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm tình hình chung:
Trường mầm non B Liên Ninh nằm ở phía Nam của huyện Thanh Trì, tiếp giáp với huyện Thường Tín, có tốc độ đô thị hóa nhanh. Địa bàn phân tuyến tuyển sinh gồm 3 thôn và 2 cụm dân cư. Nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông, công nhân và buôn bán nhỏ. Là nơi nhiều dân các nơi đến ngụ cư thuê nhà nên số trẻ không ổn định. Nhà trường có diện tích 2 khu là 8.666 m2 với 15 lớp học xây dựng đạt chuẩn quốc gia và có 660 học sinh . Trường có hai khu cách xa nhau 3km:
– Khu Nhị Châu có 4 lớp: 01 lớp nhà trẻ; 01 lớp MG bé; 01 lớp MG nhỡ; 01 lớp MG lớn. Tổng số học sinh của khu Nhị Châu là : 120 trẻ.
– Khu Phương Nhị có 11 lớp: 02 lớp nhà trẻ; 03 lớp MG bé; 03 lớp MG nhỡ; 03 lớp MG lớn. Tổng học sinh khu Phương Nhị là: 540 trẻ.
* Số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường : 75 đồng chí trong đó :
+ Biến chế: 38 đồng chí (Chiếm 50,6%)
+ Hợp đồng huyện 32 đồng chí (Chiếm 42,6%)
+ Hợp đồng trường 5 đồng chí (Chiếm 6,8%)
– Tổng số giáo viên toàn trường là 50/ 75 ( Chiếm 66,7 %)
– 100% giáo viên có trình độ chuẩn: Trong đó trên chuẩn 15/50 chiếm 30%.
– Có 30 cô giáo đang theo học đại học sư phạm để nâng cao trình độ trên chuẩn.
- Thuận lợi:
– Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của UBND huyện, Đảng ủy, UBND xã Liên Ninh và sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện;
– Năm 2014 xã Liên Ninh sẽ cơ bản hoàn thành “xây dựng nông thôn mới” đây là việc rất thuận lợi cho công tác tuyên truyền thực hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị” đối với phụ huynh của nhà trường.
– Trường mới được xây dựng khang trang, thoáng mát với 15 phòng học và đầy đủ các phòng chức năng; cơ sở vật chất phục vụ cho chương trình giáo dục trẻ đầy đủ, hiện đại: Máy vi tính, máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, đàn…..
– Đội ngũ giáo viên trẻ, có trình độ chuyên môn chuẩn và trên chuẩn cao, khả năng tiếp cận với định hướng đổi mới của giáo viên tốt, 100% cán bộ quản lý và 98% giáo viên, nhân viên biết ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn bài và giảng dạy.
– Một số giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm và nhiều năm đạt danh hiệu giáo viên giỏi thành phố, cấp huyện như cô giáo: Trần Thị Thái Hà, Phùng Thị Thu, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Hảo, Hoàng Thị Thu Hà… Luôn chịu khó tìm tòi các hình thức lên lớp sáng tạo hiệu quả.
- Khó khăn:
– Nhà trường có 2 khu cách xa nhau nên khó khăn cho việc chỉ đạo, tập huấn, kiến tập chuyên môn.
– Xã Liên Ninh là một xã nằm ở xa trung tâm của huyện Thanh Trì, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, trình độ dân trí không đồng đều, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế.
– Đội ngũ giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong tuyên truyền các phong trào; lồng ghép các chủ đề để tuyên truyền, giáo dục học sinh.
– Học sinh độ tuổi mẫu giáo nên việc lựa chọn nội dung, hình thức giáo dục về trật tự và văn minh đô thị để đưa vào các môn học còn khó khăn.
III. Các biện pháp:
- Xây dựng kế hoạch của tổ chuyên môn hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị ” gắn với hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ.
Kế hoạch là chương trình hành động tổng quát, là lên kế hoạch triển khai và phân bổ các nguồn lực quan trọng để đạt được những mục tiêu cơ bản toàn diện và lâu dài của nhà trường nói chung và tổ chuyên môn nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, khi được triển khai Chỉ thị của thành phố, kế hoạch của Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Trì…. Bám sát vào Chỉ thị cũng như kế hoạch hướng dẫn của Phòng Giáo dục huyện và kế hoạch của nhà trường, dựa trên tình tình thực tế của tổ chuyên môn và học sinh. Tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện của tổ chuyên môn nhằm định hướng, hướng dẫn giáo viên thực hiện một cách cụ thể để việc hưởng ứng “Năm trật tự và văn minh đô thị ” gắn với việc chăm sóc giáo dục trẻ một cách hiệu quả nhất.
Nguồn Thiết bị giáo dục hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/trattuantoanxahoi
Nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên
Nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam trên con đường phát triển hội nhập vào thế giới, cả nước đang tích cực phấn đấu cho tương lai tươi sáng và vững chắc. Do đó việc quan tâm và đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non có vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ vào lớp 1. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của các bậc học khác, bậc học mầm non là một bậc học đã có nhiều đóng góp to lớn, thực sự có trách nhiệm trong việc giáo dục thế hệ trẻ mai sau. Thấy rõ tầm quan trọng đó, những năm gần đây Bộ Giáo Dục luôn chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục và coi chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội.
Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng đã trình bày tại đại hội toàn quốc lần thứ IX có đoạn: “ Chăm lo phát triển mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt là nông thôn và những vùng khó khăn ”. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của Đảng, đòi hỏi các ban ngành đặc biệt là các cơ sở trường mầm non cần nghiêm túc nghiên cứu mục tiêu, nhiệm vụ của ngành để có biện pháp thực hiện đạt kết quả tốt, một trong các mục tiêu đó là: “ Nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ theo mục tiêu đào tạo của ngành ”. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay toàn ngành giáo dục và đào tạo đang nổ lực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập mà phương pháp dạy học đó là cách thức tổ chức các hoạt động học tập của giáo viên nhằm giúp trẻ đạt được các mục tiêu đề ra .
Nói đến chất lượng chuyên môn trong trường mầm non tức là nói đến chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên. Đó là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục mầm non, vì họ là người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ, là lực lượng chủ yếu thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay, người giáo viên cần phải luôn luôn rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao khả năng sư phạm. Điều đó chứng tỏ rằng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong trường mầm non là hết sức cần thiết mà người cán bộ quản lý phải có trách nhiệm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên mầm non. Hơn giáo dục mầm non là giáo dục tự nguyện không bắt buộc. Vì vậy, để thu hút trẻ tới trường mầm non, phải để trẻ đi học có chất lượng, phát triển về mặt trí tuệ, thể lực hơn hẳn các em khác không được đi học, đội ngũ giáo viên mầm non trẻ cần không ngừng được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bản thân mỗi người quản lý đều suy nghĩ: làm thế nào để đơn vị mình trở thành một đơn vị tốt. Muốn thế trước hết phải có đội ngũ mạnh.
Trẻ ở tuổi mầm non ngoài sự chăm sóc dạy dỗ của ông bà, cha mẹ trẻ ở gia đình thì yếu tố quan trọng quyết định lớn về sự phát triển toàn diện của những trẻ đến trường mầm non là đội ngũ giáo viên mầm non.
Bản thân mỗi người quản lý đều suy nghĩ: làm thế nào để đơn vị mình trở thành một đơn vị tốt. Muốn thế trước hết phải có đội ngũ mạnh.
Trẻ ở tuổi mầm non ngoài sự chăm sóc dạy dỗ của ông bà, cha mẹ trẻ ở gia đình thì yếu tố quan trọng quyết định lớn về sự phát triển toàn diện của những trẻ đến trường mầm non là đội ngũ giáo viên mầm non.
Từ nhận thức trên là một cán bộ quản lý,tôi đã xác định, việc xây dựng đội ngũ giáo viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà mình không được phép sao nhãng, phải bằng mọi cách để xây dựng một đội ngũ có đủ trình độ năng lực, sức khỏe mẫu mực, có đủ khả năng chăm sóc giáo dục trẻ theo yêu cầu hiện nay.
Vì vậy, là một Phó hiệu trưởng trường Mầm non còn nhiều khó khăn, đội ngũ giáo viên mới tuyển nhiều, trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất đồ chơi trong lớp mầm non còn nhiều thiếu thốn, việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ là công việc thường xuyên của người quản lý; vì vậy, bản thân tôi luôn suy nghĩ, tìm ra một số biện pháp để bồi dưỡng chuyên cho đội ngũ giáo viên của đơn vị, và đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài : “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên ở trường mầm non Duyên Hà”.
*Mục đích của đề tài:
– Nhận thấy được thực trạng của trường để đưa ra các giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo viên.
– Tạo tiền đề giúp cho đội ngũ giáo viên mầm non có được những giải pháp cơ bản trong công tác nâng cao chất lượng chuyên môn cho nhà trường.
– Nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên và cũng nâng cao được chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ cho trường mn Duyên Hà .
– Đánh giá được thực trạng của công tác chuyên môn trong trường mầm non Duyên Hà.
– Tìm ra được hệ thống các biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên ở trường mầm non Duyên Hà.
*Đối tượng nghiên cứu:
–Đội ngũ giáo viên ở trường mầm non Duyên Hà.
*Phạm vi áp dụng:
– Trường mầm non xã Duyên Hà- Huyện Thanh Trì- Hà Nội, năm học 2014
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Cơ sở lý luận :
Thế kỷ 21 là thế kỷ của trí tuệ, là thế kỷ của nền kinh tế trí thức. Đất nước Việt Nam tiến tới năm 2020 với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và công nghệ cùng với nó là hình ảnh người công dân Việt Nam mới với trình độ học vấn cao, năng động, sáng tạo, có khả năng xử lý thông tin, có khả năng tự lựa chọn và giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, thích ứng với sự biến đổi không ngừng của xã hội. Trách nhiệm này đòi hỏi ngành giáo dục phải có đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên giỏi, vì đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở các Trường Mầm non. Mục tiêu của công tác bồi dưỡng nhằm hoàn thiện quá trình đào tạo, khắc phục những thiếu sót lệch lạc trong công tác giảng dạy, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục để theo kịp những yêu cầu của xã hội. Để đảm bảo chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có phẩm chất chính trị, trình độ năng lực, có lương tâm nghề nghiệp và nhân cách nhà giáo, có lòng nhân ái tận tuỵ, thương yêu trẻ hết mình, những điều đó được thể hiện ở tinh thần tự học, tự bồi dưỡng để cải tiến nội dung, phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ của mỗi giáo viên. Làm sao để thúc đẩy bản thân mỗi giáo viên đều phải suy nghĩ làm thế nào để đưa trường mình trở thành một đơn vị tốt, muốn thế trước hết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên.
Từ nhận thức sâu sắc về vai trò của đội ngũ, giáo viên là lực lượng nòng cốt, quyết định chất lượng giáo dục ở mỗi nhà trường chính vì vậy mà tôi luôn quan tâm đến việc xây dựng, bồi dưỡng giáo viên để trường có một đội ngũ, giáo viên đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất đạo đức tốt, chất lượng chuyên môn cao, có lòng yêu nghề mến trẻ, tận tụy say sưa với công việc, coi trường như nhà, quý trẻ như con, có như vậy thì ở nơi đó chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mới đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra giáo viên mầm non phải biết kiên trì chịu khó, linh hoạt trong mọi tình huống giáo dục, nhất là đối với các trẻ cá biệt, trẻ khuyết tật; giáo viên phải tìm ra cho mình một phương pháp giáo dục đối với mọi đứa trẻ. Phải linh hoạt, thay đổi theo từng bài dạy của lứa tuổi khác nhau để trẻ dễ tiếp thu không bị nhàm chán. Giáo viên mầm non còn là một tuyên truyền viên giỏi, tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy con theo khoa học cho các bậc cha mẹ, nhất là công tác xã hội hóa giáo dục đối với ngành học mầm non, giúp các bậc cha mẹ và cả cộng đồng hiểu được tầm quan trọng của ngành học, xây dựng cơ sở vật chất, tạo điều kiện để đưa trường học phát triển.
– Để thực hiện được các yêu cầu trên, người giáo viên mầm non phải có trình độ chuyên môn vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, thật sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo. Vì vậy phải tập trung làm tốt công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn mạnh về công tác quản lý lớp và các hoạt động phong trào, đạo đức lối sống tốt, để hoàn thành chiến lược giáo dục mầm non năm 2020 mà Đảng ta đã khẳng định.
- CƠ SỞ THỰC TIỄN
– Trường mầm non Duyên Hà nằm ở vùng trũng nhất vùng bãi ven Sông Hồng, thường hay chịu ảnh hưởng của lũ lụt.
– Toàn xã có 3 thôn, dân cư không tập chung và rải rác ở nhiều xóm cách xa nhau. Trường có tổng diện tích là 2800m2 được phân bố tại 3 khu Xóm mới, Đại Lan,Văn Khúc.
– Tổng toàn trường 7 phòng học được cải tạo thành 9 lớp học, không có phòng chức năng phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục 430 cháu, 2 lớp nhờ nhà văn hóa thôn.
– Đời sống nhân dân trong xã 2/3 sống bằng nghề nông, làm màu trồng rau nên đời sống gặp nhiều khó khăn
– Đảng viên có 15/53 đ/c = 29%
– Tổng số cán bộ giáo viên nhân viên là: 53 đồng chí.
Trong đó: + Cán bộ quản lý: 3 đồng chí
+ Giáo viên: 33đồng chí
+ Nhân viên: 20 đồng chí
– Trình độ chuyên môn của cán bộ giáo viên nhân viên: Đại học= 10đ/c chiếm 30%, cao đẳng= 5đ/c chiếm 15%, trung cấp= 17đ/c chiếm 51%, 5 đ/c bảo vệ. Trong đó có 18 đ/c đang theo học lớp đại học sư phạm mầm non.
- Thuận lợi:
– Trường được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng GD&ĐT huyện thanh trị tạo điều kiện giúp đỡ về chuyên môn và tổ tốt các chuyên đề cho đội ngũ giáo viên
– Đảng uỷ, HĐND, UBND xã luôn quan tâm, động viên các phong trào của nhà trường và được hội cha mẹ học sinh nhiệt tình ủng hộ, tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ .
– Ban giám hiệu đoàn kết, nhiệt tình, năng động, sáng tạo.
– Trường có phó hiệu trưởng phụ trách mảng chuyên môn riêng, được trang bị máy tính phục vụ cho công tác chuyên môn .
– 90% giáo viên là giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ.
– Đội ngũ giáo viên trẻ khoẻ, có lòng yêu nghề, mến trẻ và ham học hỏi, luôn tự bồi dưỡng chuyên môn cho bản thân.
- Khó khăn:
–Trường có 3 điểm lẻ cách xa nhau, cơ sở vật chất của nhà trường còn gặp nhiều khó khăn
– Khu Xóm Mới do chưa được xây dựng nên diện tích sân chơi còn chật hẹp
– Khu Đại Lan phòng học xuống cấp các cháu phải học nhờ nhà văn hóa thôn chưa được xây dựng mới
-Trình độ của giáo viên tuy 100% đạt chuẩn và trên chuẩn cao nhưng năng lực sư phạm không đồng đều, chưa năng động, sáng tạo trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
– Tổng số giáo viên là 33 đồng chí – trong đó có 7giáo viên mới, vì vậy trình độ chuyên môn chưa cập nhật theo yêu cầu đổi mới của ngành.
– Đa số giáo viên đều đang đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
– Do hoàn cảnh một số giáo viên có con nhỏ, chưa khắc phục được khó khăn nên việc thích ứng với chương trình mới còn chậm chạp, qua loa, chưa đồng bộ. Một số giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về phương pháp” Lấy trẻ làm trung tâm”, nội dung chương trình chưa có sự gắn kết đồng bộ. Các môn học còn độc lập, tách rời, mang nặng cung cấp kiến thức, chưa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ, chưa biết tạo môi trường cho trẻ tham quan khám phá mọi lúc mọi nơi.
– Trường có các điểm lẻ nên việc dự giờ, thăm lớp còn gặp nhiều khó khăn.
*Đứng trước những khó khăn và thuận lợi như trên, Tôi đã suy nghĩ và đề ra một số biện pháp sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP
1 . Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên
Với một số trường mầm non, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có thể quan trọng nhưng không phải là nội dung trọng tâm, bởi họ có một đội ngũ giáo viên lâu năm, giàu kinh nghiệm. Tuy nhiên, với điều kiện của trường mầm non xã Duyên Hà chúng tôi, một ngôi trường có tỉ lệ giáo viên trẻ chiếm 80% , thì đội ngũ giáo viên chính là vấn đề quan trọng đặt lên hàng đầu, bởi cơ sở vật chất quá nhiều khó khăn, lớp học chật chội các phòng chức năng thì không có, trường không được xây mới do nằm ở vùng bãi vướng mắc luật đê điều vì vậy Để tạo được lòng tin yêu với phụ huynh học sinh thì đội ngũ giáo viên phải tốt. Đứng trước thực trạng tình hình giáo viên trẻ trình độ chuyên môn chưa đồng đều.
Muốn nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên, người cán bộ quản lý phải xây dựng được kế hoạch chỉ đạo thật cụ thể, rõ ràng, xuyên suốt trong cả một năm học. Khi xây dựng cần bám sát vào nội dung công văn hướng dẫn của ngành, của địa phương và phải phù hợp với năng lực, nhận thức của mỗi người, với điều kiện thực tế của trường.
Xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên đề, dự giờ thăm lớp cho các khối một cách cụ thể theo từng tháng, năm và kế hoạch hội thi cho các cháu cụ thể trong cả năm học.
Thành lập các ban kiểm tra để phối kết hợp với Ban giám hiệu nhà trường, kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ của từng giáo viên, nhất là trong công tác giảng dạy.ọaTiến hành kiểm tra, đánh giá, xếp loại chuyên môn nghiệp vụ giáo viên hàng năm cụ thể, chi tiết, công bằng và đúng theo kế hoạch đã đề ra. Ngay từ đầu năm học tôi đã lập kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
Nguồn: Thiết bị mầm non hà vũ
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/chuyenmongiaovien
Biện pháp giáo dục tài nguyên và môi trường biển trẻ 5 tuổi
Biện pháp giáo dục tài nguyên và môi trường biển trẻ 5 tuổi
Giáo dục biển đảo cho trẻ mầm non giáo dục trẻ mầm non bảo vệ môi trường phương pháp giáo dục trẻ mầm non 100 đề tài sáng kiến kinh nghiệm giáo dục trẻ mầm non chăm sóc giáo dục trẻ mầm non kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ mầm non công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non giáo dục mầm non lấy trẻ làm trung tâm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương pháp giáo dục trẻ mầm non Nước Việt Nam của chúng ta có bờ biển dài 3.620km, có hàng nghìn các đảo lớn, nhỏ và đặc biệt có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trên biển Đông. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, biển, đảo có vai trò, vị trí quan trọng, quyết định sự tăng trưởng kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Bảo vệ tài nguyên môi trường biển, hải đảo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bảo vệ biển đảo và chủ quyền biển đảo là nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam.
Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục của cấp học mầm non là tạo cơ hội cho trẻ được làm quen, nhận biết về biển, đảo Việt Nam. Trên cơ sở đó hình thành thói quen, hành vi bảo vệ tài nguyên môi trường biển, hải đảo. Những thói quen đó, cần phải bắt đầu hình thành ngay từ lứa tuổi mầm non. Bởi giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển lâu dài của trẻ, đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Thực hiện nhiệm vụ năm học và hướng dẫn thực hiện Phương pháp giáo dục trẻ mầm non chuyên môn năm học 2012-2013 của phòng Giáo dục và đào tạo huyện Thanh Trì, chương trình giáo dục cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) có thêm nội dung mới. Đó là tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển hải đảo vào chương trình giáo dục trẻ. Bản thân tôi nhận thấy nội dung tích hợp này là rất cần thiết trong bối cảnh tài nguyên môi trường biển, đảo ngày càng cạn kiệt và ô nhiễm nghiêm trọng, bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mang tính thời sự cao. Nhưng nội dung giáo dục này đưa vào chương trình giáo dục tài nguyên và môi trường biển trẻ 5 tuổi cần phải đưa như thế nào cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, không quá nặng nề với trẻ. Trong khi đó giáo viên mầm non khi thực hiện các chuyên đề tích hợp thường mắc vào hai nhược điểm sau:
-Thứ nhất: Nội dung tích hợp gượng ép, quá hời hợt không chú tâm đến nội dung tích hợp.
-Thứ hai: Nội dung tích hợp đưa vào lượng kiến thức quá nhiều, quá xa lạ với trẻ vượt quá cả nội dung chính.
Khi triển khai họp chuyên môn đầu năm và thảo luận về nội dung tích hợp về tài nguyên môi trường biển, hải đảo với giáo viên 5 tuổi. Tôi nhận thấy giáo viên rất băn khoăn và lúng túng khi đưa nội dung tích hợp này vào chương trình. Nhiều ý kiến cho rằng khó đưa nội dung này vào chương trình bởi Hà Nội là địa phương không có biển, đảo.
Được phân công là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của trường và được tổ chuyên môn, tổ mầm non phòng Giáo dục và đào tạo cử tham gia lớp tập huấn: “Hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục mẫu giáo 5 tuổi“. Tôi nhận thức được tầm quan trọng của nội dung tích hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi và muốn giúp giáo viên 5 tuổi có kiến thức về tài nguyên môi trường biển hải đảo Việt Nam. Từ đó xây dựng nội dung tích hợp phù hợp với trẻ, giúp trẻ hiểu nội dung một cách nhẹ nhàng, không quá gượng ép. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài :
“Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên, tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 tuổi trong trường mầm non. “
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
Trước hết chúng ta có thể hiểu: Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo là quá trình giáo dục nhằm giúp trẻ có những kiến thức cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, đảo Việt Nam. Tạo cho trẻ có ý thức, thái độ đối với tài nguyên và môi trường biển, đảo. Trang bị cho trẻ những kỹ năng thực hành khi được tiếp cận với môi trường biển, đảo. Từ đó, có ý thức, trách nhiệm, hành vi tốt để bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, đảo Việt Nam.
Tích hợp là sự hòa trộn nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo vào với nội dung các môn học, các hoạt động thành một nội dung gắn bó chặt chẽ với nhau:
– Khi tích hợp không làm biến tính đặc trưng của môn học, hoạt động nào đó thành môn học giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo.
– Khai thác nội dung giáo dục tài nguyên môi trường biển, đảo cần có chọn lọc, có tính tập trung vào nội dung chính, có mục đích nhất định, không tràn lan, tùy tiện.
Trong khi giáo dục trẻ, các nội dung giáo dục về tài nguyên môi trường biển, đảo xem xét mức độ tích hợp như thế nào cho phù hợp nội dung, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi như:
– Tích hợp toàn phần: Là mục tiêu, bài dạy trùng hợp phần lớn hay hoàn toàn với nội dung chủ đề giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo.
– Tích hợp bộ phận: Là chỉ có một phần bài dạy có nội dung liên quan đến nôi dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo, hoặc trong nội dung có liên hệ được nội dung giáo dục đó.
Về Phương pháp giáo dục trẻ mầm non: Nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo rất đa dạng, mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên tùy theo đặc trưng của đề tài, môn học có thể lựa chọn phương pháp phù hợp, cũng có thể kết hợp hài hòa giữa các phương pháp để có hiệu quả giáo dục cao nhất. Làm thế nào để giáo viên tích hợp nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo một cách hiệu quả nhất cho trẻ mầm non 5-6 tuổi. Phù hợp với tâm sinh lý, khả năng nhận thức của trẻ ” học mà chơi, chơi mà học”, trẻ tiếp thu kiến thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Vì vậy tôi đã sử dụng một số biện pháp giúp giáo viên tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo một cách hiệu quả nhất.
- Cơ sở thực tiễn:
- Đặc điểm tình hình chung:
Trường nằm ở vị trí xa trung tâm huyện Thanh Trì, tiếp giáp với huyện Thường Tín. Nhân dân chủ yếu sống bằng nghề nông và buôn bán nhỏ. Là nơi nhiều dân các nơi đến ngụ cư thuê nhà nên số trẻ không ổn định. Nhà trường có diện tích 2 khu là 8.666 m2 với 15 lớp học xây dựng đạt chuẩn quốc gia và có 600 học sinh . Trường có hai khu cách xa nhau 3km:
– Khu Nhị Châu có 4 lớp: 01 lớp nhà trẻ; 01 lớp MG bé; 01 lớp MG nhỡ; 01 lớp MG lớn. Tổng số học sinh của khu Nhị Châu là : 110 trẻ. Trong đó lớp MG lớn 5 tuổi 35 trẻ.
– Khu Phương Nhị có 11 lớp: 02 lớp nhà trẻ; 03 lớp MG bé; 03 lớp MG nhỡ; 03 lớp MG lớn. Tổng học sinh khu Phương Nhị là: 490 trẻ. Trong đó lớp MG lớn 5 tuổi 149 trẻ. Tổng số học sinh 5 tuổi điều tra trên địa bàn 184 trẻ, ra lớp ngày từ đầu năm học 184 trẻ chiếm tỷ lệ 100%.
* Số giáo viên trong trường : 47/70 tổng số CBGVNV.
– Giáo viên mẫu giáo lớn : 11 cô/4 lớp. Chiếm 23,4 % giáo viên toàn trường.
Trình độ chuyên môn khối mẫu giáo lớn:
– ĐHSP : 06/11 cô = 54.5%
– CĐSP : 02 /11cô = 18.2 %
– TCSP : 03/11 cô = 27.3% ( Trong đó 03 cô đang theo học Đại học sư phạm).
- Thuận lợi:
Cơ sở vật chất phục vụ cho chương trình giáo dục trẻ 5 tuổi đầy đủ, hiện đại: Máy vi tính, máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, đàn…..
Trẻ 5 tuổi ra lớp 100% ngày từ đầu năm học, thuận lợi cho việc phổ cập chương trình giáo dục cho trẻ 5 tuổi.
Đội ngũ giáo viên 5 tuổi trẻ, có trình độ chuyên môn trên chuẩn chiếm 72.7%, khả năng tiếp cận với định hướng đổi mới của giáo viên tốt. Một số giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm dạy trẻ 5 tuổi và nhiều năm đạt danh hiệu giáo viên giỏi thành phố, cấp huyện như cô giáo: Trần Thị Thái Hà, Phùng Thị Thu, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Phạm Thị Bích Nga…
Bản thân tôi được tham gia học tập huấn nội dung tích hợp của Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Thanh Trì.
- Khó khăn:
Nhà trường có 2 khu cách xa nhau nên khó khăn cho việc chỉ đạo, tập huấn, kiến tập chuyên môn.
Là năm đầu tiên thực hiện nội dung tích hợp giáo dục tài nguyên môi trường biển, hải đảo vào chương trình. Hà Nội là địa phương không có biển nên thực hiện học ngoại khóa, tham quan thực tế gặp khó khăn.
Phụ huynh nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên rất ít trẻ được cha mẹ cho đi thăm quan, nghỉ mát tại các khu du lịch biển, đảo.
III. Các biện pháp:
- Đổi mới cách bồi dưỡng lý thuyết cho giáo viên:
Đổi mới cách bồi dưỡng lý thuyết cho giáo viên ở đây là bồi dưỡng cho giáo viên nắm chắc, hệ thống lại nội dung về tài nguyên môi trường biển, hải đảo Việt Nam. Từ những kiến thức cơ bản đó đưa lồng ghép vào các môn học, các hoạt động một cách hiệu quả.
Bồi dưỡng chuyên môn là một việc thường xuyên và cần thiết phải làm vì giáo viên là lực lượng trực tiếp truyền thụ các kiến thức tới trẻ. Đây lại là một nội dung tích hợp mới .Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng tạo môi trường cho trẻ hoạt động thì trước hết người giáo viên phải nắm chắc được kiến thức cơ bản về tài nguyên môi trường biển, hải đảo Việt Nam, phương pháp tích hợp, quy trình tổ chức các hoạt động. Có như vậy thì mới truyền thụ kiến thức đến với trẻ một cách chính xác và phù hợp với độ tuổi.
*Thực trạng cũ:
Trong những năm học trước, trường chúng tôi cũng có những biện pháp bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên như:
– Mời giảng viên về bồi dưỡng: Tổ Mầm non phòng Giáo dục huyện mời giảng viên và giáo viên đại diện trong toàn huyện tham gia. Tuy nhiên, rất khó mời giảng viên về trường để bồi dưỡng cho giáo viên.
– Giáo viên được cử đi tập huấn các chuyên đề mới, khi đi tập huấn về thường xin bài giảng của giảng viên sau đó phôtô cho các giáo viên không được đi tập huấn. Trong các buổi họp chuyên môn, giáo viên đi tập huấn giảng lại và giải đáp những vấn đề không hiểu của giáo viên.
Hầu hết các giáo viên có đọc nhưng không có thời gian nghiên cứu sâu và không có nhiều vấn đề trao đổi làm rõ. Khi vận dụng vào thực tế giảng dạy thì chỉ một số giáo viên giỏi, nhiều kinh nghiệm đạt được hiệu quả tương đối còn hầu hết giáo viên mới chỉ dừng lại ở mức độ trung bình. Nội dung giáo dục tài và môi trường biển, hải đảo đưa vào cho trẻ cần chính xác và hợp lý. Vì thế, giáo viên phải nắm vững kiến thức cơ bản nếu không sẽ dạy trẻ lạc hướng. Chính vì vậy, trong cách bồi dưỡng lý thuyết năm nay tôi đã có những giải pháp mới sau:
* Đổi mới cách thức bồi dưỡng, giảng viên tập huấn:
– Giáo viên được cử đi tập huấn sẽ chính là giảng viên cho những giáo viên còn lại. Những giáo viên đi tập huấn sẽ nghiên cứu các tài liệu khi đi tập huấn, tìm hiểu trên sách báo những nội dung giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo Việt Nam. Xây dựng lại bài giảng làm sao cho ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với kiến thức giáo viên của trường.
Bài giảng điện tử được nhóm xây dựng trên phần mềm PowerPoit với kiến thức ngắn ngọn dễ hiểu, hình ảnh đẹp sống động, lồng ghép một số đoạn phim giáo dục bảo vệ môi trường biển, hải đảo
Bài số 1: Những kiến thức cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo.
Mục đích của bài số 1 là giúp giáo viên hệ thống lại những kiến thức cơ bản về tài nguyên và môi trường biển hải đảo Việt Nam. Giúp cho giáo viên thấy những nét đẹp nổi bật, đặc trưng ở mỗi vùng biển, đảo Việt Nam, khơi dậy lòng yêu biển, yêu những cảnh đẹp nổi tiếng của biển. Thấy được thực trạng của tài nguyên môi trường biển, hải đảo từ đó sẽ thấy được trách nhiệm của chính giáo viên với tài nguyên, môi trường biển, đảo.
Nguồn: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/moitruongtre5tuoi
Hướng dẫn giáo viên kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn
Hướng dẫn giáo viên kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn
Một số biện pháp chỉ đạo hướng dẫn giáo viên hình thành kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống mầm non trẻ em trở thành một quan điểm lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh, trẻ em là một trong những đối tượng được Bác quan tâm và giáo dục nhiều nhất, liên tục nhất. Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân ái của dân tộc: Chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm, là tình thương và hạnh phúc của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng. Truyền thống ấy đã được thể hiện trong văn hóa dân gian việt Nam: “Dạy con từ thủa còn thơ”, để sau này: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc giáo dục trẻ em vì trí tuệ, tính cách con người phụ thuộc rất lớn vào nội dung, phương pháp hết giáo dục ở tuổi này.
Để thực hiện tốt mục tiêu của xã hội và mục đích của Đảng ta là: Dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng văn minh thì trước nhiệm vụ của giáo dục phải đào tạo ra những con người mới xã hội chủ nghĩa và con người đó phải được phát triển toàn diện. Trong xã hộị hiện nay đã làm thay đổi được cuộc sống con người, nhiều vấn đề phức tạp liên tục được nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực, gây hại cho con người đặc biệt là trẻ em nếu mỗi người trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để biết lựa chọn sống tích cực, không có năng lực để ứng phó, để vượt qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất dễ trở ngại rủi ro trong cuộc sống. Do đó hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đã trở thành nhiệm vụ quan trọng.
Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa, toàn diện về nhân cách, cung cấp cho mỗi trẻ những kiến thức cần thiết về kỹ năng sống cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp trẻ hiểu biết những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước những tình huống, học cách giao tiếp ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực, góp phần đào tạo con người mới với đầy đủ các mặt “ Đức, trí, thể, mĩ”, “ Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Tuy nhiên giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải phù hợp với lứa tuổi của trẻ sao cho trẻ cảm nhận thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải bắt đầu từ định hướng và định hình cho trẻ những hành vi tốt đẹp. Giáo dục kỹ năng cho trẻ từ cấp học mầm non, trẻ từ dưới 2 tuổi đã bắt đầu tiếp thu môi trường sống xung quanh như giọng nói của người lớn khi trò chuyện với trẻ, cách thức tiếp xúc với trẻ tất cả đều tác động đến sự phát triển của trẻ, ở lứa tuổi này chỉ nên dạy cho trẻ những điều dễ nhớ, dễ học, dễ hiểu tuyệt đối không nên áp đặt ý kiến hay suy nghĩ chủ quan của cha mẹ, cô giáo cũng như người lớn. Vì vậy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành từ bậc học mầm non.
Là một phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn tôi nhận thấy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cho trẻ tại trường tôi còn hạn chế chưa được sâu sắc, tỉ mỉ, chưa có tiêu chí cụ thể, trình độ chuyên môn giáo viên còn non kém, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ phải tiến hành trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, được tích hợp, lồng ghép vào các hoạt động trong ngày là vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi đã không ngừng nghiên cứu tìm tòi các biện pháp để giúp trẻ hình thành kỹ năng sống cho trẻ một cách tốt nhất, do vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
“ Một số biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn tại trường mầm non”. Để nghiên cứu và thực hiện đề tài này thực nghiệm và áp dụng trên trẻ mẫu giáo lớn lớp A1, A2, A3 thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 5/ 2013.
Với đề tài này tôi mong muốn trẻ đến trường không chỉ được học tri thức mà trẻ còn được học hình thành nhân cách tốt để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
* Sáng kiến này nhằm đạt được mục đích:
– Khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo lớn.
Xây dựng một số biện pháp tác động sư phạm nhằm hình thành và hoàn thiện một số kỹ năng sống phù hợp với trẻ mẫu giáo lớn.
– Đề ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn.
* Đối tượng nghiên cứu:
– Một số biểu hiện kỹ năng sống của trẻ khối mẫu giáo lớn trường mầm non B xã Vạn Phúc.
* Phạm Vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu:
– Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng của tất cả kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo lớn. Tiến hành áp dụng các biện pháp hình thành kỹ năng sống vào các lớp A1, A2, A3.
– Tháng 8 năm 2012: Nghiên cứu và chọn đề tài SKKN
– Tháng 10,11,12 năm 2012: Xây dựng đề cương SKKN
– Tháng 1,2,3 năm 2013: Viết các biện pháp sáng kiến kinh nghiệm mầm non
– Tháng 4 năm 2013: hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm.
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận:
Trong thời đại mới ngoài kiến thức mỗi chúng ta cần trang bị cho mình những kỹ năng để càng hoàn thiện bản thân, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nói chung và trẻ lớp mẫu giáo nói riêng cần: Đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và nguyên tắc đồng tâm phát triển từ dễ đến khó, đảm bảo tính liên thông giữa các độ tuổi. Thống nhất giữa nội dung giáo dục với cuộc sống hiện thực của trẻ, chuẩn bị cho trẻ từng bước hòa nhập vào cuộc sống, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hòa giữa chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục, giúp trẻ phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cung cấp kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi, giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy giáo, yêu quý anh, chị, em, bạn bè, thật thà mạnh dạn, tự tin và hồn nhiên, yêu thích cái đẹp ham hiểu biết, thích đi học.
Mục tiêu của giáo dục mầm non đã được quy định điều I của luật giáo dục là: Phấn đấu cho trẻ phát triển hài hòa, toàn diện cân đối về mọi mặt Thể chất, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và lao động. Hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Nhằm đạt được mục tiêu này người giáo viên mầm non cần biết giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách khoa học. Vậy ta hiểu kỹ năng sống là gì? “ Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi tích cực, lành mạnh giúp bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống”.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non tôi dựa vào 17 tiêu chí sau: Hiểu biết và chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng – Chăm sóc vệ sinh cá nhân – Giữ an toàn cá nhân – Nhận thức về bản thân – Tự tin và tự trọng – Cảm nhận và thể hiện cảm xúc – Thiết lập mối quan hệ tích cực với bạn và người lớn – Hợp tác với người khác – Thích ứng trong quan hệ xã hội – Tôn trọng người khác – Nghe hiểu lời nói – Sử dụng lời nói – Giao tiếp – Nhận thức về môi trường xã hội – Nhận thức về môi trường tự nhiên – Nhận thức về nghệ thuật – Sáng tạo.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ được lồng ghép tích hợp vào các hoạt động một cách nhẹ nhàng, cô giáo cần có định hướng có mục đích giáo dục để đưa vào dạy trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo luôn thay đổi, phù hợp với nhu cần phát triển của trẻ có tình cảm, có hứng thú vì thế nghệ thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chỗ biết hòa nhập vào thế giới của trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là một người bạn của trẻ, biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở lôi cuốn thu hút trẻ, từ đó giúp trẻ những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đủ điều kiện về thể lực, kiến thức, kỹ năng, hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ mầm non.
- cơ sở thực tiễn:
1.1 Giới thiệu chung về trường:
- Trường mầm non B Vạn Phúc nằm trên địa bàn xã Vạn Phúc, là một xã thuộc phía nam huyện Thanh Trì, nằm trong đê, ven sông hồng.
- Trường có một khu ở vị trí trung tâm thuộc thôn 3 của xã, khu vực dân cư. Trường được xây dựng khang trang, rộng rãi, đồ dùng trang thiết bị cho việc dạy và học tương đối đầy đủ. Được quan tâm rà soát bổ sung và sửa chữa hàng năm nên điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ rất tốt.
– Thành tích đạt được: Năm 2010 nhà trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia cấp độ I. Nhiều năm liên tục được công nhận là:
– Trường tiên tiến cấp huyện
– Chi bộ Đảng trong sạch vững mạnh
– Công đoàn vững mạnh xuất sắc
– Đoàn thanh niên chi đoàn vững mạnh
– Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ, phù hợp với từng độ tuổi. Được bổ sung, sửa chữa hàng năm
– CBGV,NV trong nhà trường: 44 đ/c
– BGH: 3 đ/c; trình độ chuyên môn trên chuẩn ( 2 đ/c đại học, 1 đ/c cao đẳng và đang học đại học)
– Giáo viên: 29 đồng chí trong đó: Đại học: 13 đ/c; cao đẳng: 4 đ/c
– Nhân viên: 12 đ/c: Đại học: 1 đ/c; cao đẳng:1 đ/c; trung cấp: 8 đ/c ( trong đó có 2 đ/c bảo vệ)
Đại học | Cao đẳng | Trung cấp | Không qua ĐT |
16 : 38 % |
6: 14 % |
21: 48% |
– CBGV,NV trong nhà trường là một tập thể đoàn kết, biết giúp đỡ lẫn nhau. Đội ngũ CBGV,NV đa số tuổi đời còn rất trẻ nên sức khỏe tốt, ngày công đảm bảo. rất năng nổ nhiệt tình trong công việc.
– Năm học 2012-2013 trường có 10 lớp với số trẻ là 430 trẻ, trong đó trẻ mẫu giáo lớn có 122 trẻ. Trẻ đi học tương đối chuyên cần tỷ lệ chuyên cần toàn trường trung bình đạt 90% trở lên
– Phụ huynh: Đa số phụ huynh làm nghề nông nghiệp. Nhưng sự phối kết hợp trong việc học tập của trẻ với cô giáo và nhà trường tương đối tốt. Phụ huynh đã có Sự quan tâm đến trẻ nhiều hơn so với những năm học trước. Công tác XHH đối với nhà trường luôn được phụ huynh quan tâm và ủng hộ.
– Tất cả những điều kiện, yếu tố trên, thuận lợi cho nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Chính vì vậy tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi để có những biện pháp tích cực giáo dục trẻ tốt hơn sau mỗi một năm học, Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho giáo viên và học sinh
– Ở năm học này tôi nhận thấy kỹ năng sống của trẻ mẫu giáo lớn chưa được hình thành tốt các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chăm sóc bản thân, kỹ năng tôn trọng người khác…..kỹ năng thể hiện văn hóa giao tiếp là kỹ năng quan trọng nó là sự tổng hợp của nhiều kỹ năng như kỹ năng quan sát, lắng nghe, hiểu lời nói…. Nhận thức mức độ cần thiết của việc hình thành kỹ năng thể hiện văn hóa giao tiếp tôi đã đưa ra một số biện pháp và lựa chọn những hoạt động phù hợp nhằm hình thành các kỹ năng này.
– Từ suy nghĩ của bản thân qua trao đổi tìm hiểu cán bộ, giáo viên trong nhà trường tôi thấy đội ngũ giáo viên chưa nhiều kinh nghiệm về việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Chưa tìm được biện pháp tích cực để có những tác động phù hợp hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong nhà trường chưa có kế hoạch cụ thể, chưa có sự thống nhất về nội dung dạy trẻ. Tôi đã tiến hành khảo sát kỹ năng cho trẻ qua 17 tiêu chí sau:
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/kynangsongtreem
Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng mầm non
Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng mầm non
PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta ai cũng đều biết rằng, hiện nay vấn đề dinh dưỡng mầm non – sức khỏe đang là tiêu điểm được cả xã hội quan tâm. Trong đó việc giáo dục dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe trẻ ở các trường mầm non được coi trọng hơn cả. Bởi lẽ trường mầm non là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn quá non nớt, chưa chủ động ý thức được đầy đủ về các chất dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân mình như thế nào. Điều đó đủ nói lên tầm quan trọng của vấn đề chăm sóc giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe học sinh trong trường mầm non. Vì vậy, trong mỗi nhà trường cần phải làm tốt đồng thời cả việc chăm sóc cũng như việc giáo dục dinh dưỡng, sức khỏe cho học sinh tới các đối tượng là giáo viên, phụ huynh học sinh, cộng đồng xã hội và ngay chính cả những đứa trẻ để đẩy mạnh chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ trong nhà trường.
Nhận thức được các lý do, tầm quan trọng nêu trên, trường mầm non B Tứ Hiệp những năm qua đã rất quan tâm đi sâu vào công tác chỉ đạo chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, bước đầu cũng đạt được một số kết quả nhất định xong cũng còn một 15số điểm còn hạn chế như kiến thức về dinh dưỡng – sức khoẻ của giáo viên, phương pháp dạy trẻ, cơ sở vật chất chưa đồng bộ…
Để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những điểm còn hạn chế nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng sức khoẻ cho trẻ tốt hơn tạo lòng tin với các bậc cha mẹ học sinh, đưa nhà trường ngày một đi lên. Đồng thời thực hiện nhiệm vụ của Phòng giáo dục Huyện phân công làm tốt chuyên đề “Chăm sóc nuôi dưỡng trẻ” nhằm giảm tỷ lệ trẻ duy dinh dưỡng, thấp còi. Vì vậy tôi đã tìm tòi nghiên cứu và đúc rút ra một số sáng kiến kinh nghiệm mầm non về công tác quản lý chỉ đạo nuôi dưỡng trong trường mầm non, đó là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên – nhân viên nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng – sức khoẻ cho trẻ ở trường mầm non”.
Mục đích của đề tài này:
Đề cập đến một số cơ sở khoa học của công tác giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe cho trẻ trong trường MN B Tứ HIệp.
Chỉ ra thực trạng về công tác giáo dục dinh dưỡng- sức khỏe ở trường mầm non B Tứ Hiệp.
Đề xuất một số kinh nghiệm để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh dinh dưỡng – sức khỏe ở trường mầm non B Tứ Hiệp.
Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên – nhân viên nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe” trong trường mầm non B xã Tứ Hiệp.
- Nghiên cứu về một số biện pháp bồi dưỡng nghiệp vụ về “Dinh dưỡng- sức khỏe” cho nhân viên nuôi dưỡng ở trường mầm non B xã Tứ HIệp.
Đối tượng khảo sát, thực nghiệm:
- Các cháu trường MN B xã Tứ HIệp.
- Giáo viên, nhân viên trường MN B xã Tứ Hiệp.
Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái quát…góp phần giải quyết mục đích yêu cầu, cách thực hiện các biện pháp của đề tài.
- Nhóm phương pháp thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra viết: Nhằm thu thập các thông tin về thực trạng biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng CSGD dinh dưỡng- sức khỏe cho trẻ trong trường MN B xã Tứ HIệp đối với tất cả giáo viên, nhân viên trong trường.
+Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu sổ sách, kế hoạch hoạt động của giáo viên, nhân viên để phát hiện thực trạng quản lý hoạt động giáo dục dinh dưỡng- sức khỏe trong trường.
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát một số hoạt động của giáo viên, nhân viên qua các giờ giao nhận thực phẩm, sơ chế chế biến và chăm sóc trẻ qua các hoạt động trong ngày tại trường mầm non B xã Tứ Hiệp.
Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu tại trường MN B xã Tứ Hiệp với 11nhóm lớp/ 310 học sinh và 6 cô nuôi dưỡng.
Thời gian nghiên cứu:
- Chọn đề tài : Từ tháng 9/2012 – Tháng 10/2012.
- Xây dựng đề cương : Từ tháng 10/2012 – Tháng 11/2012.
- Sửa đề cương : Từ tháng 11/2012 – Tháng 12/2012.
- Hoàn thiện các biện pháp : Từ tháng 12/2012 – Tháng 01/2013.
- Viết sáng kiến kinh nghiệm : Từ tháng 01/2013 – Tháng 3/2013.
- Sửa sáng kiến kinh nghiệm : Tháng 4/2013.
- Hoàn thiện SKKN : Tháng 5/2013.
néi dung s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
- CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục dinh dưỡng – sức khoẻ cho học sinh trong trường mầm non tưởng chừng như đơn giản, nhưng nó vô cùng quan trọng và vất vả đối với đội ngũ giáo viên nhân viên trong nhà trường hiện nay. Muốn có một thế hệ kế cận tương lai phát triển toàn diện mọi mặt, hài hoà cân đối về “Tri thức – Thể – Mỹ” thì chúng ta là người chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ cần tìm ra những biện pháp nuôi dạy phù hợp để giúp trẻ phát triển tốt hơn. Để thực hiện điều đó đòi hỏi phải có sự đầu tư về chiến lược con người. Con người phải có trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, chính trị, đặc biệt là sức khỏe của con người đây là yếu tố quyết định sự thành công của xã hội.
Bác Hồ đã nói: “Muốn có xã hội chủ nghĩa phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Và chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại hội nghị tổng kết ngành thể dục thể thao 23/03/1973 có nói: “Con người xã hội chủ nghĩa là con người khoẻ mạnh, lúc nào cũng sung sức, cơ thể tốt, thần kinh, tinh thần tốt”.
Có thể nói, nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục Mầm non là tạo điều kiện tốt nhất để phát triển hài hòa thể chất và tinh thần, phối hợp giữa gia đình và nhà trường, gia đình và xã hội để chăm sóc, giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi phát triển một cách toàn diện, đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành những phẩm chất con người XHCN:
- Khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa, cân đối.
- Giàu lòng yêu thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đỡ những người gần gũi, thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên.
- Yêu thích cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp và mong muốn tạo ra những cái đẹp xung quanh.
- Thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, có một số kỹ năng sơ đẳng (quan sát, so sánh, tổng hợp, suy luận…) cần thiết.
Để cho trẻ có một cơ thể khoẻ mạnh và phát triển toàn diện, tôi tập trung nghiên cứu tìm tòi nhiều biện pháp chỉ đạo giáo viên, nhân viên để nâng cao chất lượng dinh dưỡng – sức khỏe cho trẻ, nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tình trạng ngộ độc thức ăn trong nhà trường, tăng cường vệ sinh dinh dưỡng giúp trẻ phát triển toàn diện cả về trí lực và thể lực.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
- Đặc điểm chung:
Trường mầm non B xã Tứ Hiệp có 03 khu nằm trên địa bàn Cổ Điển A, Cổ Điển B, Đồng Trì. Mỗi thôn cách xa từ 1,5 – 3km, trường có 11 lớp, trong đó có 02 lớp nhà trẻ và 09 lớp mẫu giáo. Đầu năm có 277 cháu ra lớp.
Toàn trường có 42 đ/c CB – GV- NV. Trong đó:
– CBQL : 03/03 đ/c trình độ trên chuẩn đạt tỷ lệ 100%.
– Giáo viên : 26 đ/c trong đó:
+ 14/26 đ/c trình độ trên chuẩn đạt tỷ lệ 53,8%.
+ 12/26 đ/c trình độ chuẩn đạt tỷ lệ 46,2%.
– Nhân viên : 13 đ/c, trong đó:
+ Cô nuôi: 06/06 đ/c có bằng trung cấp nấu ăn và kỹ thuật nấu ăn 3/7 đạt tỷ lệ 100%.
+ Kế toán: 01/01 đ/c có trình độ Cao Đẳng Tài chính kế toán.
+ Nhân viên y tế kiêm thủ quỹ: 01/01 đ/c có trình độ Trung cấp Y Hà Nội.
+ Nhân viên văn thư kiêm thủ kho: 01/01 đ/c có trình độ Trung cấp Hành chính văn phòng.
+ Nhân viên bảo vệ: 01/04 đ/c có trình độ Trung cấp tin học.
- Thuận lợi:
– Được sự quan tâm của UBND Huyện, Phòng giáo dục Huyện Thanh Trì và Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, động viên, tạo điều kiện cho giáo viên – nhân viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tạo điều kiện cho giáo viên, nhân viên làm việc.
Trường nhiều năm đạt tiên tiến cấp Huyện.
– Đội ngũ giáo viên- nhân viên trình độ đạt chuẩn và đa số trên chuẩn.
– Tập thể giáo viên đoàn kết.
– Cơ sở vật chất ngày càng được hoàn thiện, đồ dùng phục vụ chăm sóc nuôi dưỡng được trang bị đầy đủ.
– Trường có uy tín với phụ huynh học sinh.
– 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
- Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trường còn có những khó khăn như sau:
– Bản thân tôi mới được bổ nhiệm CBQL và được phân công phụ trách chăm sóc nuôi dưỡng và các phong trào thể dục thể thao trong trường nên kinh nghiệm quản lý còn hạn chế.
– §a sè phô huynh lµm n«ng nghiÖp, cha quan t©m ch¨m sãc con c¸i nªn tØ lÖ suy dinh dìng, thÊp cßi ®Çu n¨m ë trÎ cßn kh¸ cao:
+ Suy dinh dìng : 25 trÎ = 9%.
+ ThÊp cßi : 41 trÎ = 14,8%
+ BÐo ph× : 1 trÎ = 0,4%
– Trường có 3 điểm lẻ nên việc quản lý còn gặp nhiều khó khăn.
– Đa số các bếp còn chật hẹp, đồ dùng phục vụ nuôi dưỡng trang bị chưa phong phú, hiện đại.
– Mức tiền ăn thấp (15000đ/trẻ/ngày), giá cả tăng nên chất lượng bữa ăn cân đối lượng dưỡng chất còn hạn chế.
– Một số giáo viên mới vào ngành nên kiến thức về dinh dưỡng sức khỏe và kinh nghiệm chăm sóc trẻ còn hạn chế, sự truyền đạt kiến thức dinh dưỡng cho trẻ chưa hấp dẫn trẻ, còn mờ nhạt ít ấn tượng, mau quên.
– Trường còn thiếu phòng học và các phòng chức năng, có 02 lớp học ghép hai độ tuổi nên công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ vẫn gặp nhiều khó khăn.
Ví dụ: Tổ chức giờ ăn cho trẻ ở lớp ghép 2 độ tuổi còn hạn chế trong quy trình nhận số lượng thức ăn, đảm bảo đúng, đủ định lượng và xuất ăn hàng ngày của trẻ.
Với những đặc điểm tình hình nhà trường như trên, để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học, đặc biệt là nhiệm vụ chăm sóc giáo dục dinh dưỡng – sức khoẻ cho trẻ, tôi đã thực hiện một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng trong trường mầm non tạo lòng tin với các bậc phụ huynh đưa nhà trường ngày một đi lên như sau:
Theo: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/dinhduongmamnonee
kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường mầm non
kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường mầm non
kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường mầm non kế hoạch bảo vệ môi trường trong trường học kế hoạch bảo vệ môi trường 2014 kế hoạch bảo vệ môi trường năm 2012 kế hoạch bảo vệ môi trường năm 2015 kế hoạch bảo vệ môi trường tỉnh bình dương kế hoạch bảo vệ môi trường ngành y tế kế hoạch bảo vệ môi trường trường tiểu học
- ĐẶT VẤN ĐỀ
kế hoạch bảo vệ môi trường là gì Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, xã hội vật chất bao quanh con người, có mối quan hệ mật thiết với nhau ảnh hưởng tới đời sống và sự tồn tại phát triển của con người và thiên nhiên.
Để đảm bảo cho con người được sống trong một môi trường lành mạnh thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được hình thành và rèn luyện thành một thói quen, đặc biệt là lứa tuổi mầm non giúp cho trẻ có khái niệm ban đầu về môi trường sống của bản thân mình nói riêng và con người nói chung là cần thiết. Từ đó biết cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của cơ thể và trí tuệ.
Trong nhà trường, môi trường giáo dục và môi trường sư phạm bao gồm tổng hóa các yếu tố môi trường tự nhiên, không gian (đất đai vị trí địa lý, hệ sinh tự nhiên) môi trường kiến tạo như: các công trình nhà làm việc, bếp ăn, lớp học, sân chơi khu vệ sinh vườn hoa cây cảnh.
Trẻ em ở lứa tuổi mầm non đang hình thành và phát triển, cơ thể trẻ còn non nớt, sự tăng trưởng văn hóa qua giao lưu chịu sự tác động mạnh mẽ, có tính quyết định của môi trường xung quanh, để trẻ có một cơ thể khỏe mạnh và thông minh nhanh nhẹn hình thành nhân cách lành mạnh làm nền tảng cho các giai đoạn phát triển sau này, chúng ta cần phải xây dựng và bảo vệ môi trường sống của trẻ và giáo dục trẻ biết yêu quý bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp.
Sau gia đình môi trường thứ hai chịu trách nhiệm dạy dỗ, chăm sóc và giáo dục trẻ đó là trường mầm non. Đây là khoảng thời gian hoạt động, sinh hoạt ăn ngủ của trẻ hai bữa trong ngày diễn gia nhiều hơn ở nhà, vì vậy giáo viên cần phải rèn cho trẻ thói quen kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử, nề nếp, vệ sinh sạch sẽ gọn gàng ngăn nắp, giúp trẻ có hệ thống kiến thức tốt trong cuộc sống.
Tóm lại gia đình và nhà trường là hai môi trường đầu tiên của trẻ được giáo dục đó là vai trò hết sức quan trọng, giáo dục trẻ không phải là trách nhiệm của gia đình, và giáo viên mà còn là nghĩa vụ đối với xã hội sách hướng dẫn bảo vệ môi trường trong trường mầm non.
Năm 2008 Bộ Giáo Dục & Đào Tạo ra chỉ thị số 40/2008/ QĐ- BGD&ĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo về nhiệm vụ “ Xây dựng môi trường thân thiện, học sinh tích cực” để thực hiện tốt phong trào thi đua này tất cả các trường học cần phải xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp theo đúng nghĩa và phù hợp với tinh thần địa phương, song song với phong trào thi đua này căn cứ công văn 751/ SGD&ĐT- GDTHMN ngày 17/08/2009 về việc thực hiện hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục mầm non 2009 – 2010 trong văn bản chỉ đạo nội dung thực hiện vệ sinh môi trường và nước sạch cho trẻ mầm non.
Từ những nội dung và nhiệm vụ lý do tôi chọn đề tài: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên, nhân viên xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp trong trường Mầm Non A Vạn Phúc.
*Mục đích của đề tài :
– Đánh giá thực trạng của công tác bảo vệ môi trường xanh – sạch đẹp ở trường mầm non .
– Tìm ra hệ thống các biện pháp chỉ đạo bảo vệ môi trường cho trẻ ở trường mầm non.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
–Các biện pháp chỉ đạo cán bộ – giáo viên – nhân viên xây dựng và bảo vệ môi trường ở trường mầm non A Vạn Phúc.
* Phạm vi áp dụng :
Tại trường mầm non A Vạn Phúc năm 2012-2013
Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng cao, những trận động đất những con sóng thần ở nước Nhật Bản làm mất mát và thiệt hại về tiền của và con người. Ảnh hưởng đến kinh tế và khả năng hồi phục sau những thiên tai ấy là rất lớn, do đó để bảo vệ môi trường chung của toàn cầu chúng ta phải thực hiện nhiều những biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được xem là quan trọng có hiệu quả nhất ở lứa tuổi mầm non, giáo dục trẻ có ý thức từ nhỏ bảo vệ môi trường tạo thói quen cơ sở cho việc hình thành nhân cách của con người.
Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường tôi xác định là một trong những nhiệm vụ cần thiết được tiến hành có kế hoạch chiến lược cụ thể hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được lồng ghép vào các hoạt động hàng ngày tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm những vốn sống của bản thân.
Đồng hành những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết vấn đề này để mang lại hiệu quả cao nhất là điều mà những người làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công tác này không thể thiếu được sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục gia đình – nhà trường – xã hội.
biện pháp bảo vệ môi trường Trường mầm non toàn trường có 3 khu với 13 lớp học đảm bảo thoáng mát.sạch sẽ,có đầy đủ đồ dùng dạy học,đủ đồ chơi mầm non đáp ứng cho trẻ,có công trình vệ sinh sạch sẽ,đúng quy định,có đủ nước sạch phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ. Toàn trường có 52 đồng chí cán bộ, giáo viên,nhân viên trong đó: Ban giám hiệu 3 đồng chí,giáo viên có 32 đồng chí, 9 nhân viên cô nuôi, 1 nhân viên y tế,1 nhân viên kế toán,1 nhân viên văn thư,5 nhân viên bảo vệ. Số trẻ toàn trường là 440 trẻ/13 lớp trong đó nhà trẻ
2.Thuận lợi: hướng dẫn bảo vệ môi trường trong trường mầm non
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo UBND huyện,phòng giáo dục đào tạo huyện thanh trì,UBND xã Vạn Phúc,xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Đầu tư kinh phí 10 tỉ đồng xây dựng trường mầm non thôn 1 với 6 phòng học và đầy đủ các phòng chức năng, các trang thiết bị hiện đại. Có phòng y tế riêng,trang thiết bị y tế đầy đủ,đã có nhân viên y tế trình độ chuyên môn trung cấp y phụ trách công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình,quan tâm đến trẻ và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc,97% cán bộ giáo viên,nhân viên đều có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên.Phụ huynh học sinh có ý thức phối hợp tốt cùng với nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
3.Khó khăn:
Trường có 3 khu cách xa nhau nên khó khăn cho việc quản lý của cán bộ và chăm sóc sức khỏe trẻ với nhân viên y tế.
Khu 2 phòng học xuống cấp còn phải học nhờ nhà văn hóa thôn,diện tích còn chật hẹp nên ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường hoạt động của trẻ.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: hướng dẫn bảo vệ môi trường trong trường mầm non
Để làm tốt công tác bảo vệ môi trường trong công tác trọng tâm của năm học, trong kế hoạch tôi xây dựng hàng tháng biện pháp cụ thể để thực hiện các biện pháp, các chỉ tiêu đó nhằm hoàn thành công việc đạt hiệu quả cao.
Không thể thiếu công tác tuyên truyền trao đổi thông tin giữa gia đình và nhà trường, tôi đã nhận thấy điểm mạnh và điểm yếu trong vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp. Do vậy, ngay đầu năm tôi đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên, nhân viên nhà trường thực hiện công tác bảo vệ môi trường với mục tiêu như sau.
Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và phụ huynh học sinh từ đó có ý thức bảo vệ môi trường sạch sẽ, văn minh.
Tags: sang kien kinh nghiem mam non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/baovemoitruongmamnon
hướng dẫn bảo vệ môi trường bài tập bảo vệ môi trường bảo vệ môi trường bình dương bảo vệ môi trường 12 bảo vệ môi trường có bạn hướng dẫn kinh phí hoạt động bài viết về bảo vệ môi trường bảo vệ môi trường là gì biện pháp bảo vệ môi trường
Nội dung bồi dưỡng kiến thức về vi chất dinh dưỡng
Nội dung bồi dưỡng kiến thức về vi chất dinh dưỡng
kiến thức về vi chất dinh dưỡng vi chất dinh dưỡng là gì ngày vi chất dinh dưỡng các vi chất dinh dưỡng thiếu vi chất dinh dưỡng các chất dinh dưỡng có trong thức ăn. vai trò của chất bột đường các chất dinh dưỡng có trong thức ăn lớp 4 chất dinh dưỡng trong trứng gà chất dinh dưỡng trong chuối
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO BỔ SUNG NHU CẦU VI CHẤT DINH DƯỠNG TRONG BỮA ĂN CỦA TRẺ TẠI TRƯỜNG MẦM NON
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hàng ngày, cơ thể con người cần rất nhiều vi chất dinh dưỡng để tăng trưởng, phát triển và duy trì các hoạt động như: Học tập, lao động, sáng tạo, vui chơi, giải trí… Tuy nhiên, ở Việt Nam các bệnh do thiếu vi chất dinh dưỡng như: thiếu Vitamin A, vitamin D, thiếu máu do thiếu sắt, thiếu iốt… đều rất phổ biến và được coi là những vấn đề sức khỏe cộng đồng.
Vi chất dinh dưỡng là gì ? Vi chất dinh dưỡng là các chất mà cơ thể con người chỉ cần với một lượng rất nhỏ nhưng nếu thiếu hụt sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng đối với sức khỏe.
Vi chất dinh dưỡng tham gia vào việc xây dựng nên các tế bào, các mô; tham gia vào các hoạt động như hô hấp, chuyển hóa, bài tiết của tế bào; tham gia xây dựng nên hệ thống miễn dịch của cơ thể; tham gia vào nhiều cơ chế hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể, có tác dụng duy trì sự cân bằng của hệ thống nội mô, giúp phục hồi các tế bào, các mô bị tổn thương.
Ngoài ra, vi chất dinh dưỡng còn là thành phần chủ yếu để tạo ra các hoocmon, các dịch tiêu hóa…
Tóm lại các vi chất dinh dưỡng, vi chất dinh dưỡng có nhiều vai trò khác nhau đối với cơ thể, giúp cho cơ thể có thể phát triển trí tuệ, thể chất, giúp cho cơ thể khỏe mạnh chống đỡ bệnh tật. Đặc biệt vi chất dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng về chiều cao và cân nặng.
Tại hội thảo khoa học do Viện Dinh Dưỡng quốc gia tổ chức ở Hà Nội, Phó viện trưởng viện dinh dưỡng quốc gia Lê Bạch Mai cho biết: “Trẻ em Việt Nam thiếu nghiêm trọng vi chất dinh dưỡng, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi đều cao”
Thống kê của Viện dinh dưỡng cho thấy, có tới 38-60% trẻ em dưới 5 tuổi bị chứng biếng ăn. Đây không phải là bệnh, mà nguyên nhân là do thiếu vi chất như thiếu canxi, vitamin D, sắt, kẽm… Hậu quả là trẻ có chiều cao, cân nặng không bằng các bạn cùng tuổi, khả năng miễn dịch kém, thậm chí chỉ số phát triển trí tuệ của trẻ biếng ăn thấp hơn tới 14 điểm so với trẻ bình thường.
Chương trình phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng cho trẻ do Viện dinh dưỡng quốc gia tiến hành đã bổ sung vitamin A cho trẻ dưới 36 tháng tuổi (ở các vùng nghèo bổ sung đến nhóm trẻ dưới 60 tháng tuổi). Việt Nam cũng đã có những quy định chặt chẽ để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng như yêu cầu bột mì nhập khẩu phải được bổ sung vi chất, có những thực phẩm đặc thù như nước mắm bổ xung vi chất, bột canh i ốt, muối trộn i ốt… Tuy nhiên thiếu vi chất dinh dưỡng, theo phó viện trưởng viện dinh dưỡng thì việc đa dạng bữa ăn để lấy được nhiều nguồn vi chất từ các thực phẩm khác nhau vẫn là biện pháp dễ thực hiện, vừa nâng tầm vóc cho trẻ, vừa cải thiện trí tuệ để trẻ đủ sức bền và năng lực tiếp cận với những đổi mới hàng ngày.
Những năm gần đây, hoạt động nuôi dưỡng trong trường mầm non đã nhận được sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn cho trẻ ở các trường mầm non nói chung, đặc biệt là trường mầm non xã Duyên Hà nói riêng, chưa thực sự được quan tâm và còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong năm học 2012-2013 nhà trường đã thực hiện tính lượng Canxi, B1 trong khẩu phần ăn cho trẻ, nhưng để tính lượng bao nhiêu thì đủ hoặc để tìm ra những thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng bổ sung cho bữa ăn của trẻ đối với cán bộ giáo viên, nhân viên trong trường còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là đối với các bậc phụ huynh, đa số làm nông nghiệp, việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng ít thì lại càng hạn chế hơn.
Để làm tốt công tác nuôi dưỡng trong trường mầm non thì đòi hỏi mỗi cán bộ giáo viên, nhân viên không chỉ thực hiện tốt quy chế nuôi dạy trẻ, mà còn phải nâng cao sự hiểu biết về tầm quan trọng của việc bổ sung vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ.
Muốn nâng cao được chất lượng nuôi dưỡng trong trường mầm non, đòi hỏi mỗi người cán bộ quản lý công tác nuôi dưỡng phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, biết tiếp cận, vận dụng kịp thời những kiến thức mới, khoa học trong hoạt động nuôi dưỡng trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng của vi chất dinh dưỡng đối với trẻ trong trường mầm non, là phó hiệu trưởng phụ trách công tác chăm sóc nuôi dưỡng, tôi luôn trăn trở làm thế nào để đổi mới quản lý, chỉ đạo tốt việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng cho trẻ vào các bữa ăn, có biện pháp nào để giáo viên, nhân viên nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng cho trẻ, để thông qua việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn, giúp nâng tầm vóc cho trẻ, cải thiện trí tuệ để trẻ đủ sức bền và năng lực tiếp cận với những đổi mới hàng ngày.
Tôi đã áp dụng các biện pháp dưới tên đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ tại trường mầm non Duyên Hà”.
Mục đích của đề tài:
Đối với cán bộ quản lý: Đánh giá được thực trạng của công tác nuôi dưỡng, tìm ra được hệ thống các biện pháp chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong công tác nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non Duyên Hà.
Đối với giáo viên, nhân viên: Nhận thức rõ tầm quan trọng và có ý thức đúng đắn trong việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong trong các bữa ăn của trẻ tại trường mầm non Duyên Hà.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Các biện pháp chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ tại trường mầm non Duyên Hà.
Phạm vi áp dụng:
Tại trường mầm non Duyên Hà năm học 2013-2014.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Cơ sở lý luận
Vi chất dinh dưỡng bao gồm các vitamin tan trong nước (vitamin nhóm B,C), các vitamin tan trong chất béo (vitamin A, D, E, K) và các chất khoáng (sắt, kẽm, iốt, đồng, mangan, magiê). Tuy các vi chất này không cung cấp năng lượng nhưng lại không thể thiếu đối với sự phát triển bình thường của cơ thể.
Vitamin và khoáng chất đặc biệt quan trọng đối với sức khỏe, nhưng cơ thể không tự tổng hợp được. Để không thiếu vi chất ảnh hưởng trực tiếp tới các yếu tố phát triển cả về mặt sức khỏe lẫn trí tuệ. Cần cung cấp đầy đủ và đa dạng từ các nguồn thức ăn.
Trong đó, vitamin A, sắt, i-ốt, kẽm là những vitamin và khoáng chất mà trẻ rất dễ bị thiếu. Ngay cả trẻ không bị suy dinh dưỡng vẫn có thể thiếu do chế độ dinh dưỡng chưa hợp lý.
Biếng ăn, sức đề kháng giảm, dễ nhiễm bệnh là hậu quả của tình trạng thiếu vi chất. Việc thiếu từng chất cụ thể sẽ có những dấu hiệu đặc trưng.
Tuy nhiên việc chế biến, lưu trữ thực phẩm không đúng cách cũng làm mất một lượng lớn vitamin và khoáng chất: rau bị héo, trái cây không còn tươi nên mất nhiều vitamin C, gạo càng trắng càng ít vitamin B1, thức ăn nấu quá chín thì vitamin C sẽ không còn…
Nâng cao chất lượng nuôi dưỡng trẻ trong việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày của trẻ, cũng là một nội dung rất quan trọng của việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI- thời đại của nền văn minh trí tuệ. Để giáo dục mầm non có những chuyển biến mới về chất lượng, đổi mới trong sự đổi mới chung của ngành giáo dục đào tạo.
- Mô tả thực trạng
– Trường mầm non Duyên Hà nằm ở vùng trũng nhất vùng bãi ven Sông Hồng, thường hay chịu ảnh hưởng của lũ lụt.
– Toàn xã có 3 thôn, dân cư không tập chung và rải rác ở nhiều xóm cách xa nhau.
– Trường có 3 cơ sở mầm non: Đại Lan, Tranh Khúc, Xóm Mới với 3 khu bếp phục vụ nấu ăn cho trẻ tại khu.
– Tổng số trẻ trong trường tới thời điểm tháng 4/2014 là 438 trẻ. Với tổng số 53 cán bộ giáo viên nhân viên, trong đó có 33 giáo viên và 09 nhân viên phục vụ công tác nuôi dưỡng tại 3 bếp ăn.
– Đa số phụ huynh trong trường là nghề nông, làm màu trồng rau nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn.
2.1 Thuận lợi
– Trường được trang bị tương đối đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác nuôi dưỡng trẻ.
– Trường có phó hiệu trưởng phụ trách công tác chăm sóc nuôi dưỡng riêng, được trang bị máy tính riêng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng.
– Phó hiệu trưởng phụ trách nuôi dưỡng, được học qua khóa đào tạo tin học chuyên đề Exel kế toán, nên dễ dàng trong việc thiết lập các công thức để tính toán chế độ dinh dưỡng, lượng vi chất dinh dưỡng có trong thực phẩm áp dụng cho bữa ăn hàng ngày của trẻ tại trường.
– Phó hiệu trưởng phụ trách nuôi dưỡng đã nhiều năm quản lý về mảng nuôi dưỡng trẻ nên có kinh nghiệm trong việc quản lý công tác nuôi dưỡng.
– 100% nhân viên nuôi dưỡng có bằng kỹ thuật nấu ăn.
2.2 Khó khăn
-Trường có nhiều điểm lẻ, cách xa nhau, nên theo dõi kiểm tra việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng đối với giáo viên, nhân viên còn gặp nhiều khó khăn.
– Trường nằm ngoài vùng bãi, cách xa khu trung tâm, xa các khu chợ, khu công nghiệp lớn… nên rất khó khăn cho việc ký hợp đồng thực phẩm với các công ty, cơ sở cung cấp thực phẩm sạch, an toàn.
– Trường nằm ngoài vùng bãi, môi trường ẩm thấp hay có mối mọt nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc lữu trữ hàng kho của trẻ đảm bảo an toàn.
– Cơ sở vật chất 2 khu Đại Lan, Công Đoàn còn nghèo nàn, đặc biệt là bếp ăn còn chật hẹp, tạm bợ, chưa đảm bảo bếp 1 chiều nên rất khó khăn trong việc thực hiện công tác nuôi dưỡng tại khu bếp cho trẻ.
– Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường chưa có nhiều kiến thức về vi chất dinh dưỡng, chưa quan tâm tới việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng vào bữa ăn hàng ngày của trẻ .
– Đa số phụ huynh làm nông nghiệp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, chưa có nhiều kiến thức, chưa quan tâm đến việc bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng cho trẻ nên tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi ở trẻ đầu năm vào tháng 09/2013 còn khá cao:
+ Suy dinh dưỡng: 28/384 trẻ = 7.3%.
+ Thấp còi : 35/384 trẻ = 9.1%.
- Các biện pháp thực hiện
3.1 Xây dựng kế hoạch chỉ đạo bổ sung nhu cầu vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn cho trẻ
Kế hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý.
V.I.Lênin đã từng ví: “Mọi kế hoạch đều là thước đo, tiêu chuẩn, đèn pha và là cái mốc”.
Đối với trường mầm non, chất lượng của kế hoạch và hiệu quả thực hiện kế hoạch nuôi dưỡng quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình nuôi dưỡng trẻ, nên việc xây dựng kế hoạch là rất quan trọng. Nó giúp người quản lý nuôi dưỡng hình dung rõ ràng mọi công việc và chủ động trong công việc.
Nhìn vào thực tế công tác nuôi dưỡng của nhà trường, công tác nuôi dưỡng của các trường bạn trong huyện, cũng như yêu cầu đặt ra trong kế hoạch triển khai nhiệm vụ năm học của Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội, Phòng giáo dục và đào tạo Huyện Thanh Trì đối với công tác nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non, tôi đã nhận định được những điểm mạnh, điểm yếu trong công tác nuôi dưỡng của trường mình. Từ đó, tôi xây dựng lịch trình cả năm học cho công tác nuôi dưỡng như sau:
Theo: sang kien kinh nghiem mam non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/vichatdinhduongmamnon
Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ
Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ
Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ cách chế biến món ăn ngon cách chế biến món ăn ngon mùa hè cách chế biến món ăn ngon từ thịt lợn cách chế biến món ăn ngon hàng ngày chế biến các món ăn ngon cách chế biến các món ăn ngon từ cá chế biến món ăn từ rau chùm ngây chế biến món ăn từ vịt
Mỗi lần đi thăm nhà trẻ, gặp gỡ các cô nuôi dạy trẻ Bác thường nhắc nhở “ Phải giữ vệ sinh cho các cháu, các cô phải học hành tốt, nuôi dạy các cháu ngoan và khỏe”. Bác đã chỉ thị cho ngành giáo dục Mầm non “ Muốn cho người mẹ sản xuất tốt, cần tổ chức tốt những nơi giữ trẻ”. Trường Mầm non là nơi Chăm sóc – Nuôi dưỡng – Giáo dục trẻ ngay từ 18 tháng đến 72 tháng. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu phát triển toàn diện thì phải kết hợp hài hòa giữa nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Trong đó, nuôi dưỡng là nhiệm vụ quan trọng của quá trình chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Nuôi dưỡng đảm bảo chất lượng có tác dụng tăng cường và bảo vệ sức khỏe cho trẻ, giúp trẻ phát triển tốt tạo điều kiện để thực hiện nội dung giáo dục toàn diện.
Muốn có chất lượng nuôi dưỡng tốt, trước hết là cô nuôi cần phải làm tốt việc chế biến món ăn cho trẻ, thực hiện tốt quy chế nuôi dạy trẻ, đặc biệt phải luôn tìm tòi cách chế biến món ăn ngon, sáng tạo để nâng cao chất lượng chế biến món ăn cho trẻ.
Bởi thực tế, trẻ 24 – 36 tháng đã ăn được cơm nát và ăn nhiều loại thức ăn hơn nhưng trẻ rất dễ bị chớ, nôn và khó ăn vì vậy cần có cách chế biến riêng: Chú ý tới thức ăn mềm, nghiền nát, nấu nhừ xay nhỏ. Trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi), trẻ có nhu cầu ăn ngon hơn và tiêu hóa được nhiều loại thức ăn hơn, thích lựa chọn các món ăn hấp dẫn với trẻ. Mặt khác, trẻ lại mau chán ăn và ít tập trung vào bữa ăn.
Hiện nay ở một số trường mầm non chưa thực sự chú ý đến chế biến món ăn cho trẻ nhà trẻ (thường cho trẻ ăn như trẻ mẫu giáo) và việc cách chế biến món ăn ngon hàng ngày cho trẻ ít thay đổi, cải tiến, chưa quan tâm đến kỹ thuật chế biến chủ yếu nấu đủ lượng vừa ăn.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi đã đầu tư suy nghĩ, phối hợp trong tổ nuôi nghiên cứu tìm cách chế biến món ăn ngon, lạ miệng đối với trẻ vì vậy tôi đã chọn và viết đề tài “Một số biện pháp chế biến món ăn ngon cho trẻ tại trường mầm non”.
PHẦN II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khát vọng lớn nhất của các bậc cha mẹ là nhìn thấy con mình khôn lớn, khỏe mạnh từng ngày. Ngay từ khi mới sinh, cha mẹ đã dành sự chăm sóc tốt nhất cho con, điều lo lắng của tất cả các ông bố bà mẹ là mình đã chăm con theo phương pháp tốt nhất chưa? Và quan trọng hơn là họ luôn mong muốn con mình khi trưởng thành sẽ được phát triển cơ thể cân đối, cao lớn như các bạn cùng trang lứa.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non còn rất non nớt, cơ thể đang phát triển mạnh về thể lực và trí tuệ do vậy khi gửi con đến trường mầm non cha mẹ trẻ luôn muốn con mình được các cô giáo chăm sóc dậy dỗ chu đáo, cho con mình được ăn no, ăn ngon, ăn đủ chất. Với kinh nghiệm chế biến các món ăn ngon ba năm công tác ở tổ nuôi, công việc chính là chế biến thức ăn cho trẻ. Tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để chế biến các món ăn ngon nhất, đủ chất, đủ lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm đáp ứng sự tin tưởng của phụ huynh khi gửi con đến trường chúng tôi.
- CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trường mầm non B xã Vạn Phúc nằm ở cuối huyện Thanh Trì, trường được xây dựng khang trang, có 1 khu, đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 và nhiều năm liền đạt danh hiệu “Trường tiên tiến” cấp huyện.
Năm học 2011 – 2012 tổng số trẻ toàn trường là 320 trẻ nhưng đến năm học 2012 – 2013 tổng số trẻ toàn trường là 435 trẻ.
Trong đó có 10 lớp 2 lớp nhà trẻ ( 24 – 36 tháng) với số cháu là 90 cháu và 8 lớp mẫu giáo: 345 cháu.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên: 44 đồng chí.
- Trong đó: Ban giám hiệu 3, giáo viên 29, cô nuôi 7, nhân viên 6.
- 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
- Thuận lợi
Trường mầm non B xã Vạn Phúc đạt chuẩn Quốc Gia mức độ 1 và luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và đào tạo, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì.
Trường rộng rãi, khang trang, có đồ dùng phục vụ công tác chăm só nuôi dưỡng trẻ, bếp ăn được xây dựng một chiều, đảm bảo vệ sinh (100% đồ dùng ăn uống cho trẻ được trang bị bằng inox).
7/ 7 cô nuôi có bằng kỹ thuật nấu ăn.
Học sinh đi học đều, chuyên cần đúng giờ.
Nhà trường ký hợp đồng thực phẩm với các chủ hàng là phụ huynh, các công ty cung cấp thực phẩm có đủ tư cách pháp nhân: Yêu cầu các chủ hàng có đầy đủ cam kết an toàn vệ sinh thực phẩm và đưa đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, giá cả hợp lý (thấp hơn giá thị trường 1- 2 giá).
- Khó khăn
Hiện nay giá cả các mặt hàng thực phẩm tăng nhanh, nên số tiền ăn của trẻ (15.000 đồng/ ngày) chưa đủ đáp ứng nhu cầu ăn uống cho trẻ.
Thời tiết thay đổi dẫn đến nhiều dịch bệnh xảy ra như: dịch bệnh tiêu chảy, thủy đậu, cúm H9N7, lở mồm long móng, lợn tai xanh…xảy ra thường xuyên.
Phụ huynh đa số làm nghề nông và buôn bán nên họ vẫn chưa có nhiều thời gian quan tâm đến việc chăn sóc và giáo dục trẻ ở nhà cũng như ở trường.
Thời tiết thay đổi bất thường, giá cả thực phẩm biến động theo ngày, do đó việc thay đổi thực đơn cân đối khẩu phần và chế biến món ăn cho trẻ gặp nhiều khó khăn.
Nhiều trẻ lớp bé kén ăn, ăn chậm, nhiều trẻ được gia đình quá nuông chiều thường xúc cho trẻ ăn, cho trẻ ăn dong…..
III. CÁC HÌNH THỨC VÀ BIỆN PHÁP
Biện pháp 1: Tham mưu, phối hợp với Ban giám hiệu, kế toán xây dựng thực đơn phong phú, tìm món ăn mới
Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn cho trẻ là một việc làm quan trọng mang tính khoa học, nhằm mục đích sử dụng tiền ăn đạt hiệu quả cao. Trước đây trường tôi thường ít thay đổi thực đơn cho trẻ, hoặc chỉ thay đổi một số loại thực phẩm thông thường và tỷ lệ calo, các chất chưa cân đối, chưa chú trọng trong việc chế biến món ăn cho trẻ. Năm học 2012 – 2013 được sự quan tâm chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Trì đã tổ chức cho cô nuôi được tham gia các buổi học tập xây dựng thực đơn và kiến tập nuôi dưỡng tại các trường trong huyện. Qua đó, tôi cùng với tổ nuôi đã tham mưu với hiệu phó nuôi, kế toán xây dựng thực đơn theo mùa, theo tuần và thường xuyên thay đổi cách chế biến, tìm các món ăn lạ miệng, hấp dẫn đảm bảo tỷ lệ calo, cân đối các chất cho trẻ như: Tôm thịt sốt chua ngọt, trứng đúc tôm thịt nấm hương, cháo lươn, cháo gà, cháo tôm, tôm thịt sốt cà chua, gà xào ngũ sắc, thịt bò hầm khoai tây cà rốt…
Sau khi thực đơn mới được áp dụng tại trường, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu thực đơn đã có trước đây, tham khảo các món trên sách báo, trên mạng iternet và trực tiếp theo dõi đánh giá khẩu vị của trẻ: Trẻ thích (không thích) ăn món gì? Mùa hè, mùa đông món ăn nào trẻ thích ăn? Vì sao trẻ thích hoặc không thích ăn món đó? Do hợp khẩu vị, do chế biến ngon, chưa hấp dẫn hoặc món ăn đó mới lạ miệng với trẻ…
Các món ăn cách chế biến món ăn ngon từ thịt lợn, khi chế biến tôi thường phối hợp với các loại rau củ quả có màu sắc đẹp để thu hút, lôi cuốn tạo cảm giác hứng thú thích ăn cho trẻ.
Chúng tôi đã lựa chọn những lương thực, thực phẩm giàu Protein như tôm đồng, cá, gà, cua, lạc, đậu đỗ và các loại rau sẵn có theo mùa tại địa phương hoặc nguồn rau sạch trồng được tại trường để xây dựng vào các món ăn trong thực đơn của trẻ.
Để trẻ ăn ngon, hết suất, thức ăn phải có mùi vị thơm ngon hấp dẫn tôi đã phối hợp trong tổ nuôi để thường xuyên thay đổi cách chế biến trong quá trình nấu nướng biết cách phối hợp từng món ăn để tạo nên mùi vị đặc trưng hơn và trẻ ăn rất ngon miệng.
Kết Quả
Cùng với sự tham mưu của tổ nuôi chúng tôi, nhà trường đã xây dựng được thực đơn theo mùa hè, mùa đông, theo tuần chẵn, tuần lẻ đa dạng, phong phú, phù hợp với khả năng ăn của trẻ, trẻ rất thích ăn và ngon miệng. Khẩu phần ăn của trẻ cân đối luôn đảm bảo tỷ lệ các chất theo yêu cầu như: P: 14 – 16%, L: 24-26, G: 60 – 62%, canxi: 250 – 300mg, B1: 0.3 mg, đảm bảo phân phối tiền ăn hợp lý giữa các món ăn
Biện pháp 2: Thực hiện tốt công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm.
Món ăn ngon là món ăn có giá trị dinh dưỡng cao khi món ăn đó được làm từ những thực phẩm tươi, ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó hàng ngày tôi và các cô nuôi luôn nghiêm túc thực hiện đúng lịch phân công giao nhận thực phẩm Ban giám hiệu đã xây dựng. Trường chúng tôi đã ký kết hợp đồng với các chủ hàng là các công ty, phụ huynh… những nơi có đầy đủ giấy phép kinh doanh, thực phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm do trung tâm tế huyện cấp.
Khi tiếp nhận thực phẩm hàng ngày chúng tôi luôn nghiêm túc ghi chép vào sổ giao nhận thực phẩm đầy đủ số lượng và tình trạng thực phẩm, các thực phẩm không đảm bảo không tiếp nhận. Khi giao nhận thực phẩm cô nuôi và chủ hàng phải ký nhận thực phẩm cùng chứng kiến của Ban giám hiệu nhà trường và đại diện giáo viên. Khâu bảo quản tại kho của nhà bếp phải đảm bảo vệ sinh, không để thực phẩm quá hạn, ẩm mốc, kém chất lượng.
Ví dụ: Rau xanh khi nhận vào phải tươi ngon, không dập nát, héo úa và kiểm tra kỹ tránh các loại rau có dư lượng thuốc trừ sâu.
Các loại thịt gia súc, thịt, cách chế biến các món ăn ngon từ cá trứng gia cầm khi nhập chúng tôi kiểm tra kỹ bề mặt thực phẩm bằng mắt và dùng tay ấn thử vào thịt nếu thịt có độ dàn hồi tốt (khi buông ra không để lại vết lại vết lõm tay), thịt có màu hồng sáng, thớ thịt săn, ráo mùi vị bình thường. Với cá, tôm nhận loại tươi sống, vẩy sáng trong, mang cá màu đỏ tươi….để đánh giá chất lượng thực phẩm. Nếu thực phẩm tươi, ngon mới tiến hành cân, nhận số lượng. Nếu thực phẩm có dấu hiệu lạ, không an toàn chúng tôi báo cáo ngay với ban giám hiệu không sử dụng và đổi lấy thực phẩm ngon, sạch. Kiên quyết không nhận thực phẩm không đảm bảo chất lượng vào bếp ăn.
Chúng tôi luôn tận dụng các loại quả sẵn có của địa phương tại các trang trại xung quanh để lấy các loại quả như: Bưởi ngọt, chuối tiêu, đu đủ, hồng xiêm, xoài…để cho trẻ ăn. Đây là nguồn thực phẩm đáng tin cậy và đảm bảo tươi, ngon, vệ sinh để chế biến các món ăn ngon.
Nếu thực phẩm có dấu hiệu lạ, không an toàn chúng tôi báo cáo ngay với ban giám hiệu không sử dụng và đổi lấy thực phẩm ngon, sạch.
Đọc thêm: sáng kiến kinh nghiệm mầm non
Link tải tài liệu: http://tinyurl.com/monanngonchotre